HY LẠP ĐỀN ĐÀI HOANG PHẾ NGÀN NĂM
Võ Kỳ Điền

Mùa hè vừa qua tôi có dịp đi thăm xứ sở thần thoại Hy Lạp núi đồi, đền đài hoang phế bên bờ Địa Trung Hải nước xanh màu ngọc thạch. Không bình thản như các lần đi chơi trước, chuyến nầy tôi chờ mong trong nỗi hồi hợp, náo nức. Các chuyện thần thoại Hy Lạp được học từ nhỏ tưởng là xa vời, nào ngờ lúc bước qua tuổi già lại được chứng kiến tận mắt những vị thần và những kỳ quan của thế giới cổ đại qua tượng đá, thành quách, đền đài, dinh thự, vật dụng… xa xưa còn lưu dấu tích nơi nầy. Chuyến bay từ Toronto tới Athens lâu tới gần mười tiếng đồng hồ, tuy đoạn đường khá dài nhưng may mắn chiếc ghế cạnh bên trống chỗ nên tôi ngồi đứng khá thoải mái.

Athens vào những năm 400 trước Tây Lịch là thành phố lớn nhứt và nổi tiếng văn minh nhứt thế giới cổ đại. Người Hy Lạp đã ra sức xây dựng một quần thể kiến trúc tuyệt vời để thờ phụng thần Athena (Nữ thần khôn ngoan và trí tuệ) theo thần thoại, là người bảo vệ kinh đô nước Hy Lạp xưa, trên một ngọn đồi cao giữa thành phố, có tên là Acropole. Nhờ vậy ở Athens, đi dạo phố xá khá yên tâm, cứ nhìn đồi Acropole cao mà định hướng, ít khi đi lạc.

Khách sạn Athens Acropol cao nghều nghệu nằm giữa trung tâm thành phố nên dễ thấy. Nhìn chung thì thủ đô Athens chỉ lớn vừa phải mà dân số tới trên 4 triệu người nên khá chật chội. Ba quảng trường Monastriaki, Constitution và Omonia là ba trung tâm sinh hoạt náo nhiệt của thành phố, du khách tới lui đông đảo nhộn nhịp. Năm 2004 vừa qua, nhờ là quốc gia tổ chức Thế Vận Hội nên hầu hết khách sạn ở đây đều được tân trang sang trọng, tiện nghi tối tân. Trên đường về khách sạn, tôi ngắm nhìn toàn cảnh, ngạc nhiên khám phá một điều là kiến trúc Athens nhìn giống như bất cứ nhà cửa nào ở Canada mình, nghiã là toàn nhà kiểu mới chừng 100 năm trở lại. Thường là kiểu nhà bê tông cốt sắt hình hộp vuông vuông, cao chừng 3, 4 từng, quét sơn trắng viền xanh, màu của cờ Hy Lạp quen thuộc, nhà cửa cao thấp không đều, nối tiếp nhau chạy dài theo từng con lộ. Thành phố nhỏ hẹp nên khoảng trống hầu như không có, công viên rất ít. Tuy nhiều nắng nhưng may nhờ có biển Địa Trung Hải bao quanh nên khí hậu dễ chịu, nhiệt độ thường ngày khoảng 20, 21 độ bách phân.
Athens hoàn toàn không có kiểu nhà xưa bằng đá, gỗ hay xi măng chạm trổ cầu kỳ các thế kỷ trước như ớ Paris, Londre, Bruxelles, Luxembourg, Genève, Amsterdam… như chúng ta đã từng gặp ở các thành phố Âu Châu khác. Kiểu vỏ đền đài, dinh thự Hy Lạp hiện nay đều được xây dựng bằng đá cẩm thạch vuông, thẳng, đường nét chắc chắn, hùng mạnh, ít chạm trổ điêu khắc ở các cột và mái. Còn nhà cửa dân chúng thì giống y nhà cửa ở Bắc Mỹ. Xứ nầy chiến tranh xảy ra triền miên nên Athens thường bị tàn phá (các bạn nhớ lại phim Les Canons de Navaronne). Thành phố hiện nay chỉ mới được xây dựng lại từ đống tro tàn. Hủy diệt và hồi sinh, y như lịch sử ngàn năm trước…

Cũng cần phải nói thêm, đây là nhà cửa thấy trong đất liền, còn khi đi chơi nhiều hải đảo thì trên các đỉnh núi chon von, ngược lại tôi đã bắt gặp phần lớn các phố xá còn giữ y nguyên kiểu nhà Hy Lạp xưa cũ. Mà nó cũng đặc biệt lắm, không giống bất cứ kiểu cổ nào của các thành phố Châu Âu tôi đã đi qua.

Buổi chiều đi trên con đường Athenias trước mặt khách sạn, nhìn phố xá hai bên, xe cộ dập dìu, người người qua lại, sinh hoạt đông đúc nhưng không ồn ào, người Hy Lạp dáng vẻ đàng hoàng, hiếu khách và lịch sự. Quanh vào một đường nhỏ bên trái, tôi tình cờ bước vào một chợ bán thịt với nhiều gian hàng bày đủ loại thịt bò, heo, dê trừu, gà… màu thịt tươi ngon, giá cả vừa phải, thịt các loại độ 6, 7 euro một ký.
Người bán đều là đàn ông, không thấy phụ nữ, cách chào đón mời mọc khách mua tươi vui nồng nhiệt nhưng vừa phải không quá ồn ào. Từ ngày xa xứ tới giờ, lần đầu tiên tôi thấy lại được những gian hàng bán thịt tươi, cắt cắt, xẻ xẻ, cân cân, giống như ở Việt Nam mình, chưa ăn cũng đã thấy ngon. Không như thịt ở các siêu thị Bắc Mỹ được cắt gói sẵn, nằm buồn hiu trong tủ kiếng chờ người mua.

