Giây
Phút Tìm Về
Lâm Quang Khải
Tuỳ bút ngắn
1. Giây Phút Tìm
Về:
Bến Thế
Không phải là Bến Thế
Mới thật là
Bến … Thế đó.
Năm tôi mươi, mười hai tuổi,
trưa trưa hay len lén ông già đạp xe đạp lên
Tương Bình, Bến Thế chơi, và thường đi như vậy.
Khi thì từ Miểu Tử Trận đi
lên Mỹ Hảo tới một ngả ba. Quẹo trái thì đến một
lò đường ven sông, quẹo phải đi một đoạn ba bốn cây
số, tới mộ phần của ông bà Cố .
Hoặc từ ngả cầu Ông
Đành, tới Suối Giữa bên trái có hai con
đường, khi thì đi con đường dưới, ẩm mùi nước mương, nước
suối ; khi đi con đường trên, xung quanh cảnh khô cằn hơn.
Tới một ngả ba, đi thẳng lên Phú An, quẹo trái
thì tới.
Quanh quẩn bên mộ, nghe
lá cây dầu già xào xạc trong làn
gió , miệng thì thầm nói chuyện với bà Cố
tôi. Ông Cố nằm kế bên, vì ông mất
lúc tôi chưa sanh nên chưa quen với ông. Nhưng
giai thoại về ngày cố mất, tôi thích nghe lắm. Nghe
nói, biết trước giờ cố mất, sáng đó ông cố
sai bảo người nhà, kêu bà con tụ hợp về, cố sẽ từ
giả cõi đời vào lúc xế trưa, trong bụng
không ai tin, nhưng vẫn làm theo lời sai bảo. Qủa xảy ra y
như vậy: Cố về với tổ tiên buổi xế chiều hôm đó .
Phía sau mộ phần là những rừng chồi phóng mắt
nhìn tận xa xa những ngọn đồi nho nhỏ, chập chùng xem
thật sướng mắt. Phía bên hông ``nhà thờ
phụng`` có một cái giếng sâu và cây me
già, Không hiểu tại sao lúc ấy, mặc dù
còn rất nhỏ, mà tôi ước nữa chết, chỗ nằm của
mình sẽ là ở dưới gốc me kia. Hai ba mươi năm sau,
có một thầy địa lý nói, đó là chỗ
đắc địa nhất khu đất này.
Mặt trước phần mộ con đường dẫn ra
lộ, có trồng hai hàng cây dương, coi bề thế. Nhưng,
ý tôi thì cho là mặt tiền phần mộ nên
quay nhìn về phía sau, có tầm nhìn ra những
đồi nhỏ chập chùng hay hơn. Sau này cũng do thầy địa
lý nhắc trên, nói là mộ phần này được
an táng phần đuôi con rùa, nên nằm thế
``tuyệt đia`` đường con cái sẽ tuyệt hậu.
Ở chơi khoảng độ cả tiếng rồi ra về.
Và mãi tới lớn, rảnh rỗi hay đến đây và dạo
chơi xung quanh Bến Thế, đến mộ phần sống với ông bà, đến
khi rời nước ra đi.
Tục ngữ: "Sống vì mồ
vì mả, chứ không ai sống vì cả bát cơm" .
Ông Nội tôi lập nên mộ phần này cho cha mẹ,
sau đó nội ăn nên làm ra. Từ đó Nội tin về
mồ mả lắm. Số ông nội, bà con cho là may mắn,
Ông nội mất, vào 26 tháng tư 1975, khỏi thấy những
cảnh đau lòng ngày ấy. Rồi sau đó con cháu
ly hương tứ tán khắp năm châu, có đứa thì bỏ
thân xác nơi rừng sâu biển cả.
Hình như ý tưởng mộ
phần mồ mã không còn chỗ đứng của thế hệ này
nữa chăng ? Thôi thì người mất sẽ thác về nơi
vô sở trú vậy. Trú nơi không trú,
trú chỗ nào cũng vậy mà thôi.
Thôi thì hành
thâm Bát nhã ba la mật đa, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không … không đất đai mồ mả, không nối dõi
tông đường, không quê hương nơi đó , đạt được
cứu cánh, đâu cũng là đất tổ quê hương , thế
giới là nhà, trong tâm ta vậy .
Và
Trong tam thiên đại
thiên thế giới này ( vũ trụ ),
qua vô lượng vô
biên kiếp,
chẳng Bến nào một kiếp
đã một lần ghé qua.
và Thế , chẳng bến nào
của một mình ta, trường cửu.
nay qua rồi còn lưu luyến
làm chi.
nhĩ?
