Sứ thần tài hoa
(theo báo Thanh Niên)


Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) là một danh thần thời Nguyễn Ánh mới khởi nghiệp đồ vương. Lăng mộ của ông hiện nằm trong một con hẻm nhỏ thuộc P.Trung Dũng, Biên Hòa, Đồng Nai.

Đem thân đền ơn nước

Lăng mộ nằm trong khu vực khu phố 3, tuy khuất trong khu dân cư, cạnh con hẻm nhỏ nhưng vẫn tạo được sự chú ý của người qua đường bởi quy mô hoành tráng, bề thế… Nghe nói trước năm 1975, hằng năm vào dịp lễ Thanh minh, con cháu hậu duệ của Trịnh Hoài Đức từ nhiều nơi quy tụ về cúng viếng rất trang trọng nhưng về sau không còn duy trì.

 
Lăng mộ Trịnh Hoài Đức và phu nhân tại Biên Hòa, Đồng Nai - Ảnh: H.Đ.N

Năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm miền đất Biên Hòa - Đồng Nai, mộ Trịnh Hoài Đức được trùng tu, tôn tạo, những ngôi nhà dân xâm phạm di tích được giải tỏa, lăng mộ được bảo vệ bằng tường thành bờ bao chắc chắn, nhưng khi chúng tôi đến thăm (cuối năm 2012), người quản trang là một cựu chiến binh đã dẫn chúng tôi đi một vòng để thấy bờ tường có dấu hiệu bị nghiêng, nứt lún ở góc bên phải lăng mộ. Hai ngôi mộ chính (của Trịnh Hoài Đức và phu nhân họ Lê) vẫn giữ được kết cấu nguyên thủy: xây bằng đá ong tô hợp chất, nấm mộ hình voi phục, xung quanh có gờ hình móng ngựa. Phía trước mộ ông có bia đá, khắc câu đối:

“Trí thân tòng hứa quốc
Đáo xứ tiện thành gia”
(Đã đem thân đi đền ơn nước
Thì nơi đâu cũng có thể xem là nhà)

Phía trước cổng vào mộ cũng có bức bình phong lớn khắc chữ Hán ghi vắn tắt phẩm tước của Trịnh Hoài Đức và phu nhân. Thời gian và người lập bia cũng được ghi rõ: “tháng 11 năm Ất Dậu, các con là Trịnh Thiên Lễ Nhiên, Trịnh Thiên Nhiên Bảo và Trịnh Thiên Bảo phụng lập”.


Trịnh Hoài Đức sinh năm 1765, tự là Chi Sơn, hiệu là Cấn Trai. Tổ tiên ông vốn là người Phúc Kiến (Trung Quốc). Khi nhà Thanh thay nhà Minh, vì không chịu thần phục Thanh triều nên ông nội của Trịnh Hoài Đức đưa con cháu sang Việt Nam lập nghiệp. Cha Trịnh Hoài Đức kết hôn với một người Việt và sinh ra Trịnh Hoài Đức nhưng khi người con mới 10 tuổi thì ông bố mất. Mẹ ông là người đảm đang, đã dắt con đến thọ giáo thầy đồ Võ Trường Toản. Tại lớp học của thầy, Trịnh Hoài Đức có  hai bạn học là Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh. Cả ba đều nổi tiếng về văn chương, thi phú. Họ lập nên Bình Dương thi xã cùng nhau xướng họa không thua kém gì Chiêu Anh các do Mạc Thiên Tứ lập ra tại miền Hà Tiên. Người đương thời rất nể phục ba ông, họ gọi là Gia Định tam gia. Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh mở khoa thi ở Gia Định, cả ba ông đều ứng thí và cùng đỗ đạt.


Con đường hoạn lộ của Trịnh Hoài Đức thênh thang từ đó. Ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy cai trị của nhà Nguyễn, có lúc được cử làm thượng thư của cả hai bộ: Lại (nội vụ) và Binh (quốc phòng). Nhiều lần, ông được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc.


