Nhà cổ ở Bình Dương
Tháng Năm 7, 2009 bởi khanhhoathuynga
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Cấu
trúc địa chất cơ bản là vùng bán sơn địa
nhưng có nhiều dạng địa hình tự nhiên như đồi
gò, đồng bằng, sông ngòi, rừng nguyên sinh…
Nơi đây là vùng đất lý tưởng vì sự đa
dạng về thổ nhưỡng và môi trường sinh thái: vừa
giàu có về rừng cây gỗ quý nổi tiếng một
thời, vừa có chất đất thuận lợi để trồng cây công
nghiệp và có cả đồng bằng phù sa màu mỡ.
Trên vùng đất trù phú được thiên
nhiên ưu đãi nên nhìn chung dân cư
Bình Dương có đời sống ổn định, nền nếp, phong lưu, văn
hóa phát triển. Theo Đại Nam Nhất Thống chí
thời Tự Đức, Bình Dương xưa thuộc trấn Phiên An, giữa hai
huyện Bình Dương (Tân Bình) và Phước Long,
dân cư trù mật, nhà ngói, phố chợ liền lạc,
là xứ phồn hoa đô hội của đất Gia Định, cả nước
không đâu sánh bằng. Ngày nay dấu ấn xứ phồn
hoa đô hội ở Bình Dương vẫn còn được lưu giữ
qua nhiều ngôi nhà cổ, một loại hình di tích
văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Làng xã ở Bình Dương thường nằm yên
bình, tĩnh lặng giữa thiên nhiên đầy cây xanh
của vườn cây trái hay vườn cây cảnh, trên
vùng đồi gò đã được khai phá thành
vườn tược hay trên những cù lao nằm giữa dòng Đồng
Nai. Có lẽ phong cảnh nhà vườn với nếp sống phong lưu thể
hiện rõ nhất nơi những căn nhà bề thế, cổ kính
trên những cù lao trù phú như cù lao
Mỹ Hoà, Mỹ Quới (tên cũ của Bạch Đằng, Tân
Uyên) cù lao Rùa, cù lao Thạnh Hội…
Cù lao ở đây đã được con người chọn để cư
trú từ lâu đời, nơi có nhiều dòng họ
giàu có “tam đại đồng đường” trong những ngôi
nhà cổ đồ sộ giữa vườn cây trái bạt ngàn,
không gian tĩnh mịch và môi trường sinh thái
trong lành.
Tại Bình Dương hầu như có đủ các kiểu nhà
thường thấy ở Nam Bộ.
Nhà chữ đinh: là loại nhà phổ biến nhất tại
Bình Dương. Kiểu nhà này có hai căn, căn
nhà trên nằm ngang và căn dưới nằm xuôi,
đòn dông của hai căn này thẳng góc với nhau,
giống như chữ đinh (丁¡) trong Hán tự. Đặc điểm của
nhà chữ đinh là cửa cái của nhà trên
trổ ở chiều dài của ngôi nhà, còn cửa
cái của nhà dưới trổ ở chiều rộng (tức ở đầu hồi
nhà), do đó cửa cái hai căn nhà trên
và nhà dưới đều mở ra cùng một hướng, có
chung mái hiên trước, tạo sự đồng nhất cho toàn bộ
ngôi nhà. Kiến trúc nhà chữ đinh thể hiện
ý thức về trật tự phong kiến rất rõ. Nhà
trên quan trọng vì là nơi thờ cúng tổ
tiên nên thường bề thế, cao hơn nhà dưới, đây
cũng là nơi sinh hoạt chủ yếu của nam giới. Nhà dưới
là nơi ở chung của gia đình, nơi sinh hoạt thường
xuyên của phụ nữ. Dù nhà bằng vật liệu bán
kiên cố hay kiên cố, phần lớn nhà chữ đinh tại
Bình Dương đều thuộc dạng nhà chữ đinh có cầu
nối đặc trưng của miền Trung, tức là nhà có
phần trung gian nối vách và mái giữa nhà
trên và nhà dưới thành một tổng thể chứ
không tách rời nhau.
Để cất được một căn nhà chữ đinh, trước tiên phải
có diện tích đất khá rộng, sau nữa chi phí
cho vật liệu xây dựng khá cao, vì vậy chỉ những gia
đình khá giả trở lên mới có khả năng
đáp ứng. Có những ngôi nhà chữ đinh diện
tích nhà trên đến 250m2 (ngang 10m dài 25m),
được xây dựng bề thế với những cột gỗ lớn, các bộ phận
trang trí kiến trúc được chạm khắc tinh xảo. Đi khắp
Bình Dương, nhất là những nơi có cư dân
lâu đời như thị xã Thủ Dầu Một, huyện Tân
Uyên, Dĩ An, Thuận An… đâu đâu cũng có những
ngôi nhà chữ đinh cổ xưa với dạng nhà vườn giống
nhau. Phổ biến là nhà chữ đinh có kích
thước trung bình, mái ngói cổ rêu phong,
hiền hòa giữa những vườn cây xanh, tạo cho cảnh quan cư
trú một vẻ đẹp yên bình và sung túc.
