Pétrus Ký – Nhà bác
học lừng danh
Trần văn Sùng
Kính thưa Hội Đồng quản trị, Ban Giám Hiệu trường Trung tiểu học Petrus
Ký Bình Dương
Kính thưa các đàn anh là cựu học sinh Pétrus Ký
Kính thưa quý thầy cô và quý quan khách
Cùng toàn thể các học sinh Pétrus Ký thân mến
Nhân buổi họp mặt hằng năm về ngày truyền thống Pétrus Ký và kỷ niệm
175 năm ngày sinh của nhà bác học lừng danh này, tôi thật vinh dự, hôm nay
được đứng trên bục giảng của ngôi trường danh giá hàng đầu trong thành phố
TDM tỉnh Bình Dương để trình bày về thân thế sự nghiệp một bậc Thầy vĩ đại
là nhà bác học - học giả Pétrus Ký.
Nhưng trước hết cho tôi kính lời chào mừng và lời chúc sức khỏe đến
Hội đồng quản trị, Ban giám hiệu nhà trường, các bậc đàn anh là cựu học sinh
trường Pétrus Ký năm xưa, quý thầy cô, quý quan khách cùng các học sinh thân
yêu của trường chúng ta.
Kính thưa quý vị
Cụ học giả Trương Vĩnh Ký qua đời đến nay đã tròn 114 năm (1898-2012).
Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của cụ đã được nhiều thế hệ học giả xưa và nay
quan tâm nghiên cứu trên nhiều khía cạnh..
Phải chăng cái cốt lõi trong cuộc đời của cụ chính là những gì cụ
đã cống hiến cho đất nước, cho dân tộc trên mọi lĩnh vực học thuật và sáng
tạo, góp phần đổi mới nền văn hóa Việt Nam từ Hán Nôm của thời trung cận
đại sang một nền quốc học hiện đại. Do vậy tuy cụ mất đi, nhưng âm hưởng
của cụ trên lĩnh vực văn hóa vẫn còn vang vọng. Nhằm thắp lên truyền thống
hiếu học và tôn vinh cụ, một danh nhân thế giới trong thế kỷ thứ 19 để thế
hệ trẻ hôm nay, cụ thể học sinh trường Pétrus Ký chúng ta tự hào, hết lòng
cống hiến và tiếp bước. Đó là lý do tôi muốn truyền đạt ngày hôm nay.
Trước hết tôi điểm qua về
I. Thân Thế :
Học giả Pétrus Ký
Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký viết tắt Pétrus Ký, tiếng Anh
là Peter
Cụ sinh 6/12/1837, năm âm lịch Đinh Dậu là năm Minh Mạng thứ 17 tại
ấp Cái Mơn xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre và mất năm 1898, thọ
61 tuổi
Cụ là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi. Mẹ là bà Nguyễn Thị
Châu
* 5 tuổi học chữ Hán. Thông minh xuất chúng học chữ rất giỏi, đọc,
hiểu rõ nghĩa lý những sách mà mình đã học. Đó là dấu ấn đầu đời với chú bé
Trương Vĩnh Ký về đạo lý thánh hiền phương đông
* 8 tuổi mồ côi cha
1. Cố Tám cho học quốc ngữ và cải theo đạo Công Giáo nên tên thánh
là Jean Baptiste TVK
2. Linh mục Long cho học chữ La tinh ở Cái Nhum nhà Giảng vừa mới
thành lập ở Cái Nhum (1846).
* 11 tuổi 1848
Theo học Cố Hòa đang giữ chức Cai tại trường đạo Pinha-lu ở Phnom Penh
Campuchia, có các người bản xứ nên lân la học các thứ tiếng Lào, Myanam,
Tàu ...
* 13 tuổi 1851
Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có Pétrus
Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Dulama ở Pénang thuộc (Malaysia).
