Họa
sĩ
Hồ Hữu Thủ, người Bến Thế
(Kim Hương sưu tầm)
Giới
thiệu:
Dưới
thời thuộc Pháp năm 1901, thực dân Pháp cho mở
trường dạy nghề Mỹ nghệ gọi là
Trường Mỹ Nghệ Thực Hành Thủ Dầu Một, để phục vụ công
tác khai phá thuộc địa.
Từ đó, nghề thủ công mỹ nghệ có thêm đội ngũ
thợ lành nghề được đào tạo chính
quy, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển
của các nghề thủ công
cổ truyền ở Thủ Dầu Một. Trường chuyên tâm vào việc
tạo dựng những đồ trang trí
bằng gỗ, như giường, tủ, bàn, ghế...
Ngay khi trường mới mở đã có 40 học viên ghi tên học và làm việc. Một số ít đã có tay nghề trước đấy. Chương trình học gồm các môn như Gỗ, Ðiêu Khắc, Khảm Xà Cừ , Ðúc Ðồng.
Ba
của
Chị Cảnh, Chị Yên, anh Tâm đã tốt nghiệp Trường Mỹ
Nghệ Thủ Dầu Một và có hãng
sơn mài Cảnh An đã có nhiều lần triển lãm
tranh sơn mài tại Sài Gòn trong thập
niên 50 và sản phẩm được người nước ngoài khen ngợi
và mua đem về nước rất
nhiều.
Tôi xin gởi đến quý anh chị loạt bài về:
Họa sĩ Hồ Hữu Thủ, con Út của Thầy Tư Thuốc Bắc người Bến Thế mà các bài trước tôi có nhắc qua.
- Sinh tại làng
Tân An Xã, Thủ Dầu Một
năm 1942.
- Tốt nghiệp trường Mỹ Nghệ
Bình Dương 1960.
- Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn năm 1964.
- Từng là giáo sư trường Mỹ Nghệ Bình Dương
và Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn trước
năm 1975
GIẢI
THƯỞNG:
- Huy chương bạc cuộc thi Mỹ Thuật do ESSO tổ chức năm 1960.
- 1990: Giải nhì cuộc thi Mỹ Thuật Quốc Gia, bộ sưu tập được
chọn trưng bày tại
Bảo Tàng Mỹ Thuật Hà Nội và Bảo Tàng
Sài Gòn.
TRIỂN
LÃM:
-
1963 – 1974: Tham dự các đợt triển lãm hàng năm
tại Hội Họa Sĩ trẻ.
- 1972: Triển lãm cá nhân lần đầu tiên tại
ALLIANCE FRANCAISE SAIGON
- 1992: Tham gia triển lãm ASIAN MASTER GALLERY BHD, “ART
&MATERIALS’92”
tại Bảo Tàng Mỹ Thuật Quốc Gia Singapore.
- 1993: Tham gia đợt triển lãm “ NEW SPACE” cùng
các họa sĩ Việt
- 1994: Triển lãm tại LE SPACE JACQUES PREVERT Pháp, tại
đại sảnh Thành phố
Dunkerque Pháp, Phòng tranh Bellin Pháp,
“ASIAN-VIETNAM INTERNATIONAL
MODER ART” Sài gòn.
- 1996: Tại viện Bảo Tàng FUJITA VENTE Nhật Bản, giải
nhì cuộc thi
“Asian – Vietnam Internationnal Moder Art” Sài gòn
- 2000: Tham gia đợt triển lãm của viện Bảo Tàng Việt Nam
tại Golden Colorado,
trung tâm văn hóa Châu Á Oakland, bang
California, Mỹ.
- 2001: Mỹ Thuật Việt Nam – Nhật Bản tại viện Bảo Tàng Mỹ Thuật
Sài Gòn.
- 2002: Tham gia vào đợt triển lãm “EPIC” tại
phòng trưng bày
- 2005: Triển lãm nhóm tại phòng tranh Vanessa
Link,
- 2006: Triển lãm nhóm tại phòng tranh Brigitte
Mỹ.