Lề đường Athens chật hẹp, đoạn gần tới khu vực di tích Acropole, có hàng cây lạ, được trồng dài trên vỉa hè, thân cây ốm thon, cao độ 9,10 thước, lá nhỏ hoa màu tím, giống hoa bằng lăng, hoa nhiều hơn lá, nở rộ tím cả một khu phố, xa xa là khu di tích điện Parthénon ba ngàn năm hùng vĩ, với những hàng cột thẳng đứng cao vút, trơ gan cùng tuế nguyệt trên đỉnh đồi cao. Đẹp quá, du khách nào thấy cũng xuýt xoa trầm trồ. Tôi bỗng chợt nhớ những câu hát quen thuộc ngày xưa - chiều tím, chiều nhớ thương ai, người em tóc dài… Phải ngắm nhìn phong cảnh tím cả góc phố Athens buổi chiều xuống ở đây, mới cảm nhận được cái tài hoa của những nhạc sĩ Việt Nam mình lúc trước, mới hiểu chút chút - tím cả hoàng hôn, tím cả chiều hoang biền biệt, mới biết chiều tím là đẹp như thế nào!

Nhưng không phải các lề đường Athens đều trồng cây hoa tím (có lẽ là giống phượng tím Jaracanda của châu Mỹ?), chỉ một đoạn nầy thôi. Phần lớn vỉa hè là trồng cam, nếu không cam thì cây dâu tằm ăn (murier) lá to để lấy bóng mát, các xứ khu vực Địa Trung Hải nắng vàng óng ả quanh năm. Nhiều hàng cam gốc to cỡ bắp chưn, tàn lá dầy đặc xanh mướt, trái vàng chi chít đầy cành, tôi đứng tiếc ngẩn tiếc ngơ nhìn trái rụng rải rác quanh gốc mà chờ coi… không thấy người lượm! Tiếc thì có tiếc nhưng hổng lẽ người lượm cam rụng lại là mình, kỳ lắm.

Bước chân du khách thỉnh thoảng phải dừng lại và đi quanh. Trước mặt một ngân hàng to lớn là một hố sâu to được đào ngay dưới vỉa hè, chiều ngang và dọc khoảng độ 4 thước vuông. Trên có mái che bằng kiếng khung sắt hình chóp nhọn, trông cũng khá thẩm mỹ. Tôi tò mò nhìn sâu xuống dưới lòng đất được đào trống, thấy vài nền đá tảng ngang dọc của một dinh thự cổ khá to, có cầu thang đi lên trên, cũng bằng đá. Nhìn sâu hơn nữa, thấy có vài ống dẫn nước bằng gạch nung, đường kính khoảng 40 cm, ló ra ngoài chừng hơn nửa thước dài. Thì ra đó là một di chỉ khảo cổ của thành phố nầy mấy ngàn năm trước. Khi đào đất cất ngân hàng, người ta bắt gặp nó và giữ kỹ ở tình trạng nguyên dạng… có tấm bảng đồng nhỏ ghi chú các tài liệu khảo cổ gắn cạnh bên. Tôi sững sờ coi kỹ lại và bâng khuâng tự hỏi, ống thoát nước nầy mới làm hay là có từ lâu lắm? Rõ ràng là xưa lắm. Cách đây mấy ngàn năm, dân cư ở thành phố nầy đã biết thiết kế hệ thống thoát nước hoàn bị như vầy, thiệt tình là họ văn minh sớm lắm, không thể tưởng tượng được.

Ở nhiều xứ Á Châu, Phi Châu, những bộ lạc bán khai, rác rến, phân người và phân thú, nước bẩn, xác thú vật chết… thì quăng vứt đại đâu đó cũng được. Tiền của, công sức, hơi đâu mà làm ống cống chôn luồn dưới đất để thải nước dơ ra sông ra biển. Các nền văn minh lớn trên thế giới như Maya, Azteque ở Trung Mỹ, Khmer ở Cambodge,… sở dĩ bị tiêu diệt mau lẹ sau khi rực sáng lên một giai đoạn rất ngắn là vì những thành phố của họ không có hệ thống thoát nước đầy đủ, rác rến không được xử lý đúng cách, chỗ ở bị ô nhiễm nặng nề. Vì thành phố lớn nên dân chúng tụ tập sinh hoạt đông đảo. Nhà cửa, đường phố tràn ngập rác rến, phóng uế bừa bãi, ruồi muỗi, chuột bọ, rắn rít… chỉ trong một thời gian ngắn là đủ gây nên những bịnh dịch truyền nhiễm kinh hoàng. Ở Cambodge, dân chúng chết hàng loạt vì bịnh sốt rét malaria (muỗi Anophèle), cung điện Đế Thiên Đế Thích phải bỏ hoang, rừng rậm phủ kín gần sáu bảy trăm năm. Ở Mexique (vùng kim tự tháp Chitchen Itza, Teotihuacan..) dân chết như rạ vì dịch hạch hoặc dịch tả (peste, cholera..)

Nền văn minh Hy Lạp cũng sớm bị tàn rụi, không phải do thiếu vệ sinh như vài nền văn minh trên nhưng vì bị chiến tranh nội bộ xâu xé (các bang Macédoine, Sparte, Athene) hoặc bị ngoại quốc xâm lăng (Turc, Perse, Rome..) Ở Hy Lạp dù trong đất liền hay hải đảo, bất cứ thành phố nào cũng nhìn thấy thành quách, tường lũy, tháp canh, bằng đá tảng đồ sộ, kiên cố phòng ngự, thì biết ngay chiến tranh ngày xưa khốc liệt là chừng nào! Khi tôi đến thăm viếng đảo Héraklion (Crète) thì thấy một bức tường đá, xe cộ có thể lưu thông dễ dàng trên mặt thành, chiều ngang thật dầy, cao chừng 6, 7 thước, xây ngoài biển cách xa bờ chừng vài chục thước, chạy dài bao vòng quanh đảo, chỉ chừa một khoảng nhỏ để làm hải cảng cho tàu ra vô. Trong đảo là vô số tháp canh, tường lũy, cái nào cái nấy rất là đồ sộ, đảo Rhodes cũng vậy. Thiệt tình, không thể tưởng tượng được, với tiền của, nhân lực, vật lực và phương tiện máy móc nào mà người xưa đã xây dựng nổi những công trình vĩ đại như vậy, trên đất liền là đã khó và khổ nhọc lắm rồi, ngoài biển khơi mà làm một tường thành kiên cố to sầm bằng đá tảng để bảo vệ đảo, thì làm sao làm được và làm nổi. Vậy mà người xưa đã thực hiện lớn lao như vậy đó.

