NGƯỜI BẮC NGƯỜI NAM
Hoàng Anh
Trái đất được chia ra làm hai phần: Bắc bán cầu
và Nam bán cầu. Xét trên phạm vi quốc gia,
các nhà sử học cũng thường chia ra thành hai miền
Nam và Bắc, vì vậy đến nay đọc sử, ta còn gặp
những cụm từ như Nam triều, Bắc triều, Nam Tống, Bắc Tống, cuộc nội
chiến giữa miền Bắc và Nam Hoa Kỳ, chiến tranh Nam và Bắc
Triều Tiên…
Miền khác, thì con người sinh sống trên đất
đó ắt nhiên ít nhiều cũng khác nhau. Quốc
gia có diện tích rộng lớn, địa thế hiểm trở thì sự
khác biệt càng sâu sắc hơn. Trong các
tác phẩm viết về lịch sử nhân loại, một số sử gia
đã ghi nhận và luận bàn về hiện tượng khá
đặc biệt này.
“Nghe nói, trong lịch sử cổ
đại Trung quốc, “Nam phương xuất văn nhân, Bắc phương xuất
hoàng đế”, (phương Nam là đất văn nhân, phương Bắc
là đất hoàng đế)
(Lãnh Thành Kim, Quyền
trí Trung Hoa, Ông Văn Tùng và Nguyễn Đắc
Thanh dịch, tr.78, 2002, nxb. Văn Nghệ tp. Hồ Chí Minh)
“…Trong xã hội cổ đại Trung
Quốc, miền Bắc phát triển sớm, văn hoá cũng chín
muồi, chế độ xã hội, quan niệm tôn giáo đều chặt
chẽ, phát triển, đầy đủ hơn miền Nam. Trong thời kỳ miền Bắc
là trung tâm chính trị, văn hoá, trung
tâm kinh tế, lại thêm người miền Bắc vũ dũng thiện chiến,
do vậy việc thay đổi triều đại thường xảy ra ở miền Bắc, cho nên
miền Bắc có nhiều hoàng đế. Ngược lại, miền Nam bất kể
nền thống trị xã hội hay tôn giáo, tư tưởng đều yếu
hơn miền Bắc, do vậy quan niệm tư tưởng của con người được giải
phóng, hoạt bát hơn, hay nói như cách
nói hiện nay, hoàn cảnh chính trị được tương đối
thoải mái, dễ có được nhà văn hoá lớn,
tác phẩm hay.”
(Lãnh Thành Kim, Quyền
trí Trung Hoa, Ông Văn Tùng và Nguyễn Đắc
Thanh dịch, tr. 78, 2002, nxb. Văn Nghệ tp. Hồ Chí Minh)
Về dân tộc Trung Hoa, học giả Nguyễn Hiến Lê nhận
xét:
“Nơi nào cũng thường bị hạn
hán, vì miền Bắc ít mưa; có nơi bị lụt xong
thì bị hạn hán, trung bình cứ ba năm bị hạn
hán một lần. Nếu hai năm liền bị hạn hán thì lại
có cả triệu dân chết đói.
Do đó đời sống của nhân
dân miền Bắc rất cực; họ rất quí đất, làm ruộng
mà săn sóc kỹ lưỡng như làm vườn…
Miền Nam cũng ít bị hạn
hán hơn ở miền Bắc vì đây thuộc miền có
gió mùa, mưa nhiều không thiếu nước, trồng
lúa gạo được.”
(Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc,
tr.27, nxb. Văn Hoá, 1997)
Các đoạn trên nói về nước và người Trung
Hoa, một dân tộc ở cận kề ta. Những mô tả đó
có vẻ gần giống với đặc điểm địa lý của Việt Nam. Trung
Hoa có hai con sông lớn, sông Hoàng Hà
ở miền Hoa Bắc và sông Dương Tử ở miền Hoa Nam, chia Trung
Quốc ra làm hai miền khác biệt do ảnh hưởng sự tác
động của lưu vực hai dòng sông, tương tự sông Hồng
và sông Cửu Long ở Bắc phần và Nam phần của nước
Việt.