Đây là một trường chuyên đào tạo các tu sĩ cho vùng Viễn Đông... . Cụ học
tiếng Mã Lai, Ấn, Anh, Pháp Nhật Bản, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thái ....
* Năm 21 tuổi (1858),
Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ còn một năm nữa là tốt
nghiệp để chịu chức linh mục, thì vào lúc giữa năm, ông phải vội vàng về nước
vì được tin người mẹ hiền qua đời. Không ở được quê nhà vì thực dân Pháp xâm
chiếm VN. Đà Nẵng bị tấn công 1/9/1958 rồi Sài Gòn (ngày 17 tháng 2 năm 1859),
đến Gia Định, tiếp theo là việc mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vì thế, việc
cấm đạo công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn. Lúc ấy, Pétrus Ký phân vân rồi
quyết định không trở lại chủng viện nữa.
II Sự Nghiệp:
20/12/1860: Không ở được quê nhà là Cái Mơn,
Và để tránh bị bắt bớ, Trương Vĩnh Ký chạy lên Sài Gịn vào tá túc nhà
vị giám mục người Pháp Lefèbre, và được ơng này giới thiệu làm thơng ngơn
cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12 năm 1860.
- Năm 1861: lập gia đình, thành hôn với một khuê môn đài các Vương
Thị Thọ, con gái của hương chủ ở làng Nhơn Giang (Chợ Quán bây giờ) -
- Năm 1862 dạy tại trường thông ngôn và theo sứ thần Pháp ra Huế nghị
hòa. Năm 1863: làm thông ngôn cho sứ thần Phan Thanh Giản xịn chuộc 3 tỉnh
miền Đông Nam Kỳ nhưng do sự ngoan cố và cướp nước của thưc dân Pháp nên ta
thất bại
- Năm 1865: xin thành lập tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo
1868 : Làm chủ bút tờ "Gia Định Báo" và tờ "An Nam Chính trị và Xã hội"
- Từ 1866 đến 1868: làm Giáo sư dạy tiếng Pháp ở trường thông ngôn
Sài Gòn
- Năm 1869: làm thông ngôn cho sứ thần Tây Ban Nha ký thương ước.
* Tiêu biểu là làm thông ngôn ở Sài gòn, cho sứ thần Pháp ra Huế, cho
sứ thần Phan Thanh Giản chuộc 3 tỉnh miền Đông, cho sứ thần Tây Ban Nha
ký thương ước với triều đình Huế.
* Giáo sư dạy tại trường thông ngôn, Giáo sư dạy tiếng Việt và tiếng
Pháp. Đốc học
Chức vụ và danh hiệu:
- 1872: Tri huyện hạng nhất. Đốc học (H.Trưởng) trường sư phạm Phương
Đông
- 01/01/1874: Giáo sư dạy chữ Việt và chữ Hán cho người Pháp và Tây
Ban Nha.