Có ông tài xế taxi giải thích cho tôi hiểu, thành phố Athens nầy được xây cất trên nền của thành phố cổ hàng mấy ngàn năm về trước. Do đó khi ta bước đi trên mỗi thước đất, biết đâu là mình đang bước trên một di tích lịch sử. Chánh phủ Hy Lạp thì nghèo, tổ chức Unesco của Liên Hiệp Quốc rất lo lắng và quyết tâm bảo vệ những gì của tiền nhân còn sót lại, nên có giúp đỡ nhiều trong việc bảo tồn những di tích lịch sử xứ nầy. Người dân muốn xây cất nhà trên một miếng đất phải làm đơn gởi Nha Khảo Cổ và chờ một thời gian dài, để các nhà khảo cổ đào bới coi phía dưới có một di tích gì hay không, thời gian chờ đợi là 2 năm. Có 2 trường hợp xảy ra - nếu không gặp gì hết thì hết sức may mắn, mình được quyền xây cất nhà cửa theo đúng luật lệ thành phố. - Nếu có nền móng lâu đài, dinh thự cổ thì nhà nước mua lại theo giá quy định và bắt buộc phải bán, không được khiếu nại gì hết. Vì đó là tài sản văn hoá của quốc gia.

Từ ngoài biển nhìn vào thì thành phố Athens gồm hằng trăm ngàn nhà nho nhỏ như những chiếc hộp vuông trắng xoá nằm trải dài theo bình nguyên cạnh biển, lưng dựa vào dải núi thấp, sườn dốc thoai thoải cũng một màu thạch cao trắng xoá. Phải vài ngày sau khi đi chơi chỗ nầy chỗ kia tôi mới biết, các núi Hy Lạp phần lớn đều được cấu tạo bằng đá cẩm thạch trắng (marble). Núi nào cũng có vài hầm đá qui mô với máy móc dụng cụ cưa xẻ hầu khai thác loại đá trắng quí nầy. Cũng có nhiều cơ sở tạc tượng đá, sân rộng chứa đủ loại tượng được đục đẽo nằm đứng ngổn ngang, đường nét tinh xảo. Thời cổ đại, người Hy Lạp đạt văn minh sớm, thuộc bậc thầy của thế giới nhiều bộ môn như triết học, chánh trị, văn học, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật mà kiến trúc và điêu khắc còn ghi đậm dấu ấn những nơi đây.. Ở xứ nầy những gì cần làm bằng đá thì toàn là đá cẩm thạch, nhiều vô số kể. Tôi để ý thì thấy nhà cửa, vật dụng, đường đi đều được lót bằng cẩm thạch, nói ngoa một chút cho vui, cả xứ Hy Lạp đều làm bằng cẩm thạch trắng.

Buổi sáng tôi đi thăm đồi Acropole với các quần thể kiến trúc đồ sộ trên một đỉnh đồi đá cao 165 thước so với mực nước biển, được xây cất dưới triều đại Péricles, thời kỳ vàng son của nền văn minh Hy Lạp, thế kỷ thứ 5 trước TC, do hai kiến trúc sư Ictinus và Callicrates vẽ kiểu và xây dựng. Giá vé vào cổng là 12 euro, đường lên dốc đồi được lát bằng đá cẩm thạch đen và trắng, mòn nhẵn dưới biết bao gót giày của du khách tứ xứ. Tất cả đền đài dinh thự, điện Parthénon, cổng Propylaea, đền thờ thần Nike, đền Erechthéion… sau bao nhiêu hoang phế đổi dời của cả ngàn năm, chỉ còn trơ lại trên nền đá cao những hàng cột cẩm thạch vân trắng hoặc hồng nhạt, cột cao cột thấp… Những cuộc chiến tàn khốc xảy ra, những cuộc động đất long trời lở đất tiếp nối, rồi cuối cùng thời gian tàn nhẫn dài lâu hằng ngăm năm, đã biến cả một công trình đồ sộ đẹp đẽ thành những đền đài hoang phế, đổ nát tang thương. Cả một đỉnh đồi rộng rãi vuông vắn, chồng chất ngổn ngang những tảng đá nứt nẻ được chạm trổ, điêu khắc sắc sảo, mưa gió ghi dấu xanh rêu lỗ chỗ, mỗi cục nặng chừng 5, 10 tấn, cục còn nguyên, cục bị sứt mẻ, nằm lăn lóc chỗ nầy chỗ kia…

Cổng Propylaea là một cổng thành đồ sộ được xây dựng bằng đá cẩm thạch do kiến trúc sư Mnesicles vẽ kiểu, vào các năm 437- 432 tr T L. Cổng nầy không bao giờ được trùng tu cho thiệt hoàn hảo vì cuộc chiến Peloponnesian xảy ra. Cổng được tuyên xưng là -chiếc vương miện rực rỡ của thành trì Thượng Đế -gồm một cổng chánh, có hai vòm mở vào đầu đường Tôn Nghiêm, với hai cánh hai bên là hai tòa nhà lớn đối xứng, trong đó cánh phía Bắc là một phòng trưng bày tranh. Cột ngoài kiểu Doric, bên trong kiểu Ionic. Kiến trúc nầy bị hư hại nặng trong nụ nổ do sét gây ra năm 1640. Hiện cơ quan Unesco đang cho sửa chữa, gạch đá còn ngổn ngang. Mỗi cây cột là nhiều tảng đá bằng phẳng lớn hình tròn, được chất chồng thẳng đứng lên nhau. Tôi tò mò ôm thử một cây cột, lớn quá, cột đá lạnh ngắt, vòng tay tôi chưa được một phần ba. Như vậy phải chừng ba người ôm mới giáp một vòng cột….