Sử gia lớn của thế giới trong thế kỷ 20 khi viết về dân tộc Ấn Độ
trong bộ lịch sử văn minh nhân loại rất đồ sộ của ông, cũng
đã quan tâm đến vấn đề này:
“Thời nào cũng vậy, phương Bắc
cũng sản xuất nhiều lãnh tụ, nhiều danh tướng, phương Nam sản
xuất nhiều nghệ sĩ, và các vị thánh”
(Will Durant, Nguyễn Hiến Lê
dịch, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr.37, nxb.Văn Hoá Thông Tin)
Chúng ta hãy đọc thêm đoạn văn sau đây, do
người Anh viết về chính dân tộc của họ, một dân tộc
ở cách chúng ta rất xa, nằm giữa biển khơi, khí
hậu, thiên nhiên hoàn toàn khác biệt
với Việt Nam:
“Ngay ở chính England cũng
có những huyền thoại về mỗi vùng, nhưng những khác
biệt lớn lao nhất là những khác biệt giữa miền Bắc
và miền Nam. Có những biến đổi thực sự về địa lý
và kinh tế. Miền Bắc có đặc tính là
công nghiệp hoá nhiều hơn, mát hơn, nhiều đồi hơn
và có tính cách giai cấp công
nhân hơn. Miền Nam có tính cách trung lưu,
thành thị hơn, bằng phẳng hơn và giàu có
hơn.
…Bạn có biết câu ngạn
ngữ xưa…người Bắc kiếm tiền, người Nam đếm tiền”
…ở miền Nam mọi thứ đối với phụ nữ
tốt hơn. Người miền Bắc dường như chỉ muốn tới quán rượu một
mình và tránh phụ nữ. Người miền Nam ở nhà
phụ giúp vợ con nhiều hơn, đó là một số thống
kê đấy. Người miền Bắc thì trọng nam khinh nữ”
…Tôi thực sự nghĩ rằng miền Bắc
thì bảo thủ hơn…Tôi không nói về chính
trị, mà về thái độ của họ đối với cuộc sống ấy.Ở
đây trong mọi chuyện đều thường có nhiều thay đổi hơn.
…Có sự bình đẳng nam nữ
nhiều hơn ở miền Nam. Người Bắc đối xử với phụ nữ như thảm chùi
chân.”
(Streamline English Departures, Phạm
Văn Quảng và Nguyễn Hữu Chấn dịch, tủ sách Đại học Tổng
hợp tp. HCM, 1991)
Cuốn Theo Chiều gió (Gone with the wind) của tác giả
Migaret Mitchel là bộ trường thiên tiểu thuyết có
tính sử thi rất nổi tiếng của nước Mỹ. Tác phẩm lấy bối
cảnh cuộc nội chiến đẫm máu trong lịch sử nước Mỹ, mà
nguyên nhân chính là những khác biệt
dẫn đến sự xung đột không thể hoá giải giữa người
miền Bắc và người miền Nam.
Sự khác biệt giữa con người sinh sống ở hai miền Bắc và
Nam như vậy là có tính phổ biến và
có bề dày xa xưa trong lịch sử nhân loại. Thế ở
nước ta thì sao? Mở trang Google trên internet, gõ
vào mấy chữ “Người Bắc người Nam”, bạn sẽ thấy hiện lên
vô vàn những lời qua tiếng lại về tính cách
của con người ở từng miền. Người này thì bảo người kia
là hời hợt, là phổi bò, nóng nảy
mà vô mưu, ham chơi hơn ham làm, giàu
có mà quê mùa, kém lễ nghi, tuy hiếu
khách và chịu chơi thì không ai bằng. Người
kia lại bảo còn các anh thì chỉ giỏi nói,
hay đãi bôi, khách sáo mà keo kiệt,
kiêu căng, không thiệt bụng, lại hay tráo trở
và sĩ diện hão…Những ý kiến như vậy hẳn
nhiên không dừng lại chỉ bấy nhiêu. Nhiều, chứng tỏ
một điều, sự khác biệt và không đồng tình
với nhau là điều vẫn xảy ra ở nước ta. Trong cuộc sống giao tiếp
hàng ngày, có khi bằng mặt mà không
bằng lòng. Vấn đề hết sức nhạy cảm, nên người ta đều ngầm
biết thế, ai cũng biết, mà không ai nói ra, sợ mất
lòng nhau..
Thực ra, ở Việt Nam, vấn đề ấy đã diễn ra cả thế kỷ nay, được
nhiều bậc thức giả quan tâm:
“Vấn đề quan hệ giữa con người
và vùng đất mới tạo ra một lối nhìn, thái
độ sống có những đặc điểm khác với lối nhìn,
thái độ sống của con người ở vùng đất cũ không phải
là một trường hợp cá biệt chỉ thấy ở Việt Nam, mà
còn ở nhiều nơi khác như Mỹ châu và Âu
châu, Anh và Úc, Tân Tây Lan v.v…
Chẳng hạn, người Âu châu
thường chê người Mỹ không có văn hoá hoặc văn
hoá ấu trĩ trái lại người Mỹ chê người Âu
châu, nhất là người Pháp không thể làm
kinh tế phát triển được, dù tả hữu gì lên
cầm quyền cũng vậy thôi vì tả hữu đều giống nhau
cùng có những thiên kiến về văn hoá ngăn cản
óc sáng tạo, khả năng thích nghi với thực tế…Người
Anh chê giọng Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, chỉ giọng
Luân Đôn mới là tiếng Anh chính cống
mà thôi v.v…Có điều giữa những nước trên, chỉ
có những thiên kiến vậy thôi, không có
những căng thẳng đụng độ hàng ngày vì phải chung
sống với nhau trong một biên giới quốc gia.”
(Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học)
Các học giả ở Đông phương có khuynh hướng hay dựa
vào những nguyên lý âm dương, thuỷ hoả của
Kinh Dịch để luận sự khác biệt giữa hai miền Nam Bắc. Khảm vi
thuỷ, ly vi hoả, nước lửa tương xung.Trong Gia Định thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức, ông cũng
áp dụng phương pháp này:
“Phương Nam thuộc quẻ ly, hành
hoả, là quẻ văn minh, cho nên các sĩ phu chuộng
tiết nghĩa, chuộng lý học. Tục dân chăm ruộng cày
dệt cửi, làm thợ, buôn bán. Song cục thế của đất ở
bên cạnh phận sao của Dương châu. Dương nghĩa là
phát dương ở tính ra, hoặc có thiên về khinh
phất, mà phong hoá chỗ tốt chỗ xấu, khí tập
có nơi hậu nơi bạc, thì tuỳ thời tuỳ đất, hoặc có
khác đi.”
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định
thành thông chí, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.
141)
Đoạn khác, lại viết:
“Sùng Phật, tin đồng cốt, phần
nhiều trọng thần đàn bà, như bà Chúa Ngọc,
bà Chúa Động (tục gọi người đàn bà
tôn quý là bà), bà Hoả tinh,
bà Thuỷ long, cô Hồng, cô Hạnh v.v…Là lấy
hào âm của quẻ Ly làm chủ nên như thế. Lại
thờ thần Táo quân (vua bếp) hai bên vẽ hai
hình đàn ông, ở giữa vẽ hình người
đàn bà, cũng là theo quẻ ly là hoả, trong
hai hào dương lấy một hào âm làm chủ”
(Trịnh Hoài Đức, Gia
Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục, 1998,
tr. 142)
Gần chúng ta hơn, các tác giả như Kim Định, Trần
Ngọc Thêm…cũng tiếp nối truyền thống trên:
“Văn hoá Nam bộ là sản
phẩm của quá trình dương tính hoá trong
không gian và thời gian. Nó là khâu
cuối cùng trong quá trình dương tính
hoá trong không gian: từ Bắc qua Trung vào Nam.
Nó cũng là khâu cuối cùng trong quá
trình dương tính hoá trong thời gian: từ lớp văn
hoá bản địa qua lớp văn hoá giao lưu với Trung Hoa đến
lớp văn hoá giao lưu với phương Tây.”
“Tính bao dung Nam bộ
có nguồn gốc từ tính tổng hợp và đặc trưng
thiên về âm tính của truyền thống văn hoá
dân tộc, đặt trong bối cảnh nơi gặp gỡ của những điều kiện tự
nhiên thuận tiện”
(Trần Ngọc Thêm, Tính
cách văn hoá người Việt Nam bộ như một hệ thống)
Thời nay, các luận điểm dựa vào thuyết âm dương như
trên được xem là có tính cách
siêu hình và ít khả năng thuyết phục.
Trái lại, người ta thường chỉ căn cứ vào các điều
kiện địa lý, môi trường, những biến cố xã hội,
chính trị…để phân tích đặc tính của con
người.
Ở nước ta, từ 500 năm trước, Chúa Trịnh và Chúa
Nguyễn tranh giành binh quyền đã chia đất nước
thành hai xứ Đàng Ngoài và Đàng
Trong. Cuộc chia phân kéo dài cả trăm năm, sau
đó là thời kỳ nội loạn, rồi thống nhất chưa được bao
lâu thì thực dân Pháp sang đây
áp đặt ách thống trị, chia đất nước thành ba miền
với các chế độ cai trị riêng biệt. Kế đó, là
20 mươi năm chiến tranh, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Hai
miền với sách lược phát triển kinh tế và ý
thức hệ hoàn toàn khác nhau. Tuy có miền
Trung làm vùng đệm ở giữa, nhưng các tỉnh như Thừa
Thiên, Quảng Nam, Bình Định…vào trong có
khuynh hướng hoà nhập với miền Nam; ngược lại các tỉnh từ
Quảng Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh thì gần gũi
với miền Bắc hơn. Thế nên người ta thường đề cập và so
sánh giữa hai miền Bắc Nam nhiều hơn là với miền Trung.
