Những
cái Tết
Đồ Ngông
"Cu kêu, ba tiếng cu kêu
Cho mau đến Tết dựng nêu ăn chè
Hôm nay Xuân đã lại về
Ba mươi tháng Chạp tư bề vui tươi..."
Đó là bốn câu thơ lúc nhỏ Đồ Ngông
tôi đã học thuộc lòng mà bây giờ Đồ
tôi không nhớ rõ là đúng hẳn vậy
không? Nhưng cả hơn hai chục năm sau Đồ tôi cũng chưa hiểu
rõ vì sao lại là "cu kêu" và "ba
tiếng cu kêu". Mãi đến vào khoảng cuối những năm
70, khi đọc trong sách giáo khoa của cấp 1 Phổ
thông, trong đó có kể lại con cu gáy
gáy vào đúng khoảng thời gian gần đến Tết ở
ngoài Bắc, thế là Đồ tôi đã tìm được
câu giải đáp của "cu kêu, ba tiếng cu kêu",
giống như một bộ đội chiêu hồi nào đó, khi ra
ngoài viết lên tình cảnh ở trong rừng sâu bị
mưa nên bạn anh ta chợt nghĩ đến "rừng sâu mưa lâm
thâm" tạm gọi là đối lại câu "da trắng vỗ bì
bạch" của Bà Đoàn Thị Điểm đã ra từ xưa.
Nói đến Tết, Đồ tôi lại cũng cảm thấy nôn nôn
mà nhớ lại thời còn bé tí teo, "thằng
lùn đen đen nói đớt" cứ mãi trông đến Tết để
má cho mặc đồ mới, dẫn đi về nội, về ngoại được tiền lì
xì để mua kẹo, cà lem ăn. "Cà rem đây! năm
cắc một cây, đồng hai cây, cà rem đây".
Ôi! Tiếng rao sao hấp dẫn lạ, lại thêm tiếng xe lắc
chuông leng keng, leng keng. Cái cảnh ấy bây giờ chỉ
còn vương vương lại trong ký ức kỷ niệm mà
thôi. Ôi! vuông tre, gò mã, đường
sá chun vào ruột hai hàng tre của thôn
xóm và có cả những gai tre đâm lủng
chân hay ruột xe đạp nữa. Ôi! Những bông xương ong
(cactus) vào mùa mưa hay những trái sim ngọt nhưng
hột khá nhiều, hoặc những trái cơm rượu, trái mua,
trái thù đù... mà bọn con nít như Đồ
Ngông tôi thuở ấy rất thích. Tất cả cũng đi rồi,
giống như thời thơ ấu đã qua..!
Ôi! Cảm giác trông chờ ngày Tết đến sao
mà lâu quá, dài quá vậy! Ngày
lại càng dài ra thêm. Lâu lâu cứ hỏi
má "còn bao lâu mới tới Tết hả má?".
"Còn bao lâu nữa hả Dì Tư?".
Rồi ngày Tết cũng đến. Đồ Ngông tôi được cái
áo sơ-mi trắng, thằng On được bộ đồ bà ba, thằng Khanh
được cái áo sơ mi cụt tay với quần sọt, thằng Rờn chỉ
có cái áo không thôi. Sáng sớm
mùng một, trên các nẽo đường làng bọn con
nít lớn lớn xun xoe quần áo mới, đứa đội nón, đứa
đội khăn lũ lượt kéo về phía chợ để coi múa
cù (múa lân), đánh trống, ông Địa nhảy
lưng tưng cầm cây quạt phe phẩy với chú cù.
Đâu đâu cũng có tiếng pháo đì đẹt,
đì đùng. "Tay ra nè! Hai con cua một trái
bầu", bên kia "Nai, bầu, gà". Một dọc hàng bầu cua,
cá cọp cũng chẳng thiếu người chơi. Kia là mấy bàn
tài xỉu, hoặc bài cào, xổ số hột vịt lộn. Mấy xe
nước mía, nước đá không kịp bán; đậu đỏ,
bánh lọt, đậu phọng rang, mía ghim, cóc ổi
ngâm cam thảo...Quả cảnh ngày Tết thật là
náo nhiệt! Những ngày đó, có lúc ba
Đồ tôi chở đi về nội bằng xe đạp, hoặc theo má đi về
ngoại, hôm nay đi ngang qua hai gò mã "Đồ con
nít" tôi không sợ ma nữa, vì đã
có đông người.