Bến Thế , cái địa danh
đó tôi chỉ sống ``phơn phớt`` qua, không đi
sâu vào làng mạc. Vậy thì, đâu phải
là Bến Thế thực sự ‘’của'' tôi.
Bến, đó chỉ là
cái Bến, mà một lần xưa Ông bà tôi,
và tôi định nương ``gá`` hồn mình khi
thân dạo chơi miền tiên cảnh…
Thế thôi.
Giờ đây để tiếp nối,
hàng ngày đạp xe đạp vào Tâm tôi, để
rong rũi tìm về nơi cố quận, tìm Bến đỗ nơi đâu.
Xưa lần mò trong rừng chồi Bến Thế, nay thì ngõ
ngách tâm tư; mà sướng có một điều
là khỏi ``len lén`` ông già`` như
ngày xưa bé nhỏ.
Noel 2014.
Khu
Mộ của Ông Bà Cố Lâm văn Đạo - Hà Thị Kiều ở
Bến Thế
2. Xóm nhỏ ngày
xưa : Bến Bạch Đằng (1)
Binh Dương xưa đưa ra một tấm
hình, coi xong biến U 60, U 70 thành ra thằng nhỏ năm
sáu tuổi. Đúng là biến hóa diệu kỳ .
Nhìn cái nhà sàn xưa tưởng chừng
không bao giờ thấy nữa, nay bỗng chợt hiện về. Hàng dương
xưa thời gian chặt mất, lâu lắm rồi từ thuở 1954. Binh Duong xua
làm cho mọc lại trong tâm tôi.
Như là đi cầu tàu
hóng mát, chiều chiều khi nhà nhà cơm nước
xong, hay tụ họp bên bác Hai Hiệp Thành. Ở đầu chợ
trên đi xuống. Bác tư, bác năm, bác bảy
Châu có dẫn con gái nhỏ theo nữa … Bên
dãy phố bên nầy gia đình Ba Má và tụi
tui bốn anh chị em, thêm hai vợ chồng bác Tám
nhà đèn, qua. Đàn ông thì ngồi
bên cánh trái của nhà, hướng nhìn ra
chợ. Bàn chuyện quốc thái dân an, chuyện cô
Quờn nổi ghen đốt chồng..v..v. Mấy bà và đám
xây lủ cố thì ngồi bên góc phải, đám
con nít chạy nhảy tung tăng. Bác Hai gái ngồi vừa
ngồi chơi với khách, nói chuyện gẫu, vừa câu
tôm. Thỉnh thoảng câu đươc mấy con tôm càn
màu xanh mướt, cất vào nhà và tiếp tục
câu.
Sinh hoạt hằng ngày đều như
vậy. Có một lần, bác Tư nổi hứng xúi thằng em
sáu tuổi của tôi: “ Con con, đâu con lại dở
cái bùng rền ( áo đầm) của con Mỹ Hương xem
nó có mặc si líp không con”. Thằng em tui
làm liền, làm con nhỏ giận, te te bỏ về. Ba của bé
gái là bác bảy Châu phải chạy theo con nhỏ.
Cả đám cười sảng khoái.
Lúc đó thế giới
bé nhỏ của tôi là cái nhà sàn
này. Tạm chia thế này nha, chính giữ nhà
là tiệm vàng. qua cánh phải là phòng
ngủ. Cánh trái là chỗ thợ bạc làm việc
và có bộ ván, tối ngủ ở đấy. Đằng sau nhà
là phòng ăn và nhà bếp. Tôi thường
chạy qua đây chơi, lòng vòng phòng
này qua phòng nọ.
Ở nhà thì có
cầu tiêu chứ, nhưng tôi lại thích qua nhà
Bác Hai giải quyết đại sự . Đợi lúc buổi trưa vắng người
hơn, chạy qua, xuống nhà bếp kiếm chị Mai hay dì Mười,
làm bộ nói láp giáp một chút, rồi
xin vô nhà cầu. Đó là một phòng,
bên góc trái cuối nhà sàn vừa
là nhà tắm và có khoét một lổ nhỏ
3x4 tấc để tiêu tiểu. Chỗ khoái chí tỉ của thằng
nhỏ là ngồi mát đít, vì gió từ
giòng sông luồn lên mát rượi . Điểm ấn tượng
là, sau khi nghe tiếng ‘’chũm’’, một bầy cá thác
lác bu lại giải quyết cục nợ… Xem vui quá chừng. Sau khi
hết bom đạn, tiếc cuộc vui chóng tàn, còn lấy
đá hay cái gì liệng xuống nước thêm
xí gạt mấy con cá cho vui. Ai nói cá
thác lác ngọt thịt , lúc đó tui lại
không ăn.