Bên phải cổng Propylaea trên đài cao là một đền nhỏ tương đối còn nguyên, song song trước sau 8 hàng cột kiểu Ionic xinh xắn (loại cột trên đầu tạc hình giống đầu chiếc vĩ cầm, dưới chân có bệ). Đó là đền thờ nữ thần Nike (The Temple of Wingless Victory, được xây cất vào thế kỷ thứ 5 tr TC, kỷ niệm chiến thắng của Hy Lạp đối với Turc, vì không cánh nên vị thần Chiến Thắng nầy sẽ mãi mãi ở lại nơi đây để bảo vệ thành phố) Ngôi đền được sửa sang toàn vẹn với vật liệu gốc.

Điện Parthénon là một ngôi đền điển hình của Hy Lạp với hai hành lang bên ngoài, diện tích hình chữ nhật, chu vi bên ngoài gồm 46 cột thẳng đứng, kiểu Doric (đầu cột là một bệ vuông, đỡ lấy mái, dưới chân không bệ). Điện có kích thước 69,51 m -30,87m, rất hùng vĩ. Trang trí điêu khắc ngôi đền nầy là điêu khắc gia cổ đại Phidias, nổi tiếng bậc thầy. Bên trong chia làm hai gian có vách ngăn, gian ngoài được gọi là Hécatompédon là gian thờ tượng nữ thần Athena, tương truyền bằng ngà và vàng cao 12 m và gian trong gọi là Parthenon chỗ cư ngụ các nữ đồng trinh và cũng là kho chứa vật thánh linh và châu báu của thành phố.
Người hướng dẫn du lịch đưa tay chỉ những hàng cột cao, miệng thao thao giải thích -khi xây cất các kiến trúc sư đã đặt những cột bên ngoài lớn hơn các cột giữa một chút và cũng hơi nghiêng vào bên trong một chút, khoảng cách các cột bên ngoài với cột bên cạnh, cũng xa hơn khoảng cách các cột bên trong một chút,.. tất cả những dụng ý đó khiến cho mắt nhìn thấy các cột bằng nhau, đều nhau, song song một hành thẳng tắp… theo luật viễn cận. Đó là nhằm điều chỉnh những sai số thị giác khi ngắm nhìn một công trình đồ sộ trong không gian. Tôi nghe đến đây mà phát sợ… cho cái ngu của mình !!! Cách đây gần 3000 năm người ta đã thực hiện được những công trình vĩ đại mà hiện tại chỉ được giải thích có chút xíu mà mình vẫn chưa hiểu hết !

Hèn chi trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại thì người xưa đã ghi nhận đến 5 kỳ quan thuộc nền văn minh Hy Lạp rồi. Đền Parthénon xứng đáng là kiệt tác mẫu mực nhất về cái đẹp của kiến trúc Hy Lạp cổ điển, nó cũng là chuẫn mực cho kiến trúc Tây Phương suốt mấy chục thế kỷ sau nầy.

Đền Erechthéion hình chữ nhựt có ba cổng cao thấp khác nhau. Bên trong dùng cho việc hành lễ tế thần Athena Polias, vào bằng cửa Đông và thần Poseidon Erectheus, vào cửa Bắc, các cột dáng kiểu Ionic. Cổng hướng Nam có hàng cột tuyệt đẹp, điêu khắc công phu hình sáu mỹ nữ đồng trinh, vóc dáng tuyệt mỹ, y phục nhẹ nhàng thanh thoát, dáng đứng dịu dàng sang cả, đầu như đội vương miện đỡ lấy mái đá. Nhìn tận mắt các hàng cột Kariatyds nầy (the Caryatids = trinh nữ xứ Karia), tôi tưởng chừng như về sau nầy dẫu có người tài hoa giỏi giắn cách nào, cũng không thể làm được một công trình tuyệt xảo như vậy nữa. Đền được xây dựng từ các năm 421 trước Tây Lịch và được sửa chữa lại năm 405 tr T L, sau một vụ cháy vào năm 395 tr T L. Và bây giờ cũng đang được tu bổ tiếp tục…
Trong kiến trúc Hy Lạp còn còn một loại cột mỹ thuật nữa là kiểu Corinthian như ở đền Thờ Thần Zeus trên núi Olympian. Cột Corinth, có bệ dưới chân và đầu cột điêu khắc chùm hoa lá nở hướng lên. (Cột Doric là cột dương nên mạnh mẽ; cột Ionic, Corinth, Caryatids là cột âm nên dịu dàng).

- Các ngày sau, chúng tôi đi thăm đảo Rhodes có những thành trì, đồn lũy kiên cố, tôi để ý và cố tìm kiếm dấu vết của tượng thần Rhodes, tương truyền bằng đồng, cao trên 36 thước (theo phim tài liệu The Seven Wonders of The Ancient World thì cao 60 thước) đặt ở hải cảng như sách vở đã miêu tả, tàu bè qua lại dưới hai chân tượng, một kỳ quan thế giới cổ đại. Nhưng tôi không thấy gì ngoài những thành trì bằng đá tảng đồ sộ, những tháp canh cao vòi vọi có nhiều lỗ châu mai. Chiến tranh cũng có nét đẹp hào hùng lẫn bi tráng của nó. Tôi nhìn chiếc cầu bắt qua cửa thành mà tưởng chừng như thấy cuộc chiến long trời lở đất đang diễn ra, địch quân hung hãn ào ạt xung phong và trên những tường thành nghi ngút khói lửa, đầy trời tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, lính tráng đang xả thân chiến đấu hết sức để ngăn chận, bảo vệ thành phố, bảo vệ mạng sống mình và vợ con…