Trong lần đi sứ đầu tiên nhân vua Gia Long lên ngôi (1802), ông có làm tập thơ Quan quang tập (tức Bắc sứ thi tập - trong Cấn Trai thi tập), mà theo thạc sĩ Lê Quang Trường (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) đã toát ra được phong thái ung dung tao nhã của một sứ thần Việt Nam trong giao tế, đối đáp với các nhân sĩ Trung Quốc bằng sự tự hào dân tộc, đồng thời cũng nói lên tâm sự của một sứ thần người Việt gốc Hoa đã sinh ra, chịu ơn và thấm nhuần đạo lý văn hóa của dân tộc Việt tại mảnh đất miền Nam. Trịnh Hoài Đức còn ứng xử khéo léo đối với triều đình Mãn Thanh khi họ không chịu phê chuẩn quốc hiệu, còn với tư cách một văn sĩ khi giao lưu với các nhân sĩ Trung Hoa ông lại tỏ ra rất tài hoa và lịch thiệp. Trong bài Sứ hành tự thuật, Trịnh Hoài Đức còn nói đến sự ứng biến của ông khi nói tiếng Quảng Đông, khi nói tiếng Bắc Kinh, và chuyện ông phải để râu để giữ gìn quốc thể.


Nguồn gốc “Nông Nại đại phố”


Hiện nay chúng ta vẫn hay nghe mấy từ cổ “Nông Nại đại phố” để chỉ miền Cù lao Phố (Đồng Nai) mà không biết xuất xứ, thì ở đoạn chú thích từ một bài thơ trong tập thơ Quan quang tập, chúng ta mới hiểu ra: “Sứ đoàn đến tỉnh Hồ Nam, gặp mặt quan Tuần phủ Cao Kỷ, sau khi nói chuyện xong, Cao cầm lòng tay tôi, xem tướng chỉ tay, nhân hỏi rằng: Sứ bộ là người Nông Nại, cái tên Nông Nại ấy, xưa nay chưa từng nghe thấy, nay xem cách đi đứng nói năng của đoàn sứ bộ, thật là những người có văn hóa, giống với phong tục của Trung Quốc, so với sứ giả trước đây từ An Nam đến thật khác xa, ngỡ rằng Nông Nại là một nước xưa nào khác, văn học, phong tục, cương vực, thổ sản thế nào? Tôi bèn nói rành rọt hết, được đãi trà rồi lui. Thành Gia Định, thường gọi là Đồng Nai, thổ âm Quảng Đông gọi là Nông Nại. Đến khi quan Khổn thần là Tuần phủ Quảng Đông hỏi thăm biết được duyên cớ, khi lên đường, ông viết tấu là đoàn sứ nước ta là người Nông Nại, không phải là người Giao Chỉ An Nam như trước đây, cho nên những nơi sứ bộ đến, từ kinh, tỉnh, phủ, huyện đến sĩ dân, quan lại kiểm tra đều vì điều ấy mà tiếp đãi rất chu đáo, mà cái tên Nông Nại cũng được ghi chép vào sử quán vậy”.


Trịnh Hoài Đức mất năm 1825, thọ 61 tuổi. Vua Minh Mạng hết sức thương tiếc, truyền nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông chức Thiếu bảo Cần chánh Đại học sĩ, ban tên thụy là Văn Khác, phái hoàng thân Miên Hoằng đến nhà riêng tế lễ lại cho đưa linh cữu về Gia Định như nguyện vọng của ông. Ngày đưa tang, lại cho 400 lính Thần sách hộ tống linh cữu ra bến sông Hương. Về đến Gia Định, quan Tổng trấn là Lê Văn Duyệt thân hành đón tiếp và tế lễ, sau đó Lê Văn Duyệt còn hộ tống linh cữu về chôn cất ở quê mẹ ông - làng Bình Trước (dinh Trấn Biên, tức Biên Hòa ngày nay).


Trong kho tàng trước tác đồ sộ của Trịnh Hoài Đức thì Cấn Trai thi tập và Gia Định thành thông chí là đặc biệt có giá trị. Riêng bộ Gia Định thành thông chí (6 quyển) được coi là bộ sách được viết sớm nhất, đầy đủ nhất về địa hình, sông núi, cương vực, văn hóa phong tục, sản vật, giao thông, thành trì của xứ Đồng Nai - Gia Định trong thời đầu mở nước. Ngay khi người Pháp nhòm ngó đất Nam kỳ, họ đã dịch Gia Định thành thông chí ra tiếng Pháp (1863) để tìm hiểu và theo dõi.