- 2009: Triển lãm nhóm cùng với Lê Thanh –
La Hon – Đỗ Duy Tuấn – Trịnh Thanh
Tùng tại Phương Mai Gallery, Sài Gòn.
Hoạ Sĩ Hồ Hữu Thủ và bức Tượng bằng đồng của nhà thơ Trần
Dần (do Họa Sĩ Thủ đúc) ở tại Nhà của
Họa Sĩ Thủ trong làng Nghệ Nhân Hàm Long Quận 2,
Sài
Gòn.
*****
Phỏng
Vấn Họa Sĩ Hồ Hữu Thủ
Phan
Hoàng thực hiện
Nổi danh trong làng hội họa Sài Gòn từ trước năm
1975, đến nay họa sĩ Hồ Hữu
Thủ vẫn rất sung sức trong sáng tạo bằng một “Tâm thức
thiền”. Đặc biệt, ông
đạt nhiều thành tựu về tranh sơn mài trừu tượng, chinh
phục cả những người
thưởng ngoạn khó tính trong và ngoài nước.
Dù đã nhiều lần gặp gỡ và xem tranh
của họa sĩ Hồ Hữu Thủ từ hơn 15 năm trước, nhưng đến bây giờ
tôi mới có dịp
thực hiện cuộc phỏng vấn ông tại phòng tranh. Trong thời
tiết lành lạnh của một
chiều cuối năm, thật thích thú khi tôi vừa được
trò chuyện vừa chiêm ngắm những
bức tranh sơn mài nổi tiếng của ông. Dường như thế giới
trừu tượng trong những
bức tranh sơn mài kia cũng thổn thức, cũng muốn “bay” vào
cuộc đối thoại hào
hứng giữa chúng tôi.
*Thưa họa sĩ, được xem những bức tranh mới vẽ của ông, với
một sức sáng
tạo đáng nể, tôi có cảm giác Hồ Hữu Thủ cũng
như nhiều họa sĩ thế hệ ông không
hề có ý niệm về thời gian, tuổi tác?
- Còn sức khỏe là tôi còn
sáng tạo. Đúng là ngay cả các bạn trẻ trong
nghề cũng phải ngán. Nhưng như vậy tôi vẫn thấy chưa đủ.
Đã thành thói quen,
bình thường cứ mỗi sáng sau khi uống cà phê
xong là tôi về lao vào giá vẽ. Cảm
hứng đến trong quá trình sáng tạo. Tôi
không bao giờ chờ đợi cảm hứng.
*Con đường riêng của ông khởi đầu có gì
đặc biệt? Và ông có học hỏi từ
những bậc thầy hội họa nào không?
- Hồi trẻ tôi vốn rất mê đọc và nghiên
cứu sách văn học, triết học, mỹ
học, tôn giáo từ Đông sang Tây. Nhờ đó
tôi tự “du nhập” cho mình kiến thức của
nhiều trường phái: ấn tượng, trừu tượng, siêu thực,… một
cách tự nhiên. Tôi đặc
biệt thích tranh của Paul Goguin vì nó thể hiện
được những gì sâu kín nhất của
tâm hồn, gần với tinh thần Á Đông, khác với
tranh của Pablo Picasso vẽ lập thể.
Có lúc tôi chịu ảnh hưởng tranh của các bậc
thầy trên, cả Paul Cezane nữa,
nhưng khi phát hiện ra tôi liền bỏ ngay để tìm
hướng đi cho riêng mình. Con
đường hội họa của tôi được hình thành từ quá
trình tự lớn lên.
* Khoảng hai năm trước, họa sĩ cùng thế hệ ông ở
Sài gòn là Trịnh Cung
tung lên mạng bài viết cho rằng họa sĩ Hồ Hữu Thủ
và họa sĩ Việt kiều Lâm Triết
là bảo thủ, lực cản của hội họa Việt Nam hiện đại ngoài
giá vẽ ( sắp đặt, trình
diễn). Ông nghĩ sao?