So với nhiều quốc gia khác, thì sự phân biệt
vùng miền ở nước ta do vậy có một lịch sử lâu
dài, bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố phức tạp, từ đó
mà tính cách của người Việt không thể thuần
nhất, nếu không muốn nói rằng sự khác biệt nhiều
khi khá sâu sắc.
Tác giả Kazuya Yamamoto, trong một công trình khảo
sát về người Việt được thực hiện vào năm 2004, trong phần
“Căn cước cấp miền và “Chủ nghĩa cấp miền” tại Việt Nam” đưa ra
kết quả như sau: “Các kết quả
này mặc thị rằng người dân tại Việt Nam hẳn có một
căn cước dân tộc, nhưng họ cũng có cả một căn cước địa
phương/cấp miền mạnh mẽ cùng với một căn cước Á
châu siêu quốc gia”.
Phần kết luận tác giả viết: “Điều này ám chỉ rằng
các căn cước cấp miền/địa phương có bắt rễ vào căn
cước của người dân và rằng sự thống hợp dân tộc tại
Việt Nam chưa bao giờ được thực hiện một cách trọn vẹn”.
Sự ý thức về căn cước địa phương làm tác giả ngạc
nhiên khi so sánh với các dân tộc khác
xung quanh ta như Nhật Bản và Singapore hay Indonesia…
Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết:
“Câu chuyện Nam Bắc thời
nào cũng thấy, có điều khi nặng khi nhẹ, lúc
công khai lúc âm ỉ thôi. Tờ Thanh Niên,
hồi 1944 nói nhiều về thống nhất ba miền và ngôn
ngữ phong tục đã ghi nhận: Tới năm 1925, người Nam Trung
và Bắc vẫn còn nghi kỵ và ghét lẫn nhau như
thường, tuy đồng bào ở ba nơi đã chung đụng với nhau
nhiều rồi. Gần gũi nhau mà cứ coi nhau như người khác
nước, cứ hiểu lầm nhau và cứ giữ lèo, giữ lái thời
cũng không khác hồi nhà ai nấy ở bao nhiêu”
(Nguyễn Văn Trung, Lục Châu học)
Điểm đặc biệt đáng chú ý là, tuy bị chia
lìa, ngăn cách, vừa do các nguyên nhân
chủ quan và khách quan, vừa không gian, vừa thời
gian, người Việt trên khắp đất nước này vẫn giữ được những
nét chung căn bản: một ngôn ngữ chung, một nền văn
hoá truyền thống chung, khiến khách ngoại quốc khó
mà nhận ra được sự khác nhau trong tính
cách địa phương của họ.Như vậy khi nói về cái
khác và giống của người Việt, ta hiểu rằng đó
là ta đang bàn đến cái “Đại đồng mà tiểu
dị”, giống nhiều mà khác ít, cái
khác tạo thành nét đa dạng, phong phú,
cái giống tạo nên sự thống nhất không thể phân
chia, như nhà văn Sơn Nam thường nói..
Người Nam bộ, dòng máu là máu Việt, tổ
tiên từ vùng đồng bằng Bắc bộ đã theo Chúa
Nguyễn thiên di dần vào xứ Thuận Quảng, từ đó
làm bàn đạp thực hiện bước tiến nhảy vọt xa tận mũi
Cà Mau, mở rộng giang sơn đến điểm tận cùng của
bán đảo Đông Dương. Họ mang theo trong hành trang
mở cỏi vốn liếng văn hoá truyền thống mấy nghìn năm của
cha ông đã dày công xây dựng. Vì
vậy mà nói đến người Việt, mọi nơi trên đất nước
này người ta đều nhận thấy những tính cách chung
như tinh thần ái quốc quật cường, lòng nhân
hậu hiếu hoà, sự nhẫn nại chịu đựng, siêng năng làm
lụng, kính trọng tổ tiên …
Thế nhưng rời đất Tổ ra đi đã nửa thiên niên kỷ, đến
một vùng đất mới với điều kiện khí hậu địa lý
khác, giao tiếp với những tộc người khác, người miền Nam
tất yếu không còn có thể giữ nguyên một
khuôn mẫu như đồng bào họ ở cố hương. Sự khác nhau
đó đã tạo thành cái gọi là người Nam
bộ, tính cách Nam bộ. Như vậy, vấn đề chỉ là ở mức
độ đậm nhạt, nổi trội hơn hay có những nét riêng
mà thôi. Vì lý do đó, Giáo sư
Nguyễn Văn Trung cũng đã viết:
“Mới qua cách gọi tên,
chúng ta đã thấy phần đất này của Việt Nam bao giờ
cũng mang một tên gọi riêng. Đây không phải
tình cờ, mà lý do chính yếu là tại
phần đất này, ngoài những đặc tính chung với
các phần còn lại của Việt Nam, nó có những
đặc tính riêng, chỉ nó mới có, hoặc
có một cách trội bật so với các miền khác.”