Nhà chữ Nhị cũng khá phổ biến tại Bình
Dương. Loại nhà này có hai căn: nhà
trên ở phía trước và nhà dưới liền ngay
phía sau nhà trên, do đó hai cây
đòn dông của nhà trên và nhà
dưới nằm song song với nhau như chữ nhị (二þ). Bố cục mỗi căn
nhà thường là ba gian, tuy nhiên sau này
người ta cất nhà dưới dài thêm một gian so với
nhà trên để lấy ánh sáng. Nhà dưới
là không gian cư trú, còn nhà
trên chủ yếu dành làm nơi thờ tự. Nhà chữ
nhị cũng thuộc loại nhà có diện tích đất tương đối
lớn.
Nhà chữ Đinh và nhà chữ Nhị là những
ngôi nhà có tuổi khá xưa, phần lớn được
xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, chủ nhân thường là
người giàu có. Tuy đã trải qua trùng tu
nhiều lần nhưng nhờ xây dựng bằng các loại gỗ quý,
thợ dựng khéo léo và kỹ lưỡng, con
cháu có sự lưu tâm giữ gìn nên
đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn.
Nhà ba gian hoặc ba gian hai chái là loại
nhà phổ biến trong dân chúng. Không gian của
căn nhà vừa để ở, vừa có chức năng thờ tự và tiếp
khách. Nhà ba gian phân bố ở vùng nông
thôn và cả thành phố. Để tận dụng diện tích
làm nhà ở, theo độ che rộng của mái nhà,
người ta xây dựng thêm một hoặc hai chái hai
bên nhà ba gian.
- Nhà năm gian hai chái tại Bình Dương được
tầng lớp điền chủ, phú gia, trí thức giàu
có ưa chuộng. Kiểu nhà này chiếm diện tích
đất rộng, kỹ thuật xây dựng công phu, vật liệu tốn
kém vì là sự kết hợp giữa kiểu nhà gỗ
truyền thống với phong cách kiến trúc và vật liệu
xây dựng của phương Tây, thường được xây dựng
vào nửa đầu thế kỷ XX: nền nhà cao có bậc tam cấp,
tường xây gạch dày, tô hồ quét vôi. Cột
nhà có khi là cột bê-tông nhưng
vì kèo gỗ và lợp ngói, có trần
nhà.
Nhà cổ ở Bình Dương cũng thể hiện tính chất chung
của nhà cổ Nam bộ, đó là có kết cấu
nhà cột giữa (nhà rôi) và nhà
xuyên trính (nhà rường) theo hệ thống khung chịu
lực truyền thống như ở miền Bắc, miền Trung. Về sau có
thêm dạng nhà đúc kết cấu bê tông chịu
lực theo kiểu phương Tây.
Nhà cột giữa thuộc kết cấu cổ truyền, cột cái (cột giữa)
kết gắn trực tiếp vào đòn dông và giao điểm
của hai cây kèo, tạo thành một bộ vì
nhà giản đơn, thích hợp với loại hình nhà
thô sơ, bán kiên cố. Hạn chế của nhà cột giữa
là không gian nhà chật hẹp do sự hiện diện của
hàng cột giữa.
Nhà xuyên trính còn gọi là
nhà rường phổ biến hơn nhà cột giữa. Bộ khung sườn
nhà này không có hàng cột cái
ở giữa nên không gian nội thất khá rộng rãi.
Một số nhà rường biến thể là nhà bát dần
được xây cất rất qui mô. Mái ngói của dạng
nhà bát dần kéo sà thấp xuống (giống như
chữ Bát…..trong Hán tự). Bên ngoài
nhìn vào kiểu “mái xụ” này thấy nhà
có vẻ thấp, nhưng bước vào bên trong sẽ thấy hệ
thống kèo cột và trần nhà rất cao làm cho
nhà thoáng mát vì kiểu mái đó
có tác dụng che mưa và ánh nắng chói
chang vùng nhiệt đới, đồng thời hạn chế được tầm nhìn từ
bên ngoài. Nhà ông Trần Công
Vàng ở thị xã Thủ Dầu Một là một ngôi
nhà rường theo kiểu chữ đinh, gồm 5 gian 2 chái,
dài 24m, ngang 22m với 6 hàng 24 cây cột, đầu
kèo chạm trổ tinh xảo. Cột nhà xưa thường bằng các
danh mộc như sao, cẩm lai, gỗ mun.