- 1877: làm Ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn
- 07/05/1883: danh hiệu Viện Sĩ Hàn Lâm Viện Pháp
- Tháng 06/1886: Vua Đồng Khánh phong chức Cơ mật viện tham tá,
sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ
- 11/11/1866: Người xưa từng nĩi, "Tấn vi quan, thối vi sư". Cụ cáo
bệnh từ chức, dạy học tại trường Hậu Bổ, trường thông ngôn
Sau đó bắt đầu viết sách
Ông viết nhiều sách tới 3 chữ số thời bấy giờ ít ai làm được như :
dịch thuật, khảo cứu và sáng tác, để lại 118 tác phẩm lớn nhỏ, góp phần vào
việc phổ biến chữ Quốc Ngữ đối với dân tộc
Đó là
• Truyện đời xưa
• Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
• Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
• Tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ
• Ký ức lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận
• Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
• Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc Kỳ năm Ất Hợi, 1786)
• Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
• Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
• Lục súc tranh công
• Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng
tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
• Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
• Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
• Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
• Cours de littérature annamite (Bài giảng văn chương An Nam)
• Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng
quát Đông Dương)
• Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
• Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp), v.v
1875 : Xuất bản "Kim Vân Kiều truyện" của Nguyễn Du, "Sử Ký An Nam"
1881 : Thu thập các bài viết, cho ra đời cuốn "Chuyến đi Bắc Kỳ" năm Ất
Hợi
1884 : Xuất bản "Việt - Pháp" từ điển
1887 : Xuất bản "Việt - Pháp" từ điển lần 2
Về sách báo, biên soạn, trước tác của ông đủ mọi ngành văn hóa và trên
sự nghiệp văn học nói riêng, ông đã thành công rạng rỡ”
Nhưng về mặt khác ông cũng gặp nhiều trắc trở trên con đường chính
trị bất đắc dĩ này. Hay tin Pétrus Ký, một con người tài giỏi, sẽ ra làm
việc với Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều
toan tính, ông nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc ấy,
Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn
câu cách ngôn Latinh "Ở với họ mà không theo họ" ("Sic vos non vobis"), Mặc
dù làm việc cho thực dân Pháp, nhưng khi sưu tầm và chú thích bản Gia Định
thất thủ vịnh, Trương Vĩnh Ký vẫn gọi họ là “giặc”.
Ngày 8 tháng 11 năm 1870, ông có lời di huấn:
Và câu ghi trên cửa nhà mồ bằng tiếng Latinh: "Miseremini Mei Satem
Vos Amici Mei" (Xin hãy thương hại tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi).
Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi. Mộ của ông hiện
ở góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng Sàigòn, trong khuôn viên nhà
của ông ngày xưa ở Chợ quán.
Bình luận:
1. Nhà văn Sơn Nam:
Ông Trương Vĩnh Ký người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông
không gia nhập Pháp tịch; Đêm ngày lo đặt sách này dịch sách kia cho kẻ hậu
sinh dễ học. Thiệt là quan thầy của cả nước và Nam Kỳ...
Ông Trương vĩnh Ký còn chú ý đến độc giả bình dân, lời văn theo lời
ăn tiếng nói thông dụng lúc bây giờ. "Chuyện đời xưa" của ông hãy còn được
nhắc nhở.
2. Giáo sư Thanh Lãng:
Nhờ ông Trương Vĩnh Ký câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng
xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói tiếng An Nam ròng” và
viết “trơn tuột như lời nói”.
3. Nhà nghiên cứu Lê Thanh:
Ông suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt
Nam thuần túy
4. Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh: Nếu cụ Võ Trường Toản là "Hậu tổ" của
Nho học ở đất Gia Định thì cụ Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền của chữ quốc
ngữ trong toàn cõi đất Việt.
5. Học giả Nguyễn Văn Tố tóm tắt sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký gọn
trong 3 tiếng: Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn
6. Học giả Vương Hồng Sển:
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là hai ông minh triết bảo thân, gần
bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham "đục nước béo cò" như ai, chỉ say
đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hán, thác không tiếng nhơ, thấy
đó mà mừng thầm cho nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng
danh học trò cửa Khổng.
7. Jean Bouchot Ở cuối thế kỷ 19, học giả Pháp tên là Jean Bouchot
đã gọi Trương Vĩnh Ký là "một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho đến
ở nước Trung Hoa hiện đại nữa." Ngoài ra, ông này còn viết:
Ta phải xem đời của cụ Trương Vĩnh Ký là một bài học và một gương
tốt cho ta. Một bài học vì ta thấy người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp
với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học.
III. Lời kết:
- Thế giới vinh danh cụ: thứ 17 trong 18 (thập bát) văn hào thế giới thế
kỷ thứ 19.
- Cụ là nhà giáo dục học, ngôn ngữ học, nhà khảo cứu văn hóa tiêu biểu
bậc nhất VN.
- Số đầu sách gồm 3 chữ số: 118 tác phẩm văn học: lịch sử, địa lý, từ điển,
dịch thuật.