Bác hai trai Hiệp
Thành thường hay cười híp mắt, con người vui tánh
. Một lần kia, bác mua về một cái máy hát
dĩa quay bằng tay để lên dây thiều, hình như
lúc đó mới sáng chế. Bác để ở nhà
hát cho cả xóm nghe. Tôi học thì dở , nhất
là học thuộc lòng, học hoài mà không
thuộc, nhưng lạ một điều là bài ca vọng cổ đầu đời
này lại thuộc vanh vách ( lúc xưa) nay còn
nhớ lỏm bỏm. Câu chuyện tình hai trẻ thương nhau, nhưng bị
gia đình ngăn cấm:
Lời hát dạo,
Duyên trăm năm hứa hẹn rồi,
anh giử lời… em đừng em quên.
Cái … Nhìn thôn
trang vắng vẽ ngàn cây xanh mát mẽ, thấy vui
thích trong tâm hồn điền diên
Sau vô sáu câu
vọng cổ bù lon ( tiếng diễu thời ấy)
Canh một..(.quên rổi)
Bước qua canh hai anh thấy ngọn
đèn vàng chờ người bạn cũ thủy chung đôi lời
Canh ba nguyệt đổi sao dời
tính sao mà tính cho trọn niềm thủy chung
Canh tư cờ phất trống rung, măc ai
ai tủi ai hờn mặt ai
Canh năm dựa phòng loan
mõi mòn
kết:
Vì quá thương em anh
mới quên câu tục ngữ tu là cõi phúc
tình là dây oan.
Lúc đó và
mãi tới bây giờ tôi cũng còn lảm nhảm
"dô" hai ba câu.
3. Mùi nhớ ngất trời
Ngất trời đây là tận
trời xanh, không một ý nghĩ ủy mị rên than buồn tủi.
Mùi nó không tận trời xanh thì làm
sao nó loang tỏa, vươn thời gian để tỏa tới ngày nay.
Vươn không gian, để từ thiên đường tới địa ngục (trại
tù cải tạo, trại cấm của tị nạn). Thiên đường là
những ngày hoa bướm xưa nay. Tôi chẳng muốn nói
những ngôn ngữ hư giã, bởi bản chất của ngôn ngữ
là hàm hồ (kinh sách nói), mà thế
giới ngày nay, người ta chỉ dùng vào lời
nói rỗng tuếch, sáo ngữ, tôi, thêm để
làm chi. Chỉ mong là , chỉ nói những lời
phát tự chân tâm.
Để tiếp nhận thế giới xung quanh,
tôi cảm mạnh nhất là mùi sau đó bằng nghe ,
âm điệu của thế gian, thấy những điều mắt thấy, những cái
thấy, sâu hơn …
Trước 1954-55, Thủ Dầu Một
còn dùng hệ thống cầu tiêu thùng. Dãy
nhà đường Bạch Đằng phía sau có một đường hẻm, đi
từ Phan Thanh Giản ra tới đường Bạch Đằng. Chúng tôi bọn
nhỏ thường hay ra chơi… , ngày nay ai nghe chắc nhăn mặt. Nhờ vụ
này mà sao này tù cải tạo tôi
bình thản với vụ phân người, còn anh em có
người ói tới mật xanh . Trong trại tị nạn, bốn năm trăm người,
“làm vụ ấy” ở một bải đất lộ thiên nho nhỏ, tôi chịu
được.
Trước nhà là con
sông, khi nước ròng, tụi nhỏ bọn này hay lội xuống
chơi, mò tìm này nọ. Mùi sình đằng
chợ cá hôi cộng tanh, khác với mùi
sình ngả ba BĐ/ PTG, thuí đậm mùi cống rảnh nồng
nặc. Khúc ở Bungalo Đinh Bộ Lĩnh nhẹ hơn nhiều, và
đây có nghe thêm mùi dầu nhớt của ty
công chánh thoát ra. Và sau chót,
nhà thủy tạ nhớm chút mùi sình đồng ruộng .
Người ta nói, khổ tận cam
lai, tận mùi đắng sẽ thấy được vị ngọt. Tôi nghĩ chấp nhận
được mùi thúi, sẽ thấy được thơm tho.