Ở xứ nầy, chiến tranh không phải xảy ra một, hai lần mà là nhiều lần và dĩ nhiên rất tàn khốc. Mạng người như cỏ rác. Sau cuộc chiến còn lại chỉ là xương cốt mục rửa với biết bao nhiêu cô nhi và quả phụ! Cứ nhìn bất cứ nơi nào, dù trong đất liền hay ngoài hải đảo, chúng ta cũng sẽ thấy thành quách, hào lũy trùng điệp vây quanh…

Có thể kết luận, lịch sử Hy Lạp là đi chinh phục và bị chinh phục. Khi mới đến tôi không hiểu tại sao phần lớn các thị trấn, thành phố đều được xây dựng trên núi non hiểm trở cheo leo, đường đi rất gian nan nguy hiểm. Có ở một thời gian thì mới rõ, họ phải làm như vậy để tự bảo vệ và tồn tại. Tuy bị các nước xung quanh đô hộ và cai trị cả ngàn năm nhưng người Hy Lạp bất hợp tác với quân thù, kéo nhau lên vùng cao trên núi rừng, giữ gìn được tất cả bản sắc của dân tộc mình từ triết học, văn học, chánh trị, nghệ thuật, hội hoạ, khiêu vũ, kiến trúc, điêu khắc...

Đảo Patmos, có tu viện St-John trên núi cao nhìn xuống một hải cảng bên dưới. Đường lên dốc đá cheo leo được lát bằng những viên cuội tròn đen, bóng nhẵn do mưa gió thời gian, đôi chưn tôi bước hoài mà không thấy tới, du khách chen nhau như trẩy hội. Tôi cứ lo sợ nơm nớp, nếu trợt cẳng lọt xuống vực thẳm hun hút dưới kia thì không biết phải làm sao, mình tuổi tác khá cao rồi, sức yếu làm sao mà… leo lên cho được!
Tu viện thánh John vừa là một toà thành trì với các tháp canh bằng đá tảng, vừa là tu viện lớn sừng sững nguy nga trên chóp núi, vách đá cao chớn chở, trước mặt tiền có tạc hình nổi chiếc thuyền lớn của ông Noah. Trong tu viện có chưng bày một dụng cụ bằng cây hình hộp dài đáy phẳng, đen xám cũ mục, ngang dọc và cao chừng 1m -1m- 3m, mới nhìn cứ tưởng là cái quan tài rất lớn, không biết dùng để làm gì. Tôi tò mò hỏi, thì ra nó là cái máng dùng để trộn bột làm bánh mì cho cả tu viện dùng. Lớn quá, nhiều quá, phải bao nhiêu người mới dùng cho hết một lần nhồi bột như vậy, tôi không đoán nổi!

Mặt sau tu viện, vươn lên một chiếc cổng như cổng Propylaea tuy nhỏ hơn, một di tích cổ đại đang được trùng tu. Những hàng cột Doric cẩm thạch trắng, được máy móc cắt xén giống y kiểu xưa, do Liên Hiệp Quốc tài trợ, được dựng lại trên nền đá cũ ngàn năm trước, trông rất kiên cố, bền vững, chế ngự bao quát cả một vùng biển xanh rờn dưới kia, cảnh đẹp như một bức tranh vẽ… Nhìn toàn thể tu viện thì tôi mới hiểu, phía sau là đường lên tu viện, còn cổng phía trước là mặt tu viện quay ra biển khơi… Vậy mà tôi có cảm giác như ngược lại, trước thành sau mà sau thành trước.

Đứng ngắm công trình tu bổ vĩ đại nầy mà suy nghĩ tới suy nghĩ lui. Bao nhiêu ngàn năm nữa, các thế hệ con cháu sau nầy cũng sẽ tiếp tục làm những hàng cột kiểu Doric đẹp đẽ mà dựng lại nơi đây… Vì những hàng cột hiện tại dù chắc chắn, kiên cố cách mấy đi nữa rồi cũng sẽ mục rữa, đổ nát theo thời gian, cũng sẽ tàn lụi cũng như đã từng tàn lụi! Thời gian quả thiệt là khắc nghiệt và vô tình. Gạch đá bền cứng còn như vậy, nói gì đến da thịt mong manh con người. Lúc ở đảo Crète, tôi nhìn một hàng đá, nhiều tảng to cỡ mặt bàn bị sóng đánh tan rã, phần còn sót lại còn trơ ra như cát bùn, thấy mà giựt mình… trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì (Cung oán)

Tối hôm đó du thuyền chúng tôi vào địa phận Turkey. Sáng sớm đổ bộ lên bờ, dùng bus đi Kusadasi, một thành phố Turkey tiếp giáp Hy Lạp. Đường xá, nhà cửa phía bên nầy loang lổ, vá víu, có vẻ luộm thuộm, nghèo nàn hơn bên Hy Lạp. Núi đá khô cằn, chỉ thấy cây ô -liu được trồng rải rác trên sườn núi đầy đá sỏi không có một chút đất đen, thấy mà tội nghiệp. Loại cây nầy thân mộc to cao chừng 7, 8 thước, lá nhỏ như là trúc đào, mặt trên xanh, mặt dưới màu xám bạc, nhiều cây già cỗi có dáng đẹp uốn éo như bonsai. Khu vực nầy xưa gọi là Anatolia và di tích Ephesus là thủ đô của 500 thành phố trong khu vực nầy. Vào thế kỷ thứ 5 Tr TL, người ta đã xây dựng lên một thành phố tráng lệ để thờ phụng nữ thần Artémis. Ngôi đền được mô tả làm theo kiến trúc Hy Lạp tuyệt đẹp, được liệt vào kỳ quan thế giới cổ đại. Nữ thần Artemis cũng tức là Diana theo tên gọi người La Mã. Nàng là con thần Leto và thần Zeus, em sinh đôi với thần Apollo. Nàng là thần săn bắn có tính khí như đàn ông. Chính vì thế các kiến trúc sư đã sử dụng loại cột Ionic để xây. Ionic là một trong ba loại cột nữ giới, nhưng cột Ionic mạnh mẽ hơn cột Corinth, những ngôi đền cón lại thờ các thần khác đều sử dụng loại Corinthian, không thấy cột Caryatids.