Bình Dương hiện còn nhiều ngôi nhà cổ
có giá trị về kiến trúc và nghệ thuật,
niên đại trên dưới 100 năm, chủ yếu tập trung ở thị
xã Thủ Dầu Một và huyện Tân Uyên, như
nhà ông Trần Văn Tề (phường Phú Cường, thị
xã Thủ Dầu Một), nhà ông Trần Văn Hổ (phường
Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Trần
Công Vàng (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu
Một), nhà ông Nguyễn Văn Đằng (xã Thạnh Phước,
huyện Tân Uyên), nhà ông Đỗ Cao Thứa
(xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên), nhà
ông Nguyễn Tri Quang (xã Tân An, thị xã Thủ
Dầu Một)… Trong số đó có hai ngôi nhà được
công nhận Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia
vào năm 1993, đó là nhà ông Trần Văn
Hổ và nhà ông Trần Công Vàng.
Nhà của ông Trần công Vàng
Hầu hết nhà cổ ở Bình Dương có giá trị về
mỹ thuật kiến trúc và trang trí là
nhà chữ đinh. Riêng nhà của một số gia đình
giàu có nổi tiếng ở thị xã Thủ Dầu Một, ở huyện
Tân Uyên thì có qui mô khá lớn
và hình thức đa dạng chứ không chỉ là kiểu
nhà chữ đinh truyền thống. Nhà ông Trần Văn Hổ
thuộc kiểu nhà 5 gian 2 chái rất rộng lớn, hoàn
toàn bằng gỗ chạm trổ kỹ lưỡng từ cột, kèo đến
vách. Kiểu nhà này xưa vốn là đặc quyền của
tầng lớp quan lại cao cấp thời Nguyễn, thường dân không
được phép xây dựng. Nhà ông Nguyễn Văn Đằng
theo kiểu nhà chữ công
£¨工¤£© có hai gian lớn gọi
là Đông lang – Tây lang; hay kiểu nhà chữ
khẩu £¨口£© (gồm 4 căn với hướng đòn
dông tạo thành hình vuông) của ông
Nguyễn Tri Quang. Hầu hết những căn nhà cổ vừa nêu
trên đều khẳng định chức năng thờ cúng ông bà
tổ tiên và thể hiện niềm tự hào về gia tộc
trên các bức đại tự như Trung Nghĩa Đường, Trần Miêu
Duệ, Nguyễn Phủ Đường… tại gian thờ chính trong nhà.
Việc xây dựng nhà ngày xưa rất công phu. Gia
tộc ông Đỗ Cao Thứa cho biết nhà xây 3 năm mới
hoàn thành, do những người “thợ Bắc” thi công.
Vì địa thế vùng Tân Uyên thấp nên
nhà phải đắp nền cao rất công phu. Đất phải lấy từ ấp
Bình Hóa (xã Uyên Hưng) vận chuyển bằng xe
bò đến bờ sông, sau đó chở đất bằng ghe qua
sông rồi mướn người gánh về đổ đắp nền nhà. Nền cao
hơn mặt đất 0,8m, xung quanh nền nhà được bọc móng rất
kiên cố bằng những tảng đá ong vốn có nhiều ở miền
Đông Nam Bộ.
Nhà cổ tại Bình Dương là dấu ấn thời kỳ phong kiến
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Hầu hết nhà cửa
thời kỳ này còn tồn tại cho tới nay đều nhờ kỹ thuật
xây dựng kiên cố với các loại danh mộc quý,
chắc như lim, căm xe, cà chất… Khung sườn các nhà
xưa hầu hết sử dụng kỹ thuật lắp ghép tự nhiên (lắp mộng)
chưa dùng đinh sắt. Các bức vách gỗ phía
trước nhà hoặc vách ngăn giữa gian thờ tự với gian
nhà trong, những cây kèo, hoành phi,
câu đối, bao lam, bàn thờ, trang thờ, bình phong…
đều được chạm trổ tinh xảo theo phong cách chạm lộng, chạm
thủng, chạm chìm khéo léo. Ngôi nhà
vừa là công trình kiến trúc tài hoa,
vừa chứa đựng những tác phẩm điêu khắc phản ánh
các giai đoạn của nền mỹ thuật Nam Bộ: giai đoạn sớm là
chạm trổ trên gỗ mộc, toàn bộ chỉ để gỗ tự nhiên,
giai đoạn muộn hơn là dùng sơn ta để sơn son thếp
vàng hoặc cẩn ốc, khảm trai, sơn mài…
Thời kỳ đầu nhà cổ tại Bình Dương được thi công
xây dựng và trang trí chạm trổ bởi các
nhóm thợ mộc nổi tiếng khéo tay từ miền Trung vào
như thợ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Bình
Định (thường gọi chung là “thợ Huế”). Bên cạnh đó
còn có thợ mộc của “trường phái thợ Thủ” (Thủ Dầu
Một) với tay nghề giỏi nức tiếng đã dần đảm trách vai
trò chính yếu trong xây cất nhà và
trang trí nội thất. “Thợ Thủ” không chỉ hành
nghề ở Bình Dương mà còn ở nhiều nơi khác.