- Cụ là ông tổ chữ quốc ngữ và tổ nghề báo. Cụ được ghi tên vào bách khoa
Từ điển Larousse và Giáo sư Viện sĩ Pháp. Thông thạo trên 20 ngoại ngữ..
Qua thân thế, sự nghiêp Cụ Pétrus Ký, cùng các nhận định của các nhà
phê bình, các học giả ở trên, cho ta thấy Cụ là tấm gương của lòng yêu nước
thương dân, muốn đem tinh hoa của xứ người để khai hoá và giúp đỡ dân tộc
mình. và tính cách của cụ - một con người đi khai hóa nhưng không bị đồng
hóa, ông nói viết tiếng Tây nhưng lúc nào ông cũng áo dài khăn đóng, chỉn
chu của một người Việt Nam lúc bấy giờ. Có thể nói ông là một tấm gương
tiêu biểu cho thời đại mở cửa, đổi mới ngày nay Sự nghiệp cống hiến và con
người của ông thật vĩ đại.
Vậy chúng ta và thế hệ sau này phải làm gì để tưởng nhớ và vinh danh
ông - một nhà bác học, nhà thông thái lỗi lạc. Một trong thập bát văn hào
thế giới. Được ghi tên trong Bách Khoa từ diển Larousse.
Thời Pháp, tưởng nhớ ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã
mặc quốc phục, đầu bịt khăn đóng, tay cầm quyển sách, tượng đặt trong khuôn
viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh Độc Lập.
Tại Sàigòn, trước 1975 Bộ Giáo Dục dành một trường Trung Học lớn mang
tên ông, Trường Trương Vĩnh Ký nằm cạnh Trường Đại Học Khoa Học Sàigòn. Và
xin nói thêm các cựu học sinh của trường Trương Vĩnh Ký xưa cũng đang có
mặt tại đây.
Ngày nay, tại quê hương cụ, Cái Mơn, ngoài nhà và bia tưởng niệm cụ,
năm 2009, trường trung học Chợ Lách được đổi lại tên THPT Pétrus Trương Vĩnh
Ký.
Tại TPHCM, một con đường ở quận Bình Tân được mang tên ông. Hơn thế
nữa trong Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 tập 2 trang 37 có bài dạy về nhà
thông thái Petrus Ký.
Và tại mảnh đất Bình Dương thân yêu này, chúng ta thật vinh dự và
tự hào có một ngôi trường mang tên ông - trường Trung Tiểu học Pétrus Ký
Bình Dương.
Là học sinh Pétrus Ký Bình Dương, mong các em hãy noi gương Người :
Học tập chuyên cần - Hết lòng cống hiến, và luôn xứng đáng là học trị của
ngơi trường mang tên một danh nhân thế giới.
Vì thời gian có hạn, tôi xin dừng lại nơi đây.
Xin trân trọng cám ơn và kính chào quý vị
Cám ơn BGH nhà trường và toàn thể các em học sinh thân yêu của trường Pétrus
Ký Bình Dương chúng ta.
******
BÀI TÓM TẮT CHO HỌC SINH
Về học giả Pétrus Ký
I. Thân thế :
Học giả Pétrus Ký tên thật là Trương Minh Ký sinh ngày 6/12/1837 tại
ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách tỉnh Bến Tre
Cha là ông Trương Chánh Thi và mẹ là Nguyễn Thị Châu. Ông mồ côi cha
lúc lên 8 tuổi. Mẹ tần tảo nuôi và cho cải đạo Công giáo nên đổi chữ lót với
tên thánh là Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký viết tắt là Pétrus Ký. hiệu
Sĩ Tãi.