Di tích Ephesus không phải chỉ có một hai đền thờ mà là cả một thành phố lớn, giữa là một con đường cẩm thạch rộng chạy dài, hai bên là nhà tắm công cộng, nhiều nhà thờ các thần linh, các cơ quan hành chánh, rạp hát, thư viện, các vận động trường…

Con đường chánh nầy dài 4 cây số dẫn tới cổng Koressos ở Bắc và cổng Magnesia ở phía Nam, hai bên là hai hàng cột cao 8 thước. Hầu như các vận động trường (The Stadium) và thư viện (The Library of Celsus) còn giữ được hình dạng cũ, còn lại tất cả hoặc nhiều hoặc ít, chịu cảnh đổ nát hoang tàn. Giữa một cánh đồng rộng lớn là những cột đá chơ vơ, những bức tường loang lổ, những cổng, những tượng thần hoặc những nền móng đền đài còn sót lại. Trên đường Curettes Street có nhiều tượng thần y như Esculape, Hygie hoặc Panacée, cùng tượng các tổ y khoa Hippocrate, tổ dược khoa Galien, có tượng không đầu của một người nữ bác sĩ thời đó, kỷ niệm bà đã tận tâm phục vụ cho xứ.

Nhà tắm dành cho công chúng và tư nhân, do bà Skolasticia lập nên có hồ tắm, có tắm nóng (caldarium) tắm ấm (tepidarium) tắm lạnh (frigidarium) và phòng thay quần áo (apoditerium). Có lò nấu nước lớn ở trung tâm và hệ thống sưởi dùng đủ cho tất cả cả các phòng. Tôi thấy bên đường, trong một nhà có cột đá, trên một phiến đá cẩm thạch dài khoan nhiều lỗ tròn khá lớn, phía dưới có rãnh nước chảy xuôi, thấy y như nhà cầu trong trại lính Quang Trung ngày trước. Quả đúng vậy, người hướng dẫn cho biết, đó là nhà tiêu tiểu công cộng, có hệ thống thoát nước bên dưới, nước lưu thông thường xuyên nên khá sạch sẽ.
Có tấm đá cẩm thạch vuông khá lớn, được đặt nằm trên mặt đất, có khắc hình một bàn chân trái còn rõ nét và mặt một người đàn bà lờ mờ, có lẽ do thời gian xoá mòn. Người hướng dẫn giải thích, bàn chân nầy chỉ về hướng nhà chứa gái điếm, mặt người đàn bà là các cô gái giang hồ… - Trời đất, bên Hy Lạp không những có nhà chứa mà còn công khai quảng cáo nữa, chớ không phải chỉ có bên Tàu đời Tần do Thương Ưởng phát minh. Thiệt tình, con người dù ở phương trời nào thì cũng giống nhau như hệt về ba cái vụ lạng quạng nầy!

Con đường cẩm thạch chánh (The Marble Street) thoai thoải đi dần xuống khu vực thấp hơn. Thư Viện Celsus (thế kỷ thứ 2 sau TC) lớn nguy nga, đứng sừng sững bên trái. Đó là một tòa nhà cao hai tầng khổng lồ. Phía trước là một sân rộng, quang đảng. Từ nền sân trước, bước lên 7 ngạch đá cao, mặt tiền thư viện gồm hai tầng cao. Tầng dưới là một hàng 8 cột, khoảng cách không đều nhau, chia làm 4 cặp sóng đôi, đầu cột được điêu khắc vừa kiểu Ionic vừa kiểu Corinth, cao 10 thước, đỡ lấy trần nhà. Phía trên lầu cũng gồm 8 cột cao và đẹp y như vậy, đỡ lấy mái nhà. Trên mái là những tảng đá làm đà ngang, là một riềm nhà hình tam giác khổng lồ, được điêu khắc tỉ mỉ các tượng triết gia, học giả cổ đại. Sau hàng cột là mặt tiền thư viện, có những ô lỏm vào, nơi đó người ta đặt những pho tượng tuyệt đẹp, có tượng còn đầu, có tượng đã mất.
Nhìn các nét đục đẽo tinh xảo trên từng phiến đá hoa, có trắng, có hồng, tôi phân vân tự hỏi:

- Mấy trăm ngàn tảng đá nặng hàng chục tấn ở rất xa, làm sao khiên vác nổi tới đây mà xây cất dinh thự, lầu gác như vầy? thời đó đã có sắt thép cứng chưa, làm sao mà đục đẽo đường nét, sắc sảo, đẹp đẽ y như máy làm ra vậy.?

Rồi, câu hỏi tiếp theo, thư viện nầy lớn quá, lớn hơn thư viện ngày nay rất nhiều, phải bao nhiêu triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, phải có bao nhiêu người viết, phải có bao nhiêu sách để vô cho đủ? Nếu có đủ sách thì có bao nhiêu độc giả vô đó để học hỏi, tham khảo, để coi?

Mà chuyện học hành thời đó ra sao, trường học ra sao mà thư viện lại lớn lao đến như vậy? Chỉ mới có thư viện nầy thôi, tôi đã không giải đáp nổi rồi, nói chi đến 2 vận động trường lớn chần dần, cái ở đầu, cái ở cuối thành phố, mỗi cái chứa đến 25.000 chỗ ngồi. Bao nhiêu người dân sống nơi đây, đời sống ăn ở, sinh hoạt ra sao? Không lẽ suốt ngày đi tắm ở các nhà tắm công cộng, rồi đến thư viện đọc sách, rồi chơi thể thao hoặc họp nhau mà bàn cãi chánh trị, triết học, văn học nghệ thuật hoặc ngâm thơ cho nhau nghe? Sau đó rủ nhau chun đường hầm đi đến chỗ có tạc bàn chân trái…!