***Tôi không muốn tranh luận, nhưng anh hỏi
thì tôi phải trả lời. Tôi
nghĩ mình không bảo thủ, cũng không cản trở ai hết.
Tôi luôn nghĩ đến cái mới,
khuyến khích các bạn trẻ làm cái mới, nhưng
tác phẩm phải đẹp và rung động lòng
người chứ không phải chỉ dừng ở cái lạ không mỹ cảm
hoặc đánh đố, lừa bịp người
thưởng ngoạn. Tôi không thích kiểu hội họa chỉ
bày đủ trò lỗi thời rác rưởi
cũng như thơ ca bắt chước thứ dâm đãng, nhục dục phản lại
tính nhân bản.
* Ông thấy tuổi trẻ thế hệ mình có gì
khác biệt với thế hệ họa sĩ trẻ
ngày nay?
Thời
trẻ tôi cũng ham nhiều ý tưởng, triết lý,
màu sắc. Mà tuổi trẻ nào cũng phải
vượt qua giai đoạn ấy. Có điều tôi thấy các bạn trẻ
bây giờ ít chịu khó đọc và
nghiên cứu. Mà như vậy chẳng khác nào con
ngựa bị bịt mắt. Do đó, họ thường rơi
vào bế tắc, không có nhận thức nắm bắt đời sống,
không có con đường sáng tạo
riêng mà chỉ thấy cái gì lạ là chộp
lấy dù những thứ ấy ở phương tây người ta
đã có từ lâu rồi.
* Nghĩa là theo ông những gì giới họa sĩ trẻ
nước ta đang làm ào ạt như
nghệ thuật sắp đặt, trình diễn…là thất bại?
Tôi cho là gần đúng như vậy. Việc thiếu một nền
tảng văn hóa cơ bản không chỉ
riêng ở giới trẻ Việt
Sự phóng chiếu của tâm trí con người như kiến thức,
hiểu biết, quá khứ vào tác
phẩm là không có gì mới, là
sáng tạo. Tuổi trẻ Việt
*
Ông
cho rằng họa sĩ trẻ bây giờ đang gặp bế tắc. Vậy thì theo
ông có cách nào tháo
gỡ sự bế tắc ấy?
Con người không chỉ sống bằng vật chất mà
còn có nhu cầu về tinh thần,
biết thưởng ngoạn nghệ thuật, tôi gọi chung đó là
tâm thức. Vừa thỏa mãn kiến
thức vừa thỏa mãn tâm thức thì con người mới
cân bằng. Đối với người nghệ sĩ,
nền tảng của sự sáng tạo không phải từ kiến thức mà
là tâm thức. Kiến thức chỉ
là mớ rác đọng lại của quá khứ. Chúng ta
có thói quen sống với quá khứ kéo
dài
hàng ngàn năm không thay đổi. Kiến thức có
giới hạn. Kho tàng tâm thức vô hạn
trong mỗi con người mới là cội nguồn của sự sáng tạo. Khi
nghệ sĩ cố tình sử
dụng kiến thức thì tâm thức sẽ bị chìm đi. Ngược
lại, khi nghệ sĩ sáng tạo bằng
trực nghiệm của tâm thức thì kiến thức sẽ bị hóa
giải. Tất cả nền văn hóa nhân
loại đều bắt nguồn từ tâm thức. Người nghệ sĩ moi cái thần
để thể hiện qua hình
ảnh, màu sắc, âm thanh…làm cho tâm hồn
mình lẫn người thưởng ngoại cảm thấy
sảng khoái, hạnh phúc. Khi đó người nghệ sĩ mới
đạt được mục đích.
* Đối với người thưởng thức nghệ thuật , theo ông cần phải
sử dụng kiến
thức hay tâm thức?
