PHAN
THANH GIẢN
MỘT NHÂN CÁCH LỚN
và BI KỊCH CUỘC ĐỜI
Lê Đức Cửu
Ngay khi còn niên thiếu, được đọc lịch sử nước
nhà, tôi rất tôn kính và ngưỡng mộ cụ
Phan Thanh Giản. Lúc đó tôi chưa biết nhiều về sự
nghiệp của cụ, nhưng phẩm cách rạng ngời và hoàn
cảnh bi thương của cụ khiến tôi cảm kích xúc động
vô cùng.
Sau này, có lẽ là do cơ duyên,
tôi được bổ nhiệm về dạy tại trường Trung học Phan Thanh Giản Cần
Thơ, một ngôi trường nổi tiếng của miền Nam và cũng
là ngôi trường đầu tiên trong cuộc đời dạy học của
tôi với biết bao kỷ niệm êm đềm :
“Trăng phương Nam
Sáng tỏ khắp bờ Cửu Long
Nước chảy con thuyền xuôi dòng
Vẳng tiếng khoan hò ấm lòng”
Anh Hoa ( Trăng phương Nam)
Vì thế, cách đây hơn 30 năm, có dịp về
thăm Bảo Thạnh (Bến Tre), quê hương của cụ Phan, tôi
không khỏi se lòng khi trông thấy khu di tích
lăng mộ cụ có vẻ hoang sơ và đền thờ xuống cấp hư
nát nặng nề. Và hôm nay, dù hiểu biết
còn hạn chế, tôi cũng muốn được trình bày
một số suy nghĩ và tấm chân tình của tôi về
nhân vật lịch sử vĩ đại này.
1. Cụ Phan thuở thiếu thời nhà nghèo nhưng
là người con rất hiếu thảo và hiếu học, siêng năng
cần mẩn. Vì bị vu cáo, cha là Phan Thanh Ngạn bị
tù oan, Phan Thanh Giản đã xin chịu tù thế cha.
Thấy cụ là người con hiếu, quan Hiệp Trấn Vĩnh Long đã an
ủi và hết lòng giúp đỡ. Hàng ngày,
cụ vào khám thăm cha, làm những việc cực nhọc của
cha phải làm và vẫn chịu khó chuyên cần học
tập.
Siêng năng cần mẫn lại thông minh hơn người, Phan
Thanh Giản đã vượt qua những khó khăn của cuộc sống
và đỗ Tiến sĩ năm 1826 và là vị Tiến sĩ đầu
tiên của Nam Kỳ lục tỉnh. Phẩm giá con người và sự
thành đạt vẻ vang khiến nhân dân Nam Kỳ quý
mến, ngưỡng mộ và rất tự hào về người con của quê
hương mình. Đó là những phẩm chất tốt đẹp thời
tuổi trẻ của cụ và vẫn còn giữ nguyên giá
trị trong việc giáo dục trẻ hôm nay cũng như ngày
mai.
Quốc triều hương khoa lục chép : “Ông là người
đổ đại khoa đầu tiên của Nam Kỳ, là người có học
vấn và đức hạnh, đứng đầu đất Nam trung”.
2. Ra làm quan, trải thờ ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức, cụ nổi tiếng cương trực, thanh liêm, hết lòng
vì dân vì nước.
• Gặp việc cần nói thì nói,
không sợ mất chức. Đại Nam Chánh Biên chép về
Phan Thanh Giản : “Ngộ sự cảm ngôn” nghĩa là “gặp việc
dám nói”. Năm 1836, vua Minh Mạng muốn ngự giá
tuần thú Quảng Nam và mấy tỉnh phía Nam Ngũ
Hành Sơn, cụ đang làm Bố Chánh tỉnh này,
dâng sớ can ngăn, tâu rằng : “Hạ dân nghe ngự
giá sắp vào đều có lòng vui. Nhưng bốn tỉnh
trời hạn, đồng khô lúa chết, gạo mắc… đã biết vua
ngự thì… tất nhiên phải bắt dân phu với lính…
như thế dân phải bỏ việc tư lo việc công… xin bệ hạ
đình chỉ ngự giá, đợi đến khi trời đất khí
hòa, mùa được dân no. Xin bệ hạ thẩm xét.”
Thế là vì thương dân và trung trực, cụ
bị giáng xuống làm lục phẩm thuộc viên, lo việc
quét dọn bàn ghế tại công đường tỉnh Quảng Nam,
nhưng cũng chính vì thế mà danh tiếng càng
lẫy lừng, dân gian càng kính phục.
