KIÊN TRINH VỚI TỔ NGHIỆP
ÔNG TÁM KHIÊM : BẬC THẦY CỦA NGHỀ  SƠN


HOÀNG ANH


    Đời có lúc cực thịnh thì rồi phải có lúc suy, đó là quy luật hằng cửu của trời đất, làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp chắc cũng không vượt ra ngoài quy luật tự nhiên ấy. Đã có thời nơi đây người người làm sơn mài, nhà nhà làm sơn mài. Vào những đêm cúng tổ, đi đâu cũng thấy bày biện nhang đèn hoa quả cúng vái rất trang nghiêm. Ghé nhà nào cũng rượu, cũng vịt đầy mâm, pháo thì nổ vang rền từ đầu thôn cuối sớm suốt đêm còn hơn đón giao thừa. Khói pháo toả khắp đường thôn làm cho bức tranh đồng quê như chìm trong màn sương mù thơm ngát. Những cảnh tượng ấy nay có lẽ đã mãi trôi vào dĩ vãng. Làng sơn mài bây giờ buồn thiu, thợ thầy bỏ nghề xin vào làm công nhân xí nghiệp hoặc phụ hồ, bán cà phê... Người còn bám lấy nghề thì than vắn, thở dài.

    Đáng tiếc là tình cảnh ấy lại có lỗi phần lớn ở chính những người làm sơn mài nơi đây gây ra cho chính họ. Vào lúc được thời, hàng làm không kịp bán, quá nhiều người chạy theo lợi nhuận nên làm đồ gian dối không kể chi đến uy tín hay hậu quả. Có những sản phẩm khó tưởng tượng nỗi là người ta có thể hoàn thành xong chỉ nội trong hai, ba ngày, trong khi một sản phẩm đúng tiêu chuẩn cần đến bốn hay năm tháng. Chả trách rồi cũng đến lúc khách hàng tẩy chay mặt hàng này. Thị trường thu hẹp dần, thợ thầy phải trả giá cho những gì do chính họ gây ra.

    Không biết có bao nhiêu người đã cùng chịu trách nhiệm cho lầm lẫn tai hại đó, và ngày nay, liệu có mấy người biết ăn năn hối tiếc chuyện năm xưa. Tuy nhiên có một người, nay vẫn có thể thanh thản tự hào đứng ngoài vòng cuộc đảo điên xáo trộn của thời buổi ấy. Người đó là ông Tám Khiêm. Ở làng sơn mài, nói đến ông chắc ai cũng biết.

     Tên họ đầy đủ của ông là Trần Văn Khiêm, trong giấy tờ ông sinh năm 1938. Hồi đó để tránh nạn lính tráng ông buộc phải sửa ngày sinh tháng đẻ đó thôi, chứ đúng ra thì ông sinh năm 1937, tuổi Tý, như vậy đến năm nay ông đã 72 tuổi rồi, đáng gọi là cổ lai hy. Già nhưng trông ông vẫn còn rất khang kiện, quắc thước. Ông sống trong một ngôi nhà gạch khá khiêm tốn gần chợ Cũ. Ngoài sân chưng một số chậu kiểng, nhiều nhất là bông sứ; trong nhà có tủ thờ, bàn ghế bày biện theo lối xưa, tuy giản đơn nhưng rất trang nghiêm. Đáng chú ý là bàn tủ ấy được cẩn đầy ốc xà cừ, hình ảnh tinh xảo và đẹp mắt, đủ báo cho khách biết chủ nhân là người như thế nào.

    Ông sinh ra tại làng Tương Bình Hiệp, trong một gia đình nghèo đông con, tuổi ấu thơ nhiều gian khó, hoàn cảnh ở đây dường như ai nấy đều giống nhau ở điểm này. Năm 1949, lúc mới vừa 12 tuổi, ông xuống chợ Thủ học nghề sơn với thầy giáo Khó, thầy dạy khoa sơn mài tại trường mỹ nghệ nên còn gọi là thầy Sơn. Thầy rất khó tính trong nghề nghiệp, làm theo đúng ý thầy thì quá vất vã, mà không đúng thì bị thầy qưở trách hết sức nghiêm khắc. Lớn lên rồi mới biết nhớ ơn thầy, nhờ vậy mà nay nói về đường nghề nghiệp thì ông chẳng kém ai. Khi biết nghề rồi, làm với thầy một thời gian thì xin vô làm cho sơn mài Thành Lễ ở đường Hùng Vương, xã Phú Cường. Hồi đó công ty cũng mới khởi nghiệp, còn nghèo. Chỗ làm chỉ là một căn phố nhỏ, hàng làm xong ông Lễ phải đích thân bỏ vô mấy cái thùng giấy rồi chở đi bán. Sau, ông mới mua thêm căn kế bên để làm nơi chưng hàng, vậy mà dần dà ông tạo được nguyên một miếng đất lớn để dựng lên thành công ty hàng đầu của Thủ Dầu Một hồi đó. Năm 1961, tới tuổi quân dịch, ông phải lánh về cơ sở của Thành Lễ ở  nhà số 449 đường Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn. Tại đây, nhờ sự che chở của ông Lễ nên ông được yên thân một thời gian tiếp tục làm nghề. Sau do có người khai báo, ông lại phải trốn đi nơi khác. Bị bắt quân dịch, ông lại tìm cách trốn trở về, lại tiếp tục làm thợ cho Thành Lễ, yêu nghề cũng có, mà để tránh đời lính tráng cũng có. Cứ lặn hụp như vậy đôi lần, nhưng ông vẫn trung thành với chủ cho đến ngày 30 tháng 4. Hồi đó công ty Thành Lễ là nơi tập hợp rất nhiều nhân tài, nằm trong một rừn sao, ông chưa gây được  thành tích nỗi bật để mọi người chú ý. Tài năng và danh tiếng của ông tạo được khi ông rời khỏi công ty này.