Người thưởng ngoạn cũng phải dùng tâm thức khi
đứng trước tác phẩm nghệ
thuật. Có như vậy mới cảm nhận được vẻ đẹp toát ra từ
tác phẩm.
* Bằng kinh nghiệm bản thân, ông có thể cho
biết cụ thể sự vận động của
tâm thức mình trong quá trình sáng
tạo?
Tâm thức giống như dòng chảy tuôn trào,
không chấm dứt. Lúc vẽ tôi vô tri,
không dùng ý tưởng, không biết nó sẽ
diễn ra như thế nào. Chỉ khi đã hoàn
thành, tôi mới dùng kiến thức để hoàn chỉnh
thêm bức tranh. Nhiều lúc tôi ngồi
vẽ thì trong đầu kiến thức mách bảo cái này
đẹp cái kia đẹp, tôi dứt khoát từ
chối hoặc bỏ dở bức tranh đứng dậy. Điều nguy hiểm nhất là
mình bị ý tưởng
khống chế, chi phối, muốn làm chủ. Ý tưởng chỉ rải
rác trong đầu. Có người cứ
biểu diễn hiện tượng các trường phái mới của phương
Tây như sắp đặt trình
diễn,… đều bắt nguồn từ ý tưởng, nói chung là từ
đống rác của quá khứ. Đó là
phản sáng tạo. Sáng tạo là phải sinh ra một
cái hữu thể chưa có ở trên đời
này. Sáng tạo như một đóa hoa đang nở, mới
và đẹp.
* Tranh của ông từ sơn dầu đến sơn mài thường
vẽ trừu tượng hoặc siêu
thực. Nhưng có vẻ ông thiên về trừu tượng hơn?
Tôi chọn trừu tượng để phóng chiếm tâm thức của
mình ra, tìm cái đẹp, cái chân
thiện. Còn tranh siêu thực với tôi chỉ để giải
trí.
Một vài nhận xét của Nguyễn Viện về Họa Sĩ Hồ Hữu Thủ:
HỒ
HỮU THỦ - MỘT MỸ CẢM SIÊU
THOÁT
Nguyễn Viện
Thấm nhuần tinh thần phật giáo với một tâm thế hòa bình, Hồ Hữu Thủ đã hóa giải được mọi xung động bên trong cũng như ngoài để chỉ còn là một tâm hồn thuần phác và mẫn cảm trước cái đẹp. Bởi thế tranh của Hồ Hữu Thủ đa sắc, giàu nhịp điệu nhưng vẫn toát ra một niềm dịu dàng và thơ mộng.
Hồ Hữu Thủ đã từng nói: “Hội họa là một trò
chơi của một tâm hồn vắng lặng đầy
sự thật và được biểu hiện qua những ẩn ngữ của mọi người đang
có, đang khao
khát, thứ dấu ấn tinh khiết vụt mở ra làm ta ngạc
nhiên trong say đắm”.
Hồ Hữu Thủ là người hoàn toàn lý giải được
những điều mình vẽ. Ý thức được công
việc trong lúc sang tạo, nhưng ông không bị mắc mứu
vào các ý tưởng của mình.
Do đó, một ý tưởng đến từ bên ngoài hoặc xảy
ra từ trong đầu thì cũng chẳng ăn
nhập gì đến việc sáng tạo. Hai cái đó
không phải là đời sống nghệ sĩ ngay cả
khi anh ta đứng trước giá vẽ. Bị ép buộc lệ thuộc
vào một ý tưởng có trước thì
tác phẩm sẽ không thực. Khi vẽ, tâm hồn người họa sĩ
sẽ hoàn toàn khác với cái
ý định của anh ta trước đó. Nó là một thực
tại tự do có khả năng sản sinh ra
những ý tưởng hoàn toàn mới.
Điều
ấy không đối lập với tính chuyên nghiệp của một
họa sĩ bởi tính chuyên
nghiệp không bắt đầu từ những logic, hệ thống kiến thức.