Tóm lại tôi nhìn di tích đẹp đẽ đến mê mẩn nhưng khi suy nghĩ từng khía cạnh của đời sống ở đây, vào thời kỳ đó, rồi so sánh đời sống dân chúng xứ nầy xứ kia, vào thời kỳ nầy… suy nghĩ hoài không ra, thiệt là điên cái đầu!

- Từ ngoài du thuyền muốn vào thăm đảo Santorini phải dùng thuyền nhỏ. Mỗi chiếc chở độ chừng trăm du khách. Từ ngoài khơi nhìn vào thì thành phố xây trên đỉnh núi cao cheo leo, vách đá sừng sững, thấy muốn chóng mặt, mỗi lần xe bus chở du khách quẹo cua hay lên dốc là tim tôi thót lại. Xe chạy ngoằn ngoèo bên triền núi, đường rộng vừa phải, được tráng nhựa mới tinh. Một bên là vách núi đá cao chớn chở, một bên là biển xanh rờn rợn, du thuyền đậu rải rác chừng chục chiếc trắng xoá dưới kia, cảnh đẹp như tranh vẽ…

Nhìn vách núi Santorini thì biết ngay đó là đảo núi lửa. Vách cao chừng 5, 70 chục thước, pha trộn đủ màu, màu than đen, màu tro trắng xám, màu đất sét vàng ẻo, màu đất đỏ quạnh, từng lớp, từng lớp như miếng bánh da lợn, dầy chừng 5, 3 thước, sắp xếp chồng chất lên nhau, màu sắc tùy theo chất liệu núi lửa khi phun ra. Tôi thấy chúng được cấu tạo như đất cát trộn lẫn nhau, tưởng là bở bời rời, nào ngờ khi lấy tay rờ và cạy thử, thì ra nó đã kết tinh lại và cứng như đá!
Theo cuốn The End of Atlantic của J.V. Luce in ở Anh năm 1970 được phổ biến rộng rãi thì châu Atlantic là có thật, quanh quẩn khu vực nầy. Santorini gồm một quần đảo, các đảo cách nhau 15-17 cây số. Chúng tạo thành một vòng tròn nổi trên Địa Trung Hải. Nửa vùng vịnh phía Bắc bị một núi lửa cũ phun sập vào năm 1650 Tr TL, tiêu diệt nền văn minh Minoan và châu Atlantic. Đó là vụ phun lửa lớn nhứt trong vòng 10.000 năm trở lại. Mây khói cao tới 36 cây số, tro phủ kín các nước kế cận, lan tới cả Turkey, Egypt… Santorini hoàn toàn bị tro núi lửa bao phủ, có lớp dầy tới 50 thước cao. Núi lửa vẫn còn hoạt động và tiếp tục phun lửa, trận gần nhứt xảy ra năm 1950.

May là khi chúng tôi tới, núi lửa đã ngưng phun từ lâu rồi, chắc là như vậy. Trên đỉnh là một thành phố nhỏ y như một thôn xóm, khang trang sạch sẽ nhưng nhỏ hẹp - đi năm phút đã về chốn cũ, nhà cửa hoàn toàn được giữ y kiểu vẻ Hy Lạp ngàn năm xưa. Nhà nhà đều hình vuông, cất dọc theo những đường hẻm ngoằn ngoèo, lót bằng đá cẩm thạch trắng, tường nhà bằng gạch đá trát vôi hoặc sơn trắng, khung cửa sơn màu xanh nước biển. Đặc biệt không có mái ngói như dưới đồng bằng, mái nóc bằng bê tông đúc hình vòng cung như miếng ngói úp nằm dọc theo chiều trước sau, nóc cũng được sơn trắng. Đôi khi cũng có mái bằng như chiếc hộp vuông. Nhà thờ thì vòm tròn như nửa quả địa cầu, có thập tự giá trên cao, phòng ốc cao thấp khác nhau kiểu vở xinh xắn.. Nhìn chung cả thành phố chỉ hai màu, các khung cửa màu xanh, còn lại tất cả màu vôi trắng xóa.
Từ xa nhìn thành phố đẹp như bức tranh học sinh lớp nhỏ vẽ chơi với các hình vuông vuông tròn tròn, trên là núi cao, dưới là biển xanh.. Không tìm được rác rến dơ bẩn hoặc một bức tường nứt nẻ, vụn vỡ nào. Thành phố nho nhỏ, xinh xắn, sạch sẽ, khang trang, khá yêu kiều nhưng gần gũi, dễ thương, ấm áp. Du khách với y phục mát mẻ đầy màu sắc, tới lui rộn rịp trên các đường phố quanh co, trong những căn phố hay quán lều nhỏ bày bán đồ kỷ niệm. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe hơi hay scouter nhỏ chạy len lỏi trong đám đông, vì đường phố ở Santorini chỉ có vài con đường nhỏ ngang qua khu phố chợ. Bận về, xe bus không dám chở du khách vì sợ tuột dốc đứng. Chúng tôi phải xuống bằng đường không thiết (cable-car, funiculaire), có một số người trẻ can đảm hơn, họ chọn cách đi bằng lừa. Tôi tò mò hỏi người hướng dẫn - tại sao không thấy một kiểu nhà mới nơi đây, thì được trả lời - thành phố có luật bảo vệ kiểu vẻ xây cất ngàn năm trước. Khi nào nhà cửa bị hư hao cần phải xây cất lại hay sửa chữa thì phải theo kiểu y như cũ, không được làm khác.
Tối hôm đó chúng tôi trở về Athens và sáng sớm lên đường đi Delphi, thời gian di chuyển chừng độ 3, 4 giờ xe. Delphi nằm trền sườn núi Parnassos, dọc đường du khách thấy được những rừng cây ô -liu và cây trắc bá (cypress) xanh mướt ngút ngàn. Khi lên lưng chừng đỉnh núi thì nhìn thấy cả một vùng biển trời rộng trải ra xanh biếc, rặng núi Poloponnese cao vút, vách đá thẳng đứng vây quanh. Núi và biển chen lấn nhau khoe nét hùng vĩ trong vịnh Corinthian Gulf, tưởng như trong trời đất bao la nầy, không còn chỗ nào đẹp hơn nữa. Bên trong di tích hoang tàn, có một cục đá to, cao ngang đầu người đứng, được tạc hình như cái bánh ít tròn, đặt trên một bệ vuông, người hướng dẫn chỉ chỗ núm nhọn nhô lên nói - chỗ nầy là trung tâm của Trái Đất!