    Sau 75, ông lập tổ hợp sản xuất sơn mài, sau nâng lên thành hợp tác xã sơn mài Thống Nhất tỉnh Sông Bé, ông là phó chủ nhiệm. Sản phẩm nổi bật nhất của ông giai đoạn này là làm ra chiếc dĩa rất lớn bằng sơn mài đường kính dài tới 1m2. Đây là một công việc vô cùng khó khăn trong nghề nghiệp. Hồi đó nhân có lần mời ông Hai Sàng là phó giám đốc xuất nhập khẩu tỉnh đến văn phòng nhân ngày khai trương tổ hợp, ông Hai nói rằng hàng sơn mài tôi thấy cái gì mình làm cũng đựơc, nay tôi muốn thấy một cái dĩa thiệt lớn liệu có ai làm nỗi không. Nghe lời khích tướng đó, ông khởi ý quyết thử tài nghệ của mình, dù biết rằng có những nghệ nhân nổi tiếng đã thử làm rồi mà không thành công. Năm 1985, sau khi suy nghĩ chín mùi rồi ông bắt tay vào việc. Trươc tiên ông làm một chiếc khung tre để nằm lật úp, phất vải và sai con đi chở đất về để trét lên. Xong giai đoạn đó, ông mới bắt đâu bỏ khung để làm tiếp phần sơn mài và cẩn ốc trang trí. Ông âm thầm làm không dám cho ai biết sợ thất bại sẽ bị chê cười. Thế nhưng khi công trình hòan thành thì đó lại là một tuyệt tác, ai xem cũng lắc đầu thán phục. Gởi tác phẩm đi trưng bày,  ông nhận đựơc rất nhiều lời khen ngợi. Năm 1987, tham dự triển lãm hội chợ Giảng Võ, ông được  trao giấy chứng nhận huy chương Bàn tay vàng lần thứ nhất do ban chủ nhiệm Liên hiệp hợp tác xã trung ương trao tặng. Về sau bức tranh đó đươc nhà nước đem đi triển lãm ở nước ngoài rồi cuối cùng tặng cho nước Nga. Thỉnh thoảng ông chợt nghe nhớ những ngày tháng sáng tạo đầy nhọc nhằn để làm ra chiếc dĩa độc nhất vô nhị này. Những hoài niệm ấy làm cho ông vừa vui, mà cũng khó ngăn nỗi ngậm ngùi, giờ thì ông đã quá già, đứa con tinh thần của ông nay không biết số phận nó ra sao, trôi dạt về đâu!

    Trong những năm tiếp theo, sản phẩm của ông nhiều lần tham dự triển lãm và đều gặt hái được những thành công rất đáng kể. Đến khi hợp tác xã ngừng hoạt động, ông tiếp tục làm nghề tại nhà. Một người thợ sơn mài nói rằng vào thời điểm đó, tranh của anh ta làm ra nếu bán được khoảng ba chục ngàn thì anh đã mừng lắm, còn một bức tranh cùng kích cở như vậy của ông Tám Khiêm, giá phải cả triệu bạc, nói như thế để thấy được giá trị tác phẩm của ông Tám ra sao. Ông sản xuất và để tranh tại nhà, và tuy đắt tiền như thế nhưng ông Tám làm hàng ra nhiều khi không đủ bán. Dù thời cuộc biến thiên như thế nào, ông Tám vẫn không hề nao núng hay sờn lòng, kiên định với cách làm truyền thống, thà đói chứ nhất định không bao giờ chịu làm giảm phẩm chất của tranh. Giới làm sơn mài kính phục ông về điểm này.

    Rất may đời không phụ lòng ông, danh tiếng ông lan xa, giới kinh doanh tại đia phương hay từ Sài Gòn tin tưởng vào uy tín và tài năng của ông nên vẫn tìm đến tận nhà để mua hay đặt hàng. Tâm sự với chúng tôi, ông thoáng bùi ngùi trước tình cảnh sa sút của nghề sơn mài tại địa phương ngày nay. Ông có những ý tưởng để góp phần mong phục hưng ngành nghề như cần phải xây dựng một ngôi nhà truyền thống, một viện bảo tàng nhỏ  trưng bày hay triển lãm tranh tại đia phương dành cho những nghệ nhân trong làng. Đó là nơi giới thiệu sản phẩm với khách tham quan, vừa để khuyến khích dân trong nghề thi đua sáng tạo, tìm tòi ra cái mới, cái hay để nghề sơn mài không mất đi tiếng tăm của mình, luôn đáp ứng được nhu  cầu thẩm mỹ nghệ thuật của thời đại.

    Riêng một mình ông thì chưa làm được, một con én không bao giờ làm nên nỗi một mùa xuân. Biết vậy nên ông lẳng lặng để làm công việc của mình, theo một phong cách đặc thù của ông. Ông không hề muốn bình phẩm hay nhận định việc làm của ai khác, sợ mích lòng bà con, tấm lòng của ông, nỗi buồn của ông là nỗi khắc khoải khôn nguôi của một người đã gắn bó hết cụôc đời của mình với nghề sơn mài, từ buổi xa xưa cho đến lúc tuổi già, trãi bao chìm nỗi, vẫn thiết tha với nghề nghiệp và ước mơ một tương lai tươi sáng cho nó, cho hết thảy bà con trong xóm thôn. Ông nói : “ Mấy chú biết không, hồi đó vui lắm, cả làng nầy ai nấy cũng làm sơn mài. Nhắc đến, thêm buồn”