Tính chuyên nghiệp
không phải là tính bài bản. Sáng tạo
bắt nguồn ở sự vượt qua, sự chối bỏ cái có
trước.
Hồ
Hữu
Thủ vẽ cả tranh có hình lẫn trừu tượng. Ông cho
biết: “Nghệ thuật có hình với
tôi như một sự giải tỏa tâm hồn. Nó không gắn
chặt với hiện thực xã hội, mà
được nâng lên một tầng khác không cần ý
nghĩa. Với tôi, cái cần đạt tới là mỹ
cảm siêu thoát, thăng hoa. Còn trừu tượng,
nó là sự thật của tâm hồn. Kỹ thuật
chỉ là phương pháp để hoàn thiện sự sáng
tạo của mình. Nghệ thuật với tôi nó là
thuần túy”.
Một đóng góp không nhỏ của Hồ Hữu Thủ với sự phát triển của sơn mài cũng cần được ghi nhận. Thời kỳ Mỹ Thuật Đông Dương trước 1945, các họa sĩ như: Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đích Chủ đã có công lớn trong việc biến sơn mài từ hàng thủ công mỹ nghệ trở thành những tác phẩm nghệ thuật đích thực. Theo truyền thống đó, một tác phẩm sơn mài đều được mài hết, để được gọi đúng là sơn mài. Sau 1975, Hồ Hữu Thủ cũng như nhiều họa sĩ khác đã ngả hẳn về sơn mài. Ông khám phá trong sơn mài hoàn toàn có thể phát triển theo hướng nghệ thuật hiện đại, nghĩa là không nhất thiết phải mài hết mà có thể chừa lại những chỗ mình thích, hoặc đắp nối bằng bố hay chất liệu khác trên tác phẩm sơn mài, hiệu quả nghệ thuật không thua gì các chất liệu khác như sơn dầu chẳng hạn. Phương pháp này cũng đã có một số họa sĩ làm theo. Từ thành tựu đó, Hồ Hữu Thủ cũng đã mạnh miệng đề nghị nên thay đổi thuật ngữ sơn mài bằng “Sơn ta” hoặc “Sơn Phú Thọ”.
Nỗi
ám ảnh khôn nguôi về sự tàn
lụi của cái đẹp trước thời gian? Cơn ám thị nhì
nhằng về sự vĩnh cửu không có
thật? Phút thăng hoa của ý thức bền bĩ về Chân –
Thiện – Mỹ? Sự bồng bột của cảm
xúc khi trở về, đối diện và lắng nghe âm thanh của
tự thể, của tâm thức?... Có
không ít những dấu hỏi nép mình sau toan
vải, màu sắc và nhân diện có cái
tên
"Sen trắng" của hoạ sĩ Hồ Hữu Thủ.
Những
câu hỏi được phơi trần
dưới sương sớm nắng chiều cùng những bông hoa tinh
khôi đang dần đi vào cõi
chết bằng vũ điệu luân hồi trên từng sát-na
dâng hiến sự sống. Và đâu đó trong
lan man khói sương mơ hồ cuộc đời này, người nghệ sĩ như
một hành giả miên man
lời truyền tụng bất tận về ngày sắp tới, về bóng
dáng, hình hài nguyên sơ của
một mối tình, đơn sơ như chính phút giây
đang sống, yêu và phôi thai ý niệm vô
thường…
Mười sáu đoá hoa sen,
một con số có tính ẩn dụ
nhằm ám chỉ về quãng thời gian tuổi hoa tươi đẹp, tinh
khôi và viên mãn của đời
người? Hay đó là sự ngẫu nhiên của khoảnh khắc giao
thoa giữa ý thức và linh
cảm? Cũng có thể mọi câu hỏi đều có lý,
nhưng yếu tính của đối tượng không nằm
trong câu hỏi mà ở ngay trong vô thức của nó.