Vốn thông minh mẫn tuệ, ham học nên 5 tuổi học chữ Hán với thầy tên
là Thầy Học ở trong xóm dạy. Ông học đâu nhớ đó nên hiểu được Luận Ngữ, Tứ
thư Ngũ Kinh....Sau khi cha qua đời, một bất hạnh lớn trong đời ông, nhưng
không nhục chí, lại vượt lên chính mình
8 tuổi: Cố Tám cho ông học chữ quốc ngữ. Sau khi Cố Tám mất, Linh
mục Long dạy chữ La Tinh vì thấy ông thông minh ham học và cho ở nhà giảng
Cái Nhum.
11 tuổi : Theo Cố Hòa ở trường dòng Pinha-Lu ở Campuchia. Ông lân
la học các ngôn ngữ Miên, Lào, Myanma,Tàu v.v...
13 tuổi: 1851, ông học xuất sắc nên được chọn đi học trường dòng Dulama
ơ Pénang (Malaysia) để thành tu sĩ công giáo. Ông lân la bạn bè học tiếng
Mã Lai, Ấn,độ, Anh, Pháp, Nhật, Tây Ban Nha, Thái Lan, Hy Lạp v.v...
21 tuổi (1858) :chỉ còn 1 năm là thành linh mục nhưng ở giữa năm thì
hỡi ơi, mẹ hiền mất, ông vội vàng về nước để thọ tang mẹ.
II. Cộng tác với Pháp, nhưng vẫn giữ gìn phẩm chất:
Về nước gặp lúc thức dân Pháp xâm lược, tấn công Đà Nẵng 1/9/1858,rồi
Sài gòn, Gia Định, tiếp theo là mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Trong lúc phân
vân, ông quyết định không trở lại chủng viện, lên Sài gòn làm thông ngôn với
sở học sẵn có để kiếm sống.
24 tuổi (1861) : lập gia đình với một khuê môn đài các là cô Vương
Thị Thọ con ông hương chủ làng Nhơn Giang (Chợ Quán).
Năm sau 8/5/1862 ông được Pháp cho dạy tại trường thông ngôn mới
thành lập. Ông theo sứ thần Pháp Simo ra Huế để nghị hòa (hòa ước 1862)
Năm 1863, triều đình Huế cử ông theo sứ thần Phan Thanh Giản sang
Pháp để chuộc 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ nhưng do thực Pháp ngoan cố nên thất
bại. Dịp này ông được gặp vua Napoléon đệ tam, gặp nhiều nhân vật tên tuổi
thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ông sang thăm Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha...
Năm 1865 Ông xin lập tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo . Nhưng
mãi tới năm 1869 mới có nghị định với chủ nhiệm là ông và ông Huỳnh Tịnh
Của làm chủ bút.
Từ năm 1866 đến 1868 là giáo sư trường thông ngôn ở Sài gòn.
Năm 1869 thông ngôn cho sứ thần Tây Bán Nha, ký thương ước triều
đình Huế
III. Chức vụ và danh hiệu
1872 : Pháp thăng ông chức tri huyện hạng nhất (hàm), Bổ dụng Đốc học
trường Sư phạm dạy tiếng phương Đông kiêm chức Thư ký Hội đồng châu thành
Chơ Lớn.
Ngày 1/1/1874 lãnh chức giáo sư dạy chữ Việt cho người Pháp và Tây
Ban Nha ở trường Hậu bổ rồi là Chánh đốc trường này. Cũng trong 1874 Pétrus
Ký được bình chọn thứ 17 trong 18 "Tthế giới thập bát văn hào"
Năm 1877 Hội viên Hội đồng cai trị Sài gòn
Ngày 17/5/1883 Hàn lâm viện Pháp phong ông là Viện Sĩ (Officer d'Académie)
Đầu tháng 6 năm 1883 ông được vua Đồng Khánh phong chức Cơ mật viện
Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.
Tháng 1 năm ấy 1883 Paul Bert làm khâm sứ Bắc, Trung kỳ bị bệnh chết.
Ông bị phe không cùng cánh bạc đãi, triều đình Huế nghi kỵ trù dập. Ông cáo
bệnh từ chức về dạy học tại trường Hậu Bổ và viết sách cho hậu thế soi chung.