Người ta rước “thợ Thủ” về xây nhà và nuôi
nhóm thợ trong nhà hàng năm để họ chạm khắc trang
trí cho ngôi nhà. Những thế hệ nghệ nhân “thợ
Thủ” đã trải nghiệm tài nghệ của mình và
lưu danh về kỹ thuật xây cất và nghệ thuật trang
trí nội thất những ngôi nhà trên khắp Nam Bộ.
Trong “Nam kỳ nhân vật phong tục diễn ca” Nguyễn Liên Phong
đã nêu:
…“Nhà khéo cất tốn bạc muôn
Tiếng đồn thợ Thủ ráp khuôn kỹ càng”
Những nghệ nhân nghề mộc khéo léo, tài giỏi
của Bình Dương xưa đã để lại những tác phẩm nghệ
thuật của mình trên các kèo đùi ếch,
trên “lá dung” đầu kèo, bao lam, hoành phi,
câu đối, bàn ghế, tủ thờ… được chạm, cẩn tinh xảo,
làm nổi bật sắc gỗ mộc thanh cảnh, vàng óng, đỏ
tươi và sắc mun ánh ngời bóng loáng của sơn
ta, của xà cừ… Đặc biệt toàn bộ vách trước những
căn nhà truyền thống ở Bình Dương thường được “thợ Thủ”
chạm trổ tỉ mỉ tài hoa, tạo nên vẻ đẹp sinh động nhưng
tôn nghiêm cho căn nhà. Từng khung vuông,
khung chữ nhật của bức vách trước được chạm khắc nhiều đồ
án hoa văn các môtíp điển hình như tứ
linh, tứ quý, quả lựu, hoa mẫu đơn… Vách trước cũng
thường chạm đôi “mắt cửa” hay biểu tượng của âm dương, nhật
nguyệt và khung viền cửa trước (bao lam) thường chạm trổ kiểu
đòn võng khéo léo.
Nhà xưa ở Bình Dương hầu hết lợp ngói âm
dương, nền nhà lót gạch tàu đỏ. Trong nhà
theo mô thức trang trí nội thất thống nhất, gồm bộ trường
kỷ gỗ đen ở gian giữa phía trước bàn thờ, hai gian
nhà hai bên bày hai bộ ván ngựa. Ở một
góc nhà có tủ kiếng để chưng bày các
cổ vật kỉ niệm. Bàn thờ, nhất là các câu đối
trên cột hoặc các bài minh bằng Hán tự đặt
trên bàn thờ tổ tiên đều được cẩn ốc hoặc sơn son
thếp vàng. Nội dung các câu đối, bài minh
hầu hết đều đề cao lòng hiếu đễ với ông bà tổ
tiên, nề nếp gia phong, việc kính trọng và phụng
dưỡng cha me. Ngoài dấu ấn đặc trưng của tâm thức Nho
giáo đương thời thể hiện như yếu tố chủ đạo trong nội dung
các câu đối, bài minh… chủ đề trang trí
trong những ngôi nhà xưa tại Bình Dương còn
thấy một nội dung khác của văn hoá Nho giáo,
đó là những bài thơ cổ tả phong cảnh hay là
điển tích xưa. Ngoài đồ trang trí nội thất chủ yếu
bằng gỗ như tủ thờ, bàn thờ, trường kỷ, bộ ván, mấy bộ
bàn ghế… trong nhà còn có nhiều đồ gốm
Biên Hòa, gốm Lái Thiêu như đôn
tròn, lục giác, đôn voi, chậu kiểng, độc
bình. Nhiều ngôi nhà cổ còn có
vài vật dụng Tây phương như đèn Măng sông,
quạt trần, máy hát đĩa…
Về Bình Dương đắm mình trong không gian tĩnh lặng
của những ngôi nhà cổ giữa khu vườn êm ả, tiếng ồn,
khói bụi đường xa dường như không len lỏi vào đến
nơi đây, cuộc sống xô bồ gấp gáp chốn thị
thành dường như không hiện diện ở nơi đây… Chợt thấy
mình như được quay về với những ngày xưa yêu dấu…
Tham khảo: Tài liệu của Ban quản lý di tích tỉnh
Bình Dương – TS Nguyễn thị Hậu