Mười sáu bông sen trắng, hồng,
phớt trên nền không gian xanh xám, ánh
sáng huyễn ảo đã tạo ra ấn tượng về sự
bất toàn của tạo hoá, sự không cân xứng giữa
cái toàn mỹ chân như và cái
phù du
hữu hạn.
"Sen
trắng" của hoạ sĩ Hồ Hữu Thủ
Người đàn bà trong tranh
vừa có nét trong sáng
của một thiếu nữ với gương mặt thơ ngây nhưng đồng thời vừa
có nét u uẩn, bí ẩn
của một thiếu phụ với đôi mắt xa xăm và buồn hoang
hoãi. Nàng được mô tả như
một bông sen thoát thai từ nguồn cội sự sống.
Vẻ mong manh, yếu đuối, tinh khiết của
nàng
dường như hàm ẩn bóng đêm – nơi khai thị của vĩnh
hằng và độc sáng. Với đôi vú
không còn săn mọng, khoé môi lạnh và
bờ vai buông xuôi, nàng đã nói
lên tất cả
nỗi khổ luỵ, yếu đuối của mình, ngay đầu đời, tuổi 16. Và
nàng cũng là một đoá
sen trắng trên khóm sen hồng phớt mà người nghệ sĩ
đã miêu tả bằng cái nhìn
kính ngưỡng và cảm thông, nét vẽ siêu
thoát, mềm mại, bố cục tĩnh, sắc độ vừa
đủ mạnh, vừa đủ mềm để chuyển tải sự bí ẩn của đời sống…
Mảnh trăng khuyết được đặt ngay điểm
thấu thị
như một dự cảm không yên lành đang quấn lấy những
bông hoa (trong đó có người
đàn bà) và phía sau chủ thể là cụm
đối tượng không cho dấu hiệu nhận biết về
bản tính ẩn dụ, về một quá khứ hay tiền kiếp nào
đó không thân thuộc càng nhấn
mạnh cảm giác mênh mông, vô định của hiện hữu.
Sự kết hợp, phối ngẫu nhịp
nhàng, nhuần nhuỵ
giữa những gam màu nóng – lạnh, sáng – tối, trầm –
nhã, giữa những đường nét,
mảng, khối đã hé mở mâu thuẫn trong cái
nhìn tưởng chừng như thanh thoát vô ưu
nhưng đầy trắc ẩn và suy tư của người nghệ sĩ khi suy tưởng về
vẻ đẹp thoát tục
trước đời sống trần luỵ. Gợi lên mối cảm hoài nhân
sinh về tồn vong miên viễn…
Điểm nhấn đặc biệt (và
có thể nói rằng đây là
gợi mở đượm màu phồn thực hiếm hoi trong lối vẽ của Hồ Hữu Thủ)
chính là vệt
tối dưới bụng, giữa hai đùi người đàn bà.
Nó phát biểu đầy đủ, trọn vẹn sự viên
dung giữa cái đẹp thuần khiết và nhục thể, sự
thoát tục và trần thế. Nó không
cho thấy mối dây nhị nguyên, phân biệt giữa thanh tao
và tục luỵ. Đơn giản, nó
là sự thăng hoa giữa thường hằng.
Và, mỗi lần "đọc" "Sen
trắng", tôi lại nghĩ đến những ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn trong ca
khúc "Đoá hoa vô thường" – một tổ hợp những
kí tự man man nỗi buồn
của cái đẹp vĩnh cửu, sắc – không: "…từ đó em
là sương, rụng mát trong
bình minh…"
Tôi đã suy ngẫm về điều
này không ít lần trong
cuộc đời, trong những lần ngồi nhâm nhi từng giọt cà
phê nơi quán vắng, trong
những lần cùng người bạn thân ngồi ví von cà
phê rơi như điệu vũ slow… Và Hồ
Hữu Thủ đã vẽ lên điều tôi không thể diễn tả
thành lời…
Vài
tác phẩm của Hồ Hữu Thủ