Bến Bạch Đằng tôi lại nghe
được mùi ẩm mát từ mái ngói sau cơn mưa.
Mưa như tắm gội lá cây và rửa sạch mái
ngói; sau cơn mưa tạnh tôi có cảm tưởng,
mình và khung cảnh quanh mình sạch mát tươi
vui .
Nhẹ mùi bông cau
bên Ông Phủ Đẩu, có thêm mùi mận khi
bông trổ . Mùi bông nguyệt quế thơm lừng cuối
xóm ( nhà ông Xã Tề) .
Tôi hay đi ra chợ và
vào lồng chợ để mua vài đồng… mùi nhớ. Dãy
phía dưới lồng chợ, hàng thịt. sáng mùi
thịt heo tươi còn nóng ấm, buổi ban chiều thớt thịt lẫn
mùi heo. Qua hàng kim chỉ, nghe mùi như kim với
chỉ , qua hàng vải thơm mùi hồ, vải mới tinh, tiệm
bán bayar thơm mùi giấy mực … Ôi mùi vị của
lồng chợ ngày xưa. Ngày xưa có ai bán
hàng trong lồng chợ, cho tôi xin gặp để nghe lại
mùi vị hương xưa.! Dẫu người bên Bỉ bên Tây,
tôi vẫn biết phân biệt mùi nào ra mùi
nấy . Có được không? Hởi người đã từng trong lồng
chợ.
Đầu xóm trên, gần
nhà Làng đúng là mùi nhà
việc. Lên dốc Ông Cò mùi lá sao,
lá dầu xào xạc nhẹ đưa, và lên đỉnh dốc
‘’Ông Cò’’ mùi của rừng cây đâu
đó.
Xóm nhỏ mùi xưa, bao
nhiêu chút đó, xin ghi lại nơi đây làm
vốn hành trạng.
Tôi không đồng ý
lắm, câu: “Nắng ở đây, đâu (bên trời Tây)
bằng nắng ấm quê hương”.
Bởi, quê hương nếu ta
có mang theo hành trang đầy đủ. Nắng đâu cũng
là nắng ấm của quê hương. Tôi, có ghi nhận
cái lành lạnh của mùa xuân quê
nhà nhân cận Tết. Cái nắng cháy da của
mùa hè, nơi rừng cây đứng gió . Đem hai
hình ảnh đó qua xứ tuyết này, có buổi
ngoài trời lạnh trừ hai ba chục độ - C, ngồi trong nhà,
trong xe sưởi ấm; chợt nhìn những cây khô
cành trơ lá, tôi lại liên tưởng tới
hình ảnh xưa mà (mùa hè nơi quê xưa,
trơ vài cành cây khô héo,) cảm thấy
người chợt ấm lên ,cái nóng của quê xưa. Hoặc
có những buổi trời trong, rực nắng , nắng trong veo, tôi
liên tưởng tới cái lành lạnh của mùa
xuân quê nhà nhân cận Tết. Lại thấy nắng của
quê xưa, mặc dù ngoài trời lúc ấy còn
– 5, + 5 độ C. .. như thấy là mình đang ở Bình
Dương cận tết.
Lằn ranh nào chia quê
hương đây đó, ngọn chỉ tơ nào chia dĩ vãng,
hiện tại với tương lai. Tâm là kho chứa, lấy ra
dùng thì… hằng sa diệu dụng. Tâm khô cằn chỉ
tại mình thôi.
Nhớ lại Bến Bạch Đằng mùi cũ
quê xưa.
viết do BD xua va nay, có dấu
và không dấu, gơi nhớ…
2014-12-27
4. Đếm những hàng dương
Từ
khi tỉnh nhà đổi Thủ Dầu Một ra là Bình Dương,
tôi cứ tiếc mãi một điều là Bình Dương
mà không có hàng dương thì
không thơ mộng đúng nghĩa. Hàng dương mà
ngày xưa, tôi đã yêu thương và nhớ
từng cây một. Gió thổi hàng dương nhẹ nhàng,
vi vút reo.
Như lời tự tình sông,
nước mây gió thủ.. .
Gió hàng dương
thì ru nhẹ thì thầm, như lời ru của mẹ
Gió hàng thông
thì reo đi, réo rắt
Có lặng thinh đứng dưới cội
dương già, yêu thương như thể bà con ruột thịt. Mới
cảm nhận hết , tiếng thì thầm ru nói của hàng
dương. Những lời này tôi lắng nghe tự đáy
lòng tôi nói. Rất đau lòng khi từng
cây mất, bởi bạo tàn của người lẫn với thiên tai
và lẩn vô thường tính.