Viết 118 quyển sách :
Các sách tiêu biểu là:
• Truyện đời xưa
• Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
• Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
• Tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ
• Ký ức lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận
• Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
• Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc Kỳ năm Ất Hợi, 1786)
• Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
• Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
• Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
• Cours de littérature annamite (Bài giảng văn chương An Nam)
• Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp), v.v
Nhận định và lời kết :
- Thế giới vinh danh cụ: thứ 17 trong 18 (thập bát) văn hào thế giới thế
kỷ thứ 19.
- Cụ là nhà giáo dục học, ngôn ngữ học, nhà khảo cứu văn hóa tiêu biểu
bậc nhất VN.
- Số đầu sách gồm 3 chữ số: 118 tác phẩm văn học: lịch sử, địa lý, từ điển,
dịch thuật.
- Cụ là ông tổ chữ quốc ngữ và tổ nghề báo. Cụ được ghi tên vào bách khoa
Từ điển Larousse và Giáo sư Viện sĩ Pháp. Thông thạo trên 20 ngoại ngữ.
Qua thân thế, sự nghiêp Cụ Pétrus Ký, cùng các nhận định của các nhà
phê bình của các học giả ở trên, cho ta thấy Cụ là tấm tấm gương của lòng
yêu nước thương dân, muốn đem tinh hoa của xứ người để khai hóa và giúp đỡ
dân tộc mình. và tính cách của cụ - một con người khai hóa nhưng không bị
đồng hóa, ông nói viết tiếng Tây nhưng lúc nào ông cũng áo dài khăn đóng,
chỉn chu của một người Việt Nam lúc bấy giờ. Có thể nói ông là một tấm gương
tiêu biểu cho thời đại mở cửa, đổi mới ngày nay :
Sự nghiệp cống hiến và con người của ông thật vĩ đại. Ngày nay, tại
quê hương của cụ ấp Cái Mơn, ngoài nhà bia tưởng niệm cụ, năm 2009, trường
trung học Chợ Lách được đổi lại tên THPT Pétrus Trương Vĩnh Ký.
Tại TPHCM, một con đường ở quận Bình Tân được mang tên ông. Hơn thế
nữa trong Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 tập 2 trang 37 có bài dạy về nhà
thông thái Pétrus Ký. Và tại mảnh đất Bình Dương thân yêu này, chúng ta thật
vinh dự và tự hào có một ngôi trường mang tên ông - trường Trung tiểu học
Pétrus Ký Bình Dương.
Là học sinh Pétrus Ký Bình Dương, mong các em hãy noi gương Người :
"Học tập chuyên cần - Hết lịng cống hiến", và luôn xứng đáng là học trị của
ngôi trường mang tên một danh nhân thế giới.
Người viết : Thầy Trần Văn Sùng
(07/12/2012)
Kính viếng
Học Giả
Pétrus Trương Vĩnh Ký
Hôm nay đi miền Tây
Về nơi sinh học giả
Trong lòng bao rộn rã
Xe tới đoàn lên ngay
Quê Người tận Cái Mơn
Nơi du lịch sinh thái
Ở trên Cù Lao Minh
Đầy kiểng hoa cây trái
Tới Căn cứ Quân khu
Của T Bốn, Y Tư *
Di tích đang trùng tu
Rồi vườn cây kiểng thú
Đến nhà thờ Cái Nhum
Lớn bậc nhất Miền Nam
Gần đó bia tưởng niệm
Một cuộc đời thánh thiện
Năm một bảy tám hai (1872)
Xây dựng nhà thờ này
Sáu chuông từ Pháp đến
Tháp cao chín tầng mây
Nhà thờ tôn giáo này
Đa phần dân cầu nguyện
Cổng nhà thờ đối diện
Bia tưởng niệm của Người
Một trong thập bát vị
Trong thế kỷ mười chín (19)
Cả thế giới tôn vinh
Hăm sáu (26) ngoại ngữ rành
Mảnh đất Cù Lao Minh
Có người con xứng đáng
Ngôi sao Khuê tỏa sáng
Pétrus Ký quang vinh
Đến đây xin nghiêng mình
Thắp hương người kính trọng
Thế hệ trẻ hy vọng
Quyết chí noi gương Người !