(Nguyễn Văn Trung, Lục Châu
Học)
Trong cái chung của truyền thống tính cách Việt
Nam, những nét riêng chỉ khác nhau về mức độ, do
những biến đổi về môi trường, hoàn cảnh xã hội,
lịch sử…Nhận xét về tính cách người Việt từng khu
vực không luôn có những biên giới rõ
ràng, vì vậy đánh giá về chúng cũng
thường khó có những ý kiến đồng nhứt nhau.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung có những nhận xét mới lạ
và thẳng thắn:
“Thực ra ít khi người ta
nói lên trên sách báo và chưa
bao giờ ai nghĩ đến đem nó ra mà nghiên cứu một
cách khoa học vì đây là điều hầu như
là một cấm kỵ; nói ra sợ đụng chạm mất đoàn kết.
Tại sao? Người miền Bắc thường được coi là tế nhị, kín
đáo khôn khéo, còn người miền Nam là
bộc trực hay nói thẳng. Nhưng chính người tế nhị
khôn khéo lại nói làm những điều mất
lòng, nghĩa là vụng về!Tại sao? Theo chúng
tôi hiểu, chính vì họ thành thực tin những
điều họ nghĩ nói ra và cho rằng mình không
hề có ý xúc phạm đến ai nên khi họ thấy phản
ứng, dễ hiểu lầm kẻ phản ứng có đầu óc kỳ thị mà
không biết chính mình là kẻ có đầu
óc kỳ thị trước, vì đã có ý
đánh giá hơn kém và có thái
độ đối xử thích hợp với lối nhìn đánh giá
đó…Kẻ phản ứng, bị nghi ngờ là kỳ thị mà kỳ thị
là một điều không tốt, nên đánh phải nhẫn
nhục, chịu đựng, mặc dầu vẫn ấm ức, bực bội…
Nếu như hai bên đi đến chỗ hiểu
được điều nầy: một bên nhận thức được chính mình
là kẻ kỳ thị đấy, một bên hiểu rằng người gây ra kỳ
thị không biết mình kỳ thị, không cố ý cố
tình gì đâu, vì đây là một
thái độ có tính tập thể, vô thức do những
yếu tố địa lý chính trị của một hoàn cảnh sống quy
định thì có thể coi như bắt đầu hiểu nhau rồi, cũng
là người Việt Nam cả, nhưng sống ở Bắc thì nghĩ thế
này, và sống ở Nam thì nghĩ thế kia; nếu người
miền Bắc vào ở lâu trong này cũng sẽ nghĩ như người
vẫn sống ở miền Nam và ngược lại. Nếu một lối nhìn do
những yếu tố địa lý chính trị của mỗi vùng quy
định, vượt khỏi ý đồ cá nhân, nghĩa là do
tính khách quan thì có thể tìm hiểu
được một cách khoa học và rút ra những quy luật.”
(Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học)
“Chuyện nêu lên là
chuyện văn học, nhưng những vấn đề thực sự đặt ra lại không
phải văn học vì đụng đến chuyện Nam Bắc. Chuyện Nam Bắc bắt
nguồn từ sự kiện khác biệt giữa các miền, địa phương.