Đặt từng tên, nhớ từng
cành, thương từng cái lá, tôi bứt ra, lại
gắn vào, như thể chưa từng bứt ( bạn có biết lá
dương khác với lá thông ra sao không bạn?).
Trái thì nhỏ nhắn, bén nhẹ sơ sơ, Ướm vào
tim, đủ rướm máu yêu thương, mà không
bén nhọn, để tan nát lòng nhau.
Tôi xa Bình Dương xưa,
Thủ Dầu Một, tôi không tiếc nuối (chuyện đã rồi).
Chứ còn ở lại, để (đôi khi) nhìn sự bạo tàn
với Bình Dương , nghe những tàn phai, với cây trời
sông nước, của những người , nói là làm đẹp
cho quê nhà. Làm sao ra cho đẹp được với những kẻ
không có tâm hồn thương yêu và văn
hóa.
Hàng dương già
bên bờ sông Thủ, Ngươi mãi còn ngự ở tim
tôi, muôn thuở.
28/12/2014
5. Bù xít ...
miên man
Già mà sao giống con
nít quá, sáng vừa mở mắt dậy, mở FB liền, rồi bỏ
đó đi nấu nước pha trà rửa mặt xong, coi FB có
gì…hôm nay.
“Thần” Nguyễn Bước BD mang cho
tôi, bông bù - xít, làm cho tôi
lại nghĩ ngợi .. miên man vào vùng tâm thức,
nhớ về ông bà ông vãi thuở xa xôi.
Thuở mười mấy tôi thường “lỏn
tỏn” theo ông già đi tiếu ngạo, vùng Bến
Cát, sông Thị Tính, Kiến An… Mùa này
bông bù xít nở trắng cả rừng chồi. Thằng nhỏ
mê lắm, ngửi bằng mũi. Tay bứt, dò nát lá
cũng lại ngửi… nghe nó thơm nhe nhẹ mùi thuốc bắc, nhớ
lại lá nó… mềm, mịn màng vì làm
thành những sợi long tơ trắng mịn. Leo lên cành
cây cho nó cao cao, phóng tằm mắt ngắm bông
bù xít nở trắng cả cánh đồng. Mùi thơm của
cỏ cây, mùi hanh của nắng nóng, tiếng cu
gáy, đúng là khung cảnh của thời thái
bình, thịnh trị 1954-1958.
“Thần” Nguyễn Bước BD lại tả… Miền
đông nếu còn đất trống sẽ thấy màu trắng của
bù xít như thế, vùng Phước Long những năm ấy
mùa đông còn có thảm bông cỏ tranh như
tuyết.
Ông Nội Siro lại còn
chêm vào ... đúng rồi.. đúng rồi ! cỏ tranh,
lồ ồ và có cọp nữa …v ..v., Kết luận “xanh dờn” , sợ cọp
ăn thịt !
Minh già thiệt rồi ông
Bước oi ! Sao cứ nhớ chuyện ngày xưa ...
Ông Nội Siro lại tiếp…
Bù Đăng , làm cho tôi nhớ Bù Đốp …
Nói cọp tôi lại nhớ beo. Ba Má đóng cửa
tiệm, chiều gia đình hay thả lên Hớn Quản chơi. Lúc
xe vừa qua giốc Hố Le, có con beo thủng thẳng băng qua lộ. Cả
gia đình thấy, ai cũng "teo", vừa run nhưng vừa khoái .
Khi nào thấy bù
xít nở trắng đồi là sắp Tết rồi!! Nhanh quá , mới
đây mà gần 40 năm ! Chẳng lẽ mình và bạn
bè già mau vậy sao !?
...Tôi thêm vào:
khi nào nghe mùi... bù xít nở trắng đồng,
thì tôi biết mùi lành lạnh của tiết
mùa xuân sắp đến, Tết đến rồi!
Có bạn nào viết
câu : “Bông Bù Xít báo hiệu mùa
đông vùng Nam Bộ”.
Đừng trách ai đó sao
cứ tra xét “lý lịch ba đời”, tôi sửa lại câu
trên bằng: “Bông Bù Xít báo hiệu
mùa Xuân vùng Đông Nam phần sắp đến…” Xin lỗi
bà con ở chỗ này, tôi không có
ý chính chị chính em gì ở chỗ này,
chỉ muốn nhắc lại ngôn ngữ của vùng quá khứ
mà thôi. Trên FB ai đó dùng chữ
“Dinh Tỉnh Trưởng”…cũng mang cho tôi một chút hơi ấm của
ngày xưa.