*T bốn, Y tư là khu di tích cấp quốc gia, được công nhận ngày 23/12/1995.
Đây là căn cứ Quân khu ủy Sài gòn - Gia Định những năm 1969-1970 còn gọi
là T 4, Y 4. Cách thành phố Bến Tre 14 km, hiện đang trùng tu, khánh thành
giai đoạn 1 vào ngày 28/4/2012.
Vĩnh Xuyên (1/12/2012)
Bài 1 :
KÍNH VIẾNG NHÀ MỒ
HỌC GIẢ PÉTRUS KÝ
Nhà mồ Pétrus thật uy nghi
Kính viếng hiền tài bậc trí tri
Ngôn ngữ Đông Tây trao luyện học
Móng nền Quốc Ngữ quyết tôn suy
Lẫy lừng bốn biển bao người trọng
Nức tiếng năm châu khó ai bì
Ở với họ mà không với họ *
Công lao học giả nước nhà ghi./.
*Ông mượn câu cách ngôn La Tinh:
"Sic vos non vobic"
(Ở với họ mà không theo họ)
Bài 2
HỌC SINH PÉTRUS KÝ
NGUYỆN NOI GƯƠNG TỔ
Học giả Pétrus sống cõi trần
Thương nhà yêu nước vẹn tình thâm
Thông minh hiếu học ngời danh vọng
Mẫn tuệ chuyên cần nức tiếng tăm
Phẩm hạnh tuyệt vời trang tuấn kiệt
Tâm hồn trong sáng bậc hiền nhân
Vào trường Pétrus noi gương Tổ
Rèn đức luyện tài quyết học chăm
Vĩnh Xuyên (1/12/2012)
CA NGỢI NHÀ BÁC HỌC
TRƯƠNG VĨNH KÝ
Cách đây hai thế kỷ
Ở xứ cù lao Minh
Hiền tài Trương Vĩnh Ký
Làm rạng danh nước mình
Thông minh từ thuở nhỏ
Học hành rất siêng năng
Vượt qua nhiều khốn khó
Gian lao quyết đạp bằng
Biết hăm sáu ngoại ngữ
Tác phẩm viết hơn trăm
Một trong mười tám vị
Bác học lừng tiếng tăm
Năm châu cúi đầu chào
Bốn biển nghiêng mình kính
Thế kỷ thứ mười chín
Việt Nam quá tự hào
Xin đội ơn công đức
Người cha Trương Chánh Thi
Xin đội ơn dưỡng dục
Người mẹ Nguyễn Thị Châu
Sanh tặng đời hồng phúc
Ngôi sao sáng diệu kỳ
Vinh danh Pétrus Ký
Ai con Rồng cháu Tiên
Cùng thắp hương tưởng niệm
Cùng chung lòng tâm nguyện
Đi theo bước thánh hiền
Rạng rỡ giống Rồng Tiên
An Điền ngày 6/12/2012
Nguyễn Thị Hương
CLB thơ Bến Cát
Đặc San Pétrus Bình Dương
Chúc mừng Xuân Quý Tỵ
Chào mừng Quý Tỵ đón xuân sang
Pétrus Bình Dương kính mấy hàng
Ra sức chuyên cần đem kết quả
Hết lòng chăm chỉ đạt vinh quang
Giao lưu học hỏi lòng phơi phới
Học tập luyện rèn chí vững vàng
Đặc san kỷ niệm chân thành chúc
Trường ta đội ngũ phước an khang (*)
(*) Nói chung: HĐ quản trị, BGH, Thầy Cô, học sinh...
Vĩnh Xuyên kính đề