Năm Tự Đức thứ năm (1852), cụ cùng với Nguyễn Tri Phương
dâng sớ điều trần 8 việc chính trị như : xin vua cẩn thận
các việc chơi bời, xin đừng ham coi hát xướng, xin xa
tránh những kẻ thấp hèn, xin chuộng điều tiết kiệm, bớt
việc lãng phí xa hoa mà thương xót cho
dân, giữ gìn đất nước…
Mấy lời tâu ấy thật có phật ý thánh
hoàng, song vua Tự Đức cũng khen là có lòng
ngay vua, thương nước, lại ban thưởng cho một tấm kim khánh,
có khắc 4 chữ “Liêm, bình, cần, cán”.
• Làm quan đại thần của triều đình
mà phu nhân ở nhà phải ăn ở cần kiệm, trồng
bông dệt vải mà mặc, cấy lúa tỉa rau mà ăn;
nhà thờ tổ tiên thì bằng cột mắm, phên tre
và đến khi chết thì ở trong một túp lều tranh. Vua
Tự Đức biết cụ làm quan to mà vẫn nghèo nên
thường hoặc tăng bổng hoặc thưởng riêng.
Dưới triều Minh Mệnh, khi đi sứ Tàu về, cụ đem những tặng
phẩm của vua quan Tàu tặng dâng lên vua xem,
món nào cho phép lấy cụ mới lấy.
3. Học rộng tài cao, làm quan to nhưng cụ lại
là người cực kỳ khiêm tốn :
• Khi làm Kinh Lược Sứ Nam Kỳ, dù
không phải là học trò cụ Võ Trường Toản,
nhưng cụ Phan vẫn coi cụ Võ như bậc sư bá và hết
lòng tôn kính. Khi mất 3 tỉnh miền Đông,
vì không muốn hài cốt của bậc lương sư nằm
trên đất giặc, cụ đã cho di dời từ làng Hòa
Hưng (Gia Định) về làng Bảo Thạnh (Bến Tre). Và năm 1867,
đích thân cụ Phan soạn bài văn bia. Cuối bài
văn bia này, cụ không dám ghi học vị Tiến sĩ
và chức tước đại thần của mình, mà chỉ kính
cẩn khiêm cung viết : “Vãn sinh Phan Thanh Giản huân
mộc cẩn minh” nghĩa là “người học trò lớp sau là
Phan Thanh Giản, trước tắm gội, kính cẩn ghi bài minh”.
Điều đó cho thấy đức tính cực kỳ khiêm tốn cũng như
tấm lòng vô cùng tôn kính cụ Võ
của quan Kinh Lược Sứ Nam Kỳ.
• Trước khi nhắm mắt lìa đời, cụ dặn lại
con cháu bỏ hết chức tước và học vị, mà chỉ ghi
trên minh tinh chín chữ : “Hải nhai lão thư sinh
tính Phan chi cữu” nghĩa là : “ Quan tài của người
học trò già họ Phan ở nơi góc biển”.
Thi đỗ Tiến sĩ, mà là vị tiến sĩ đầu tiên của
Nam kỳ, làm quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Kinh Lược Đại Thần của
triều đình mà khi mất chỉ ghi là “học trò
già nơi góc biển”. Đức tính khiêm tốn của cụ
thật là hiếm có ở đời.
• Thực hiện đúng ý nguyện của
người xưa, hiện nay trên mộ bia cũng chỉ thấy ghi : “Nam Kỳ hải
nhai lão thư sinh Phan công chi mộ” nghĩa là “Mộ
của người học trò già Phan công ở nơi ven biển Nam
kỳ”
4. Cuối đời cụ, năm 1867, thực dân Pháp quyết chiếm
nốt ba tỉnh miền Tây. Tình hình đất nước cực kỳ
khó khăn bi thảm; chiến hòa, tiến thoái lưỡng nan :
“ Mệnh trời thế, đành không sao cải mệnh
Thấu cơ trời thêm nát dạ trượng phu”
“ Gặp thời thế thế thời phải thế” , cụ đành để mất ba tỉnh
miền Tây Nam kỳ : Vĩnh Long, An Giang và Hà
Tiên rồi cụ nhịn ăn , uống thuốc độc tự tử để đền ơn vua nợ nước.
Đó là bi kịch của cuộc đời cụ và cũng là bi
kịch của lịch sử.
• Cụ đã nêu cao tấm gương
khí tiết rạng ngời, như Võ Tánh và
Ngô Tùng Châu năm xưa tử tiết ở thành
Bình Định (1801 ), và sau này như Tổng Đốc Nguyễn
Tri Phương rồi Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết khi thất thủ
Hà Thành (1873 và 1882) :
“ Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết, ngọn quang minh hun
mát tấm trung can.
Chỉ non sông giã với cô thành,
chén tân khổ nhấp ngon mùi chính khí”
( Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ
Tánh và Lễ bộ Thượng thư Ngô Tùng Châu
)
Và
“ Thử thành quách, thử giang sơn, bách
chiến phong trần dư xích địa.