Vậy thì ngôn ngữ
nó luôn mang một “lịch sử”đi kèm theo, cũng như
sách vở đã thường nói sao?
Thôi thì ai
thích nói sao cứ nói như “dậy” đi, miễn là
ta nghe được những điều tận đáy lòng của kẻ nói
mà thôi. Trân trọng quí mến lẫn nhau, đủ rồi.
So đo thắc mắc làm chi.
Xin lỗi Anh Nguyễn Bước. Xin lỗi
thánh thần. Tôi “cưởng bức” dùng chữ ‘’ thần’’ ở
đây là, bởi vì “chỉ ra một chiêu nhẹ
nhàng”, anh đưa người vào vùng đất cũ…thần
tiên, không dùng chữ thần ở đây, ai chỉ
dùm tôi thay cho chữ khác.
Cám ơn Nguyễn Bước BD
và Ông Nội Siro.
Ghi vội vì chợt thấy
bông bù xít, hứng: 04-12-2014.
Xin lổi Anh cho "mượn tạm"
hình này.
6. Tôi đi ăn kem Tứ Hải
Thuở đó khoảng năm ngàn chín trăm năm bảy
năm tám gì đó, tôi nhớ không
chính xác lắm. Buổi chiều sau khi cơm nước xong,
lúc bảy tám giờ tối gì đó, Ba tôi dẫn
cả nhà đi ăn kem tiệm Tứ Hải, đường Thái Lập Thành
đầu chợ trên, gần Bùng Binh. Có thể nói
đây là một trong những ``biến cố `` đầu đời mà
tôi hằng nhớ mãi. Lâu lắm rồi, đâu nhớ được
mùi vị kem ra sao.. chỉ nhớ là ``thằng nhỏ`` sướng lắm.
Được ngồi tiệm, được mút ly kem đầu đời , làm sao
nói lên được cảm giác lân lân thời
đó. Lớn lên từng đi ăn những tiệm kem nổi tiếng của Sai
gon với người yêu. Ra hải ngoại này, với tâm hồn
thích ăn uống, tôi nhủ lòng phải biết và ăn
những tiệm, hiệu kem ngon nổi tiếng nhất . Nhưng sao vẫn là nhớ
lại hoài ly kem Tứ Hải ngày xưa. Làm sao nó
bằng Sàigon và thế giới, Nhưng Sàigon và
thế giới, sao bằng được dư vị ngày xưa. Lẽ dĩ nhiên
tôi phân loài đươc những rung cảm của tâm
lý chứ .Và vật lý là ``cân, đo, đong,
đếm``. Nhưng mặt nào đó những lằn ranh nhỏ nhiệm
đó, những biên tế ``bất khả``đó sao lại rõ
phân chia.
Cái thuở ban đầu lưu luyến đó,
Nghìn năm hồ dể mấy ai quên.
Vậy hương vị mà kem Tứ Hải ngày xưa còn đọng lại
trong tôi là gì.. Là ly nước lạnh mà
sau khi ăn kem mà người ta cho tôi uống. Lẽ dĩ nhiên
lúc đó tôi từng uống nước đá lạnh, nhưng
đây là lần đầu tiên tôi uống ly nước ướp lạnh,
mà người ta còn ``làm điệu`` bỏ vài giọt si
rô bạc hà. Vị ngọt sau khi ăn ly kem, hớp nước mát
lạnh vị bạc hà ``đầu đời`` vào thì quả thật hồ dễ
mấy ai quên.
Tiệm kem Tứ Hải, theo tôi biết nếu không lầm, phải được ghi
vào trang Bình Dưong xưa (có dấu và
không dấu) đó là tiệm kem đầu tiên của tỉnh,
quí vị nghĩ sao..( và hỏi lại, có phải sau
đó là nước đá Tứ Hải cũng đầu tiên hay
không..)
7. Nước đá đậu đỏ bánh
lọt
Hổm rày nghe bà con nhắc tới xe nước đá,
nhắc tới ông bán nước đá, nhắc tới si rô nước
đá nhận, cho thêm một vào chút xíu
nước chanh muối, xong mút cục đá nhận đó.
Mùi bạc hà cay cay, sướng thấu cả trời xanh, nhờ vị
chút mằn mặn của chanh muối, mình mới nhớ ra rằng
còn ở trần gian, mút nước đá nhận; đó
là lúc ít tiền, bữa nào đủ tiền là
chơi một ly đậu đỏ bánh lọt. Ôi, nghe nó đã
làm sao! .