Thay vì ghi nhận như thế, nghĩa là công nhận
cái riêng biệt của mỗi miền có nguyên
nhân, ý nghĩa, giá trị của nó mà
không đánh giá hơn kém như người ta thường
làm trước sự khác biệt vế phong cảnh thiên
nhiên, khí hậu, về sinh hoạt vật chất ăn, mặc, ở; nhưng về
sinh hoạt văn hoá tinh thần, người ta lại đánh giá
hơn kém theo những tiêu chuẩn, lối nhìn của
mình, do đó mà có thái độ khinh
chê và mặc cảm tự tôn, tự ti. Có lẽ chỉ trong
giới ăn học trí thức, mới thấy rõ rệt thái độ
khinh chê, mặc cảm, tự tôn, tự ti. Tuy là số
ít, nhưng là thành phần có uy tín
quyền hành tinh thần chính trị, nên thái độ
của họ có tác động đáng kể…”
(Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học)
Các phát biểu của giáo sư Nguyễn Văn Trung tuy
có tính bao quát, nhưng câu chuyện
tác giả đang luận bàn bắt nguồn từ lãnh vực văn
học. Hồi những thập niên đầu thế kỷ, ngoài “Việt Nam văn
học sử yếu” của Dương Quảng Hàm, Việt Nam còn có
hai tác phẩm lớn bình luận văn học, một là
“Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan (nhà in Tân
Dân, Hà Nội-1942) và “Việt Nam thi nhân tiền
chiến” của Hoài Thanh, Hoài Chân (nhà in
Thuỵ Ký, Hà Nội, 1942). Các quyển sách
này được giới văn học công nhận là có nhiều
giá trị. Tuy nhiên, đã có nhiều ý
kiến nêu lên sự thiếu công bằng, có vẻ
thiên vị và do đó, sai lệch của các
tác giả. Mà, ở đây, lý do bị lên tiếng
chính vì mang đậm tính phân biệt vùng
miền.Trong quyển của Vũ Ngọc Phan có 79 tác giả, người
gốc Nam được có 4. Trong sách của hai ông
Hòaì Thanh và Hoài Chân có 46
tác giả, miền Nam góp mặt còn ít hơn, chỉ 2
người: Đông Hồ và Mộng Tuyết. Sự mất cân đối
nghiêm trọng này, có điều gì đó hơi
bất bình thường. Tai hại hơn, các nhà văn học sử
về sau dựa theo những hiểu biết và đánh giá lầm
lẫn đó để biên soạn sách, hay đưa vào chương
trình giáo khoa đã gây ra những ngộ nhận
nặng nề cho đời sau.
Phải trải qua mấy mươi năm mới có người lên tiếng
xét lại vấn nạn văn học sử này. Nhà văn hoá
Nguyễn Văn Xuân viết “Khi những lưu dân trở lại” và
Nguyễn Văn Trung cho ra đời một tập biên khảo công phu về
nền văn học phía Nam với ý định trả lại sự thật cho lịch
sử: “Lục Châu Học”.Ngoài các bài báo,
các cuộc bút chiến xuất hiện khá thường trên
báo chí từ hồi đầu thế kỷ 20 và thỉnh thoảng lại
bùng lên những năm sau đó, đây có thể
coi là hai tác phẩm tầm cỡ nhất phân tích
thấu đáo vấn nạn trên. Khuynh hướng chung thời trước
là sự khinh chê không cần dấu diếm, miệt thị ra mặt,
đôi lúc rất nặng lời của các văn nhân
trí thức miền Bắc đối với nền văn chương phía Nam, con
người phía Nam. Sự chống trả của phía Nam, nói
chung có vẻ hoà nhã, lịch sự, và vì
vậy, trở nên yếu ớt. Phản ứng lại các bài viết
chê người miền Nam không có văn minh, mở màn
cho cuộc tranh luận của Phạm Duy Tốn, một độc giả nhà ở Bến
Cát (Thủ Dầu Một) trên tờ báo ngày 9-12-1915
viết:
“Chớ tôi thường thấy mấy cậu
ngoài nớ ăn mặc ngộ quá, thiệt cũng đáng bực văn
minh tân đợi. Bận áo tây, quần tây, đi
giày tây hay là hàm ếch da láng,
trên đầu thì còn để tóc vấn khăn đen. Hễ
quen biết nhau thì nắm tay nhau bù sua rồi cập tay nhau
nói dóc om sòm. Tiếng nói thì pha
chè nửa Annam, nửa Francais, nửa chararia (tiếng nhà
bếp), chẳng biết ông Tốn gọi văn minh ấy là chi hả?”
Cuộc bút chiến lôi kéo rất nhiều tên tuổi
thời đó tham gia như Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản, Nguyễn
Kim Đính, Trần Chánh Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn
Chánh Sắt…Trên tờ Nông Cổ Mín Đàm, ba
năm sau ( 26-6-1919) có đăng bức thư ngỏ gởi các
báo như sau:
“Xưa rày bổn báo thường
xem báo giới Bắc Kỳ thấy luận nhiều bài thiệt là
khinh bỉ người Nam Kỳ thái quá; như “Trung Bắc tân
văn” bàn luận về quốc văn thì cho văn Nam Kỳ là
văn hát bội; còn Nam Phong bài của M.Phạm Quỳnh
“Một tháng ở Nam Kỳ” thì cho người Nam Kỳ có lượng
mà không có phẩm; người Nam Kỳ những nhà
giàu có phần đông toàn là ngu ngốc cả
v.v…
Đó, phẩm lượng thái độ và cách cư xử đối
với đồng bào của người thay mặt cho dân đất Bắc là
thế đó.