Thắm thoát Đồ Ngông tôi cũng được lớn hơn. Theo thời
cuộc để lánh chiến tranh, ba má Đồ tôi dời
nhà về chợ ở vừa tránh được bom đạn, vừa tránh
được cảnh khó khăn do sự bố ráp của phe bên
ngoài hoặc sự lôi cuốn của phe trong rừng. Đồ tôi
được ôm tập đến trường với ông thầy giáo già
dạy lớp Đồng Ấu vỡ lòng. Có bửa ông dạy đến
bài "Cam-quít-ngọt" rồi ông làm bộ ăn nhiều
quá bị đau bụng ông làm dáng điệu mà
cả lớp cười ồ. Và đến lúc ông làm ra kiểu
oai phong của "Yên-cưỡi-quất", dáng dấp ngồi trên
lưng ngựa nhảy tưng tưng, Đồ nhóc con tôi mãi
mê ngó mà khoái chí...
Cảnh Tết ở chợ vui hơn nhiều, nhất là từ rằm tháng Chạp
trở đi ai cũng lo buôn bán nườm nượp. Các tiệm may
được đặt may từ tháng mười một âm lịch, may đồ cho người
lớn, cho trẻ con, trong tháng Chạp thợ phải may ngày may
đêm. Còn các gian hàng bánh, kẹo mứt,
dưa hấu được bày bán cả ngày lẫn đêm. Tối
có đèn măng sông, đèn khí đá
sáng trưng.
Năm nào má Đồ tôi cũng bán dưa hấu cả,
nên tối ngủ lại ở chợ cũng vui. Và cũng từ những năm nầy
Đồ tôi không khoái Tết nữa, mà lại bắt đầu
sợ. Mỗi lần đến Tết, Đồ tôi phải leo lên gác
nhà dọn dẹp, quét mạng nhện, trang Ông trang
Bà, rồi sắp xếp. Xong tới dưới nhà: Chà chưng
đèn, chùi lư, quét sạch sẽ; lau chùi, trang
trí lại bàn thờ Tổ Tiên. Chỉ có một
mình thôi! Đôi lúc đứa em gái
khó khăn khóc đòi ẳm thì Đồ tôi phải
bỏ cả mà dỗ nó. Nhiều lúc Đồ tôi nỗi
sùng "đéc" cho nó vài cái, rồi ngồi
khóc với nó. Ngày 23 phải về ngoại dẫy mã;
rồi 26, 27, 28 lo gánh nước lần cho đầy để xài trong ba
ngày Tết. Đồ tôi nhiều lúc tưởng mình
là "Cô bé lọ lem", nhưng lỡ làm thân
con trai rồi nên lại thành "thằng mặt vện", đôi
lúc mấy thằng bạn lại kêu "Ê! mặt vằn !".
Đến 29, 30 Đồ tôi phải xé lá, gói
bánh phụ má, và chở đi cho. Ôi! Tết nhứt
thật là đứ đừ! nên Đồ tôi không tha thiết
gì tới Tết nữa cả. Chỉ biết sắp tới mình thêm được
một tuổi, vóc dáng cao thêm một chút,
làm công việc nặng thêm tí nữa. Thế
thôi!
Và từ lúc nầy Đồ tôi mới chứng kiến được các
ông Đồ nho viết chữ Tàu. Có ông thì
có cái bàn để ngồi, có ông thì
trải giấy dầu ngồi dưới đất, chung quanh treo các chữ, hoặc
câu chữ Tàu để dán cột, hoặc những chữ chiếc để
dán ở lu nước, cột hay trên thân cây,
bàn thiên mà bán hoặc viết mướn cho người
ta. Má Đồ tôi cũng mua một số rồi hỏi người quen, họ
kêu dán ở đâu thì dán ở đó, chứ
chẳng hiểu nghĩa là gì và đọc làm sao.
Có nhiều người lại dán ngược đầu. Đến mãi
vài năm sau khi vào Trung học Đồ tôi mới hiểu
loáng thoáng những chữ chiếc đó, thường là
Phước, Lộc, Thọ hoặc Phú, Quí, Vinh, Hoa, Tài Danh
gì đó hoặc Vạn, Sự, Như, Ý..v..v...Còn
các câu dán cột nhiều chữ, thường thì năm
hoặc bảy chữ là câu đối. Kiểu cách câu đối
Tết vậy mà..! Nhưng mua gì thì mua vẫn phải
có hai cái bùa nêu, ông hổ để
dán ở khung trên cửa chính của nhà.
Bùa nêu là lá in hình bát
quái, còn ông hổ là tấm in hình con
cọp để trấn giữ nhà trong năm. Sau nầy, Đồ tôi mới hiểu
đó là hai lá treo với cây nêu dựng ở
cổng vào nhà, hoặc ở sân để có vẻ Tết
và những hình ảnh đó với ý nghĩa để trấn
giữ ma quỷ, cái xấu xa chúng sợ ông cọp và
bùa bát quái mà không dám
xâm nhập vào nhà để quấy phá. Nghe
nói lúc xưa dựng nêu đến bảy ngày, nhưng sau
nầy chỉ có ba ngày Tết thôi. Ôi! Cái
chữ Tàu đã khó, mà lòng người lại
khó hơn, có nhiều người bảo cái cũ xé bỏ
nhưng không được bỏ vô thùng rác như vậy bị
mang tội vì chữ đó là chữ của Thánh hiền,
sau nầy học sẽ ngu, mình phải trân trọng nó.