Ông bán nước đá, lấy cái ly, múc một
muỗng đầy đầy, khi thì múc thêm một chút
xíu, khi thì bỏ bớt ra hay thêm vào ba bốn
hột đậu đỏ cho đủ phân lượng. Vậy phần đáy của ly
là đậu đỏ màu đỏ đỏ. Ví dụ như đậu đỏ là
năm phần, ông múc thêm một muỗng đậu xanh
(tán nhuyễn), thì đậu xanh phải ít hơn ba phần,
xong chan bánh lọt nước dừa vào, nước dừa ngập hơn phần
đậu một chút. Chế hai muỗng nhỏ nước đường, bào nước
đá đầy hơn mặt ly, nhận nhè nhẹ cho nước đá bằng
mặt ly.
Ly nước đá cao, muỗng thì dài hơn đầu ly một
chút. Quậy nhè nhẹ. Đậu đỏ bánh lọt trộn lẫn
vào nhau, có màu hơi đo đỏ một chút
vàng và xanh xanh của bánh lọt. .. Thế là
xong, thằng nhỏ cầm ly nước, đá đậu đỏ, chơi liền.
Ngày còn con nít, tôi cho là
chú bán nước đá hà tiện nên cân
đo từ chút, lớn lên rồi , tôi lại thấy ông
làm ly nước đá, cân đo với cả một tâm hồn,
quả ngon là như vậy.
Ông nước đá mà tui ăn tự thuở lên năm,
bán ở ngã ba Bạch Đằng - Phan Thanh Giản khúc
nhà Phủ Đẩu. Lúc đó còn nhỏ quá chỉ
biết ăn thôi. Ông này là ba của thằng
Ná , nhà ở đối diện ông Xã Tề. Nhớ một điều
là mặt ông buồn buồn, chắc vì vậy mà
làm ăn không khá, sau phải sang xe nước đá
này cho chú nước đá tôi gọi là
ông ốm. Tôi bắt đầu ghiền nước đá đậu đỏ từ
đây.
Lúc thì có tiền thì ăn, trả liền,
lúc không tiền, ông bán chịu, lâu
lâu thỏ thẻ với Má, con thiếu ông nước đá năm
mười đồng gì đó, má cho tiền trả
Sau xe nước đá này dời lên đầu chợ trên,
bán trước nhà dãy phố Phan Thy - Thanh Lợi.
Có lẽ là do nhân duyên tiền định, hay
ông trời thương tôi vì thấy tôi có
tâm hồn ``ăn nước đá đậu đỏ quá mức', nên xe
nước đá đó ngự trước nhà nàng. Lúc
đó mới yêu nhau, tình yêu hai đứa hạnh
phúc ngập tràng. Nhớ, mỗi trưa lên nhà em,
tôi hỏi nàng, em có biết đêm ngủ anh
trông mau tới sáng để lên nhà em, đố em để
làm gì, em biết không.. ? Nàng dể thương hỏi
lại , để làm gì hả anh, ( chắc nàng nghĩ là
gặp mặt em chớ gì). Tôi trả lời là để ăn ly đậu đỏ.
Nàng phụng phịu. Tôi có một màn năn nỉ giải
thích.
Từ khoảng 1955 tới 1975 tôi chưa ăn nước đá đậu đỏ ở
đâu ngon như ông này, kể cả ở Saigon. Tôi cho
là tôi không phải chủ quan, mà nó ngon
nhất ở chỗ, phân lượng đâu đó, hạt đậu phải ngọt mềm
bùi, bánh lọt thơm nước dừa tươi.
Tôi phân biệt chè có hai loại. Chè xe
nước đá thì chè, bánh lọt nước dừa
và nước đường bỏ riêng, khi ăn thì mới trộn chung.
Chè gánh của mấy bà Việt nam, nấu chung, và
như vậy nước dừa nấu và không nấu, mùi vị nó
khác nhau.
Bỏ nước ra đi 1978, tôi tưởng đậu đỏ bánh lọt đã
chắp cánh bay đi rồi không còn bao giờ gặp lại nữa.
Nào ngờ lại hội ngộ ở Montreal Canada. Cũng lại chủ quan nữa.