Những lời khinh nhau bỉ nhau mà đăng báo như thế
thì dẫu cho thần phật cũng phải bất bình. Nhưng vậy
mà bấy lâu bổn báo cũng làm thinh nhẫn nhục
mà không đành hở môi, là vì bổn
báo vẫn để long cổ động đồng bang chữ hướng về đều liên
lạc đoàn thể với nhau, làm sao cho ba kỳ hiệp một, đấu
cật nhau, diều dắc nhau lên đường tấn hoá, nên chẳng
nở buông lời bái bác nhau mà hại niềm
hoà khí”
Để thấy được sự bất bình của tác giả trích đoạn
trên, xin đọc nhận xét của Phạm Quỳnh về Trương Vĩnh
Ký, nhà bác học người miền Nam tinh thông
nhiều ngôn ngữ và có công trạng rất lớn đối
với chữ quốc ngữ, ngôn ngữ mà về sau Phạm Quỳnh sử dụng để
đánh giá ông:
“Ông Trương chẳng qua là
một nhà làm sách giáo khoa thường cho con
nít học mà thôi, đã có công
nghiệp gì với Tổ quốc”
(Phạm Quỳnh, Một tháng ở Nam
Kỳ, Nam Phong số 17 năm 1919)
Các cây bút chủ lực của miền Nam gần như
không thấy ai nói gì, như Hồ Biểu Chánh,
Phú Đức, Bình Nguyện Lộc, Vương Hồng Sễn, Phi Vân,
Sơn Nam…dường như do bản tính cố hữu của người miền Nam, quen
nhường nhịn, không ưa tranh cãi hơn thua, họ cứ lẳng lặng
làm công việc mình yêu thích. Nhờ vậy
khi qua đời, họ để lại cho hậu thế cả gia tài văn học đồ sộ,
quý báu ít ai sánh kịp. Bỏ công ra
làm sáng tỏ sự việc, dẫn chứng công phu, lý
luận sắc bén, bênh .vực thuyết phục, lại nhờ hai người ở
miền ngoài: Nguyễn Văn Xuân (Quảng Nam) và Nguyễn
Văn Trung (Hà Nam, Bắc Việt).
Giáo sư Nguyễn VănTrung viết:
“Chẳng hạn, để chứng minh Tố
Tâm, Việt Nam Sử lược không phải là là những
cuốn tiểu thuyết, sử ký đầu tiên bằng văn xuôi quốc
ngữ viết theo lối Tây phương, chỉ cần giới thiệu, trình
bày những cuốn văn, sử xuất bản ở miền Nam vào những năm
1879, 1887, 1910, 1920 v.v…”
Nhà văn hoá Nguyễn Văn Xuân lên tiếng mạnh mẽ
dứt khoát hơn:
“Miền Nam vốn có một địa vị về
văn nghệ và có ảnh hưởng sâu rộng trong quảng đại
quần chúng lan tràn đến cả miền Trung lẫn miền Bắc. Miền
Nam đã gây phong trào tiền phong về mọi phương diện
văn nghệ: báo, tạp chí, truyện ngắn, truyện dài,
truyện dịch, đặc biệt tiểu thuyết Trung Hoa, truyện phóng
tác tiểu thuyết Tây, phong trào xuất bản rộng lớn
các loại thơ bình dân và rất phồn thịnh,đến
nay vẫn còn dẫn đầu về sân khấu.
Văn nghệ miền Nam phải có
quyền được các học giả nghiên cứu sâu rộng. Bộ văn
học sử của Dương Quảng Hàm cũng như bộ phê bình văn
học của Vũ Ngọc Phan đều phiến diện. Việc giảng dạy trong các
nhà trường không thể tiếp tục như cũ. Không thể
quá nặng về văn học miền Bắc mà lầm tưởng là văn
học Việt Nam, vì văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII trở lui
chính là văn học hai Miền, mà từ 1862 đến 1932
thì miền Nam đã vọt lên đi tiền phong, hướng dẫn cả
mọi phương diện phát triển văn học quốc ngữ, mà
còn đào tạo nhà văn nhà báo cho cả
hai miền sau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp”
(Nguyễn Văn Xuân, Khi những lưu
dân trở lại, 1967, tr.10)
Riêng Bình Nguyên Lộc (Bình Dương), một
nhà văn được xếp vào hàng tiêu biểu cho giới
sáng tác trong Nam, khi được hỏi về vấn nạn văn học ấy,
ông phát biểu như sau:
“Những cuốn sách giáo
khoa và lịch sử văn học-như của Dương Quảng Hàm và
của Vũ Ngọc Phan-đều do những người ở miền Bắc viết. Những cuốn
sách này cho rằng những tiểu thuyết đầu tiên ra đời
ở miền Bắc, đó là cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách (1925) và Quả Dưa Đỏ của Nguyễn Trọng Thuật (1925).