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng
thanh thiên”
( Câu đối ở đền “ Trung Liệt” thờ Nguyễn Tri Phương
và Hoàng Diệu trên gò Đống Đa)
Nghĩa là :
“ Kìa thành quách, kìa non
sông, trăm trận phong trần còn thước đất.
Là trời sao, là sông núi, mười năm
tâm sự với trời xanh”
• Người xưa có câu :
“ Khảng khái cần vương dị,
Thung dung tựu nghĩa nan”
Nghĩa là :
Hăng hái giúp vua (thì) dễ
Thung dung đạt việc nghĩa (thì) khó”
Thật ra khảng khái “cần vương”, xông pha xả
thân nơi trận tiền cũng là điều khó và rất
đáng khâm phục, nhưng còn có sự hỗ trợ từ
bên ngoài và của nhiều người, còn như “
thung dung tựu nghĩa” là một cuộc chiến nội tâm, một
mình một bóng nên càng khó khăn
và đáng trân trọng hơn chăng, đúng như lời
dạy của cổ nhân : "Thắng một vạn quân giặc không bằng
tự thắng lấy mình".
• Cách hành xử cao đẹp này
vẫn còn giữ nguyên giá trị và mang
tính thời sự nóng bỏng trong thời đại ngày nay.
5. Như thế, cụ Phan Thanh Giản không phải là
người tham sinh úy tử, mãi quốc cầu vinh. Nhưng năm 1868,
vua Tự Đức và triều đình đổ hết tội lỗi cho cụ về việc để
mất Lục Tỉnh Nam Kỳ nên xử án “ trảm hậu”, truy đoạt
chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ. Nhưng 18 năm
sau, vua Đồng Khánh lại khai phục nguyên hàm,
khôi phục phẩm hàm chức vụ cũ và cho khắc lại
tên cụ ở trên bia, đồng thời hết lời ca ngợi công đức
của cụ và bày tỏ tấm lòng tiếc thương vô hạn
:
“ Tuyển tập Lương Khê thật là tuyệt diệu
Danh tiếng ngươi còn truyền tụng ở Quỳnh uyển
Phẩm vọng ngươi cao như núi Thái sơn, rộng lớn khắp
ba triều
Văn chương ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao
nhất một đời…
Than ôi, xem bản văn cất ở chốn Thanh Hiên, bùi
ngùi nhớ lại phong cách ngươi khi xưa.
Theo dõi cuộc đời thanh bạch của ngươi khi làm việc
tại Hoàng Các, hận rằng chẳng đặng sống đồng thời”
( Khai phục Hiệp tá Đại học sĩ Phan Thanh Giản cáo
văn)
Cụ cũng được phong thần hai lần: lần thứ nhứt sắc phong thần ở
làng Tương Bình Hiệp, tỉnh Thủ Dầu Một của vua Khải Định
năm 1924 và lần thứ hai ở thôn Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long của
vua Bảo Đại năm 1933.
6. Ngày nay, sau một thời gian khá dài
bị lên án nặng nề, cuối cùng, qua nhiều cuộc
hội thảo và tranh luận, tất cả cũng đã đi đến nhất
trí: “ Không nên và không thể
gán cho ông cái tội ‘bán nước’ hay ‘ phản
bội tổ quốc’. Đó là sự quy kết khá nặng nề,
không có căn cứ, vừa không đúng với
hành động và động cơ của ông, vừa trái với
tấm lòng ngưỡng mộ và kính mến mà
nhân dân, quê hương vẫn dành cho ông.” (
Phan Huy Lê- Phan Thanh Giản: con người, sự nghiệp và bi
kịch lịch sử)
Khu di tích lăng mộ và đền thờ cụ hiện nay cũng được
trùng tu, tôn tạo khang trang và một trường Trung
học phổ thông ở quê hương cụ được vinh dự mang hiệu danh
Phan Thanh Giản.
Thật rất đáng mừng và đó chính
là sự công minh và công bình của lịch
sử muôn đời đối với một con người tài năng, khiêm
tốn, hiếu thảo, cương trực, tiết tháo, thanh liêm
và hết lòng vì dân vì nước.
Và xin được mượn bài thơ “Điếu Phan Thanh Giản” của
cụ Nguyễn Đình Chiểu để kết thúc ở đây :
“Non nước tan tành, hệ bởi đâu
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao Châu
Ba triều công cán, vài hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường, một gánh thâu
Ải Bắc ngày trông tin nhạn vắng
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thâu”
Tháng 3/2012
Lê Đức Cửu
Cựu giáo sư Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ và
Trịnh Hoài Đức Bình Dương