Tôi cho là chỉ có một tiệm bán nước
đá đậu đỏ ngon nhất . Bây giờ người ta kêu là
chè ba màu, và chỗ ngon nhất của nó
là cân lượng đạt tiêu chuẩn như ly đậu đỏ
ngày xưa của khung trời kỷ niệm Bình Dương, của những
ngày xưa thân ái.
8. Bậy bạ, vòng vo… xuống piscine
Nhìn tấm hình này (xuân này) chợt
nhớ… xuân xưa. Chữ xuân đây, là lòng
xưa phơi phới tuổi xuân xưa, một mùa xuân bất tận ở
mãi lòng ta.
Người ta quân tử đi đường ngay nẻo chánh, kẻ tiểu
nhân này (tiểu là nhỏ, là thời con
nít, chớ ‘’tiểu’’ này không có ý bậy
bạ đâu nghen)… lại thích lòn lách, ngỏ hẻm
mà đi. Tới piscine thì từ Ngã Sáu đi lợi,
hay từ Ngô Quyền đi tới. Tui hổng chịu như vậy. Đường lớn
thì ai ai cũng biết, lối nhỏ đường đi lách lòn,
chỉ có tui khoái tìm. Từ đỉnh dốc ông
Cò, có một khuôn viên một mái
nhà hơi xưa xưa, lúc đó 1955, 56 gì
đó, là Ty Thú Y. Tôi quên rồi,
không nhớ rõ lắm. Không biết là từ
khuôn viên nhà này, hay đi vòng
phía ngang hông, có con dường dốc trải đất , xuống
Ngô Quyền, quẹo vô đi lòn lòn một
chút… Ra piscine, thằng nhỏ..sư..ớ..ng quá, nước
đây rồi…. Cây cối , bông hoa , bông giấy rậm
rạp (như hình 1 piscine 1946) Tôi hay đứng trên bờ
thành hồ này, để nhìn ngó xuống dãy
phố nhà bên kia đường Ngô Quyền. Tưởng mình
đang trên cao (núi) ngó xuống nhân gian, thấy
người dưới thế đi qua lại, sinh hoạt của cõi ta bà.
Nhìn qua nhà thờ, với những bậc tam cấp đi lên,
những tưởng rằng mình có thể đi lên gặp Chúa
cả trời cao! Đúng là giàu tưởng tượng. Lúc
này tui mới năm, mười tuổi gì đó, piscine
này là biên giới ‘’chót’’ bé nhỏ của
tôi. Chửa biết Giếng Máy, chớ nói chi ‘’thọt’’ tới
Suối Giữa hay Bưng Cầu, Bến Thế.
Cũng thế, tôi ở xóm Bạch Đằng, khi mà có thể
tự đi một mình để vô Nội , xóm Cầu Mới, hay
còn gọi là đường đắp mới ( không biết nhớ
trúng tên gọi hay không).
Nhắc tới trên dốc ông Cò có Ty Thú Y , nhớ lại chuyện xưa, anh bạn kể… Bữa lễ hội gì đó, người ta phải đọc diển văn qua lại. Tới một ông đại diện nông dân, đọc diễn từ cám ơn… như vầy: … Kính thưa ông tỉnh trưởng, kính thưa ông phó tỉnh trưởng, kính thưa Bác sĩ Trưởng Ty Y Tế, kính thưa bác sĩ… chỗ này bác nông dân hơi ú ớ, vì danh từ nầy mới qúa…. Đành nói, Kính thưa bác sĩ trưởng ty…súc vật. Cả hội trường muốn cười mà không dám, phải nín cười, riêng đám con nít tụi này, nghe anh bạn kể cả đám cười ngất. Sau này bọn con nít tụi tôi gặp ông ta, len lén nói nho nhỏ bác sĩ súc vật đó tụi bây ơi. Hằng năm, tôi thường dẫn chó lên đây để chích ngừa bịnh dại cho chó. Bác sĩ ‘’súc vật’’ này tánh tình rất là dễ thương cắt nghĩa tận tình. Lúc sau này, nhân đọc Hồ Biểu Chánh, mới biết ra danh từ bác-vật là kỹ sư, không hiểu có phải danh từ bác sĩ súc vật do đây mà ra không?
Cám ơn anh Tâm Từ, vì coi tấm hình piscine của anh, mới nảy ra viết bài này, kể vòng vo tam quốc, chuyện bậy bạ, mà không có ý bậy bạ, cũng như ngôn từ phương Nam chúng mình: “Thôi gặp bữa, mời dô làm bậy bạ vài ba hột cơm”, vậy mà.
Sân bóng
chuyền Ty Thanh Niên - năm 1966