Mặc dù còn tuỳ thuộc vào cách hiểu thế
nào là “tiểu thuyết”, công việc nghiên cứu
của chúng tôi, ngược lại, đã chứng minh là
những cuốn tiểu thuyết đầu tiên đã được viết ở miền Nam,
và có lẽ Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu, nguyễn
Chánh Sắt hay Trần Chánh Chiếu xứng đáng hơn
Hoàng Ngọc Phách hay Nguyễn Trọng Thuật trong danh hiệu
cây bút viết tiểu thuyết đầu tiên ở Việt Nam.
Tôi e rằng thành kiến địa phương đã dự phần
vào việc thẩm định nên tôi muốn Bình
Nguyên Lộc xác nhận sự nghi ngờ của tôi. Sau
đó tôi nhận ra là tôi đã quá
bồng bột khi chấp nhận một cách giải quyết phiến diện cho một
hoàn cảnh phức tạp. Bình Nguyên Lộc cho biết mặc
dù một số người miền Bắc có thái độ tương tự người
Trung Hoa, những kẻ tin rằng họ sống ở “trung quốc” (Middle Kingdom)
và chỉ có bọn man di mới sống ở phía Nam,
có một số lý do khác cắt nghĩa tại sao các
nhà phê bình miền Bắc không đề cập đến
tác phẩm của các cây bút phía Nam.
Ông nói: “ Các học giả miền Bắc như Dương Quảng
Hàm đã không nhắc nhở đến các nhà
tiểu thuyết miền Nam vì họ không đọc được tác phẩm
của những người này chứ không phải vì họ
không thích người miền Nam. Tác phẩm của người miền
Nam không được bày bán ở Hà Nội cho
nên họ không biết chút gì về những tác
phẩm đầu tiên đã được sáng tác ở miền Nam.”
(Phan Việt Thuỷ, Nhớ lần thăm
Bình Nguyên Lộc,
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=204
Không giống như bao nhiêu ý kiến khác,
ta nhận thấy Bình Nguyên Lộc đưa ra một lý giải
mới, và phát biểu của ông khá ôn
hoà, chiết trung, nhưng ngẫm lại cũng rất có tình,
có lý.
Miền Nam là vùng đất hội tụ đủ dân cư của cả nước,
các bất đồng tuy tồn tại nhưng không quá gay gắt để
trở nên xung đột với nhau, có lẽ nhờ tính hiếu
hoà, biết nhường nhịn, và có ý thức
đoàn kết dân tộc với nhau, như lời bức thư ngỏ đã
trích ở trên, lỗi chánh tả hơi bị nhiều, lời lẽ
nôm na mà có vẻ thiệt thà, thực đáng
quý:
“Nhưng vậy mà bấy lâu
bổn báo cũng làm thinh nhẫn nhục mà không
đành hở môi, là vì bổn báo vẫn để
lòng cổ động đồng bang chữ hướng về đều liên lạc
đoàn thể với nhau, làm sao cho ba kỳ hiệp một, đấu cật
nhau, diều dắc nhau lên đường tấn hoá, nên chẳng nở
buông lời bái bác nhau mà hại niềm
hoà khí”
Ngày nay, nước nhà thống nhất, các phương tiện
giao thông, truyền thông phát triển vượt bậc, người
ở ba miền đã có dịp đi lại dễ dàng để giao lưu,
làm ăn, kết bạn, các dị biệt về văn hoá,
ngôn ngữ đang bị xoá mờ dần từng ngày. Người ta
có điều kiện để tìm hiểu, phát hiện được những ưu
khuyết điểm, cái tốt cái xấu và những nét
tính cách cá biệt do điều kiện địa lý, lịch
sử tạo nên, từ đó, có thể học hỏi, cảm thông
và thương yêu nhau hơn. Các tranh luận ồn ào
trên các trang mạng về tính cách ba miền
hiện nay, và những cuộc bút chiến nảy lửa năm xưa, tin,
và hy vọng rằng sẽ từ từ nguội lạnh đi, theo năm tháng
không xa.
Có lẽ người Việt chúng ta, sau những phút
nóng nảy và nông nổi, rồi ra cũng đều mong như thế.
Trong thời đại toàn cầu, khi biên giới địa lý giữa
các quốc gia đang bị xoá dần hoặc không còn
quá quan trọng như xưa, chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi hay
tình thần địa phương cục bộ trở thành những chướng ngại
cần phải sớm vượt qua, để đón nhận và vun trồng một
tình cảm mới, có tính nhân loại hơn,
toàn cầu hơn.
Hoàng Anh
(26-10-2010)