Tôi đứng nhìn bao quát, cảnh tượng thật hùng vĩ. Người xưa thiệt là có lý khi nói nơi đây là - cái rún của trái đất (the navel of the Earth). Điện thờ thần Apollo to lớn sừng sững, lưng dựa vào vách núi, phía sau là dãy núi cao chất ngất bao quanh hình vòng cung, như cái ngai, trước mặt là biển xanh bát ngát… có dăm ba đảo nhỏ xinh xắn rải rác trước mặt. Theo phong thủy Trung Hoa thì vị trí điện thờ thần Apollo quả chọn đúng nơi long bàn hổ huyệt. Hơn hai ngàn năm trước, tại đây thần Apollo được thờ cúng trọng thể và nữ tu Pythia nổi tiếng với các lời sấm truyền như - Oedipe giết cha, lấy mẹ, - tượng thần Rhodes sẽ sụp đổ sau 800 năm…
Con đường thiêng liêng uốn lượn từ dưới đi lên tới đền thờ thần Apollo, với những kho báu nằm hai bên ven, tức là những ngôi miếu nho nhỏ dùng để đồ tế lễ. Mỗi cây cột đền Apollo lớn lắm, chừng độ 4 người ôm mới hết một vòng, tất cả bị động đất khiến đổ nát, chỉ còn 6 cột còn đứng vững mà thôi. Các cột ở Athens, ở bán đảo Sounion (đền thờ thần biển cả Poseidon), ở Ephesus,… đều nhỏ hơn nơi đây. Phía trên đền có một nhà hát, một sân vận động và một đấu trường gần suối Castalic, tất cả đều phục vụ cho các cuộc thi đấu Pythian toàn Hy Lạp. Phía bên kia suối là thánh đường Athéna Pronaia mà toà nhà nổi tiếng nhất là nhà tròn bằng cẩm thạch Tholos xây dựng đầu thế kỷ 4 Tr TL. Số lượng du khách lai vãng nơi đây quá đông đảo nên ban khảo cổ sợ làm hư hao các phiến đá lót đường, nên vạch ra lối đi khác vòng quanh di tích. Chu vi rộng lớn của những di tích nầy cho thấy tầm quan trọng của tôn giáo và chánh trị nơi đây vào thời cực thịnh thuộc thế kỷ thứ 6 Tr TL. Delphi thực sự là trung tâm tôn giáo của thế giới cổ Hy Lạp.

Cũng nơi đây tôi mới biết được sự khác biệt của cây thông đực và cái. Cột cũng có cột âm cột dương, té ra quan niệm người Hy Lạp cũng giống người Trung Hoa, họ ưa phân biệt âm - dương, nóng - lạnh, sáng - tối, đực - cái… biết đâu ngàn xưa hai xứ đã từng có giao lưu văn hóa nhau hoặc chung một cội nguồn. Trên đường về xe, chúng tôi đi ngang qua một tấm bảng có hình vẽ khu di tích lịch sử ngàn năm với một hàng chữ lớn của cơ quan Unesco xác nhận - nơi đây là cái nôi của nền văn minh nhân loại.

Phía dưới khu đền Apollo có một bảo tàng viện mới xây, chưng bày các đồ vật của di tích đền Delphi tìm được. Trong đó có tượng con Sphinx cao lớn gần đụng nóc trần, là một con thú có cánh, đầu đàn bà, thân sư tử, ưa hỏi các nạn nhân các câu hỏi khó, nếu ai đáp trật sẽ bị ăn thịt, chỉ có Oedipe là đáp trúng, vì thua cuộc nó tự lao mình xuống vực sâu mà chết; tượng người đánh xe bằng đồng nổi tiếng, đường nét điêu khắc tuyệt hảo với từng nếp áo, từng nét nhăn của khuôn mặt và xuất sắc nhứt là ánh mắt nhìn… (The Bronze statue of the Charioteer)

Về nhà vài ba tháng sau, trong đầu tôi còn đầy những hình ảnh thần Zeus, Athena, Poseidon, Artemis, Apollo, Hermes, Hercules… các hiền triết Hippocrate, Aristote, Pythagore, Démocrite, Archimède, Euclide.. ngây ngất và nhớ Hy Lạp, bèn vào thư viện mượn các tài liệu, phim ảnh, sách báo viết về nước nầy để hiểu cho tường tận hơn những gì mình đã học, đã thấy, đã nghe và đã biết. Một bữa tình cờ có đứa cháu nhân coi phim bộ Đại Hàn chợt hỏi - bác ơi, thành phố Nhã Điển là thành phố gì và biển Ái Cầm là biển gì, nghe lạ quá, con không biết?

Câu hỏi khiến tôi nhớ lại chuyến đi vừa qua và thấy vui vui. Người Trung Hoa phiên âm các địa danh đó bằng tiếng Quan Thoại giọng Bắc Kinh hiện tại, rồi người Việt mình đọc phiên âm đó bằng chữ Nho, cũng là tiếng Quan Thoại nhưng rất xưa thời Mã Viện đời Hán, sau đó đời Đường, gần 2000 năm trước, nên nghe lạ tai là phải. Thiệt ra không có gì là khó hiểu, để ý một chút là thấy - Nhã Điển là thành phố Athens và Ái Cầm là biển Aegean của Hy Lạp. Còn Hy Lạp là họ phiên âm từ chữ Hellas, danh xưng đất nước của Greece.

Võ Kỳ Điền
(Hy Lạp 02 June /2005 có bổ túc và sửa chữa)