Thì ra, Kinh sách Tàu nhất là của Khổng Tử,
mà các nhà nho coi như là Vị Thánh
nên họ quý, kỵ nhất là lấy mấy giấy có chữ
Tàu mà "chùi" khi đi vệ sinh là mang tội.
Viết đến đây, Đồ tôi lại nhớ đến ba của thằng bạn học,
ông ta vốn học chữ nho giỏi lắm và làm nghề hốt
thuốc, cứ mỗi lần nói chuyện thì ông ta thường hay
nói đến "Khổng Tử viết" hoặc "Sách có câu".
Trong đám bạn có đứa cháu ruột của ông,
nó lại hay "rắn mắt", một bửa nọ, ông vừa nói
"Khổng Tử viết" thì nó lại nói: "Con biết rồi
Chú 6", ông ngạc nhiên hỏi nó "Mầy biết
cái gì?". Nó liền nói "Con biết rồi Khổng
Tử viết : Từng trang từng trang, Sách có câu : Từng
hàng từng hàng". Bọn tụi Đồ Ngông tôi giật
mình, nói với nhau "Nó dám giởn với ổng
he!". Vừa nói xong tính đợi nghe ổng chửi cho một chập,
nhưng không ngờ ổng lại cười và nói "Tổ cha mầy
Gia, mầy thiệt là..!" Thế mới biết không phải nhà
nho nào cũng khó tánh cả. Nhưng đến bây giờ,
ông đồ chẳng còn có mấy người:
"Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"
(Ông Đồ già, Vũ Đình Liên)
Và từ những lúc đó, bọn thanh niên Đồ
Ngông tôi cũng tập tành làm người lớn,
ngoài bổn phận về nội, về ngoại, bái lạy tổ tiên
ông bà; rồi thì cũng dành hơn một
ngày tập hợp nhau ăn uống, nhậu nhẹt, hay dẫn nhau đi
vòng vòng chúc Tết cùng nhau cho có
vẻ một mùi Tết, mà cũng đánh dấu mình
trưởng thành thêm một tuổi vậy.
Đến khi trong lứa tuổi có đứa bắt đầu lấy vợ, thì lần
lượt từ từ "em nào cũng tới phiên". Thế rồi, mạnh thằng
nào nấy lo. Thỉnh thoảng gặp nhau vài ly, vài
câu chuyện rồi lại trở về nhà; không còn lang
thang "đầu hôm sớm mai" chia nhau từng điếu thuốc, chỉ nhau
làm vòng chữ O, hay nói chuyện tào lao, chỉ
nhau một hai thế võ... Thời ấy chỉ còn lại là dư
âm..!
Đất nước hòa bình, thống nhất thì bạn bè tứ
tán khắp nơi, đứa vào tù, đứa đi kinh tế mới, đứa
chạy áp phe, đứa về ruộng rẫy, đứa bơ vơ, đứa lây lất qua
ngày với nghề nghiệp cũ...
Đồ tôi lại may mắn được hưởng Tết trên xứ người. Ngồi
trên đảo, trong trại mà đếm những ngày Tết qua đi
với bao nỗi lòng lo lắng, với các nỗi buồn mênh
mông, vừa nhớ vợ nhớ con, nhớ cha nhớ mẹ rồi nhớ người
thân,... Những con đường, những căn nhà, những nơi
mình phải tới hiện dần trong trí óc, nhưng chỉ
là ở trí óc thôi!...
Rồi những năm trên xứ người, Tết vẫn phải đi "cày". Sự
khác biệt về lịch, khác biệt về phong tục nên
không dám nghỉ hảng, bỏ công việc làm. Nhưng
rồi người Tây dần dần cũng hiểu, bây giờ cũng được một hai
ngày để gọi là "ăn Tết" lai rai. Đã mấy năm rồi Đồ
tôi vẫn phải "hái lộc đầu năm" ở trong nhà
nilông với cái nóng của mùa Hè
trên xứ Úc. Xong về nhà bắt cassette để các
ông A.V.T hỏi cô hàng bánh "bánh chưng
thì có.. bánh dày.. cô để
đâu?...". Bạn có biết cô hàng để ở đâu
không? Chứ Đồ Ngông tôi thì không biết ở
đâu rồi! Hoặc đọc đến bài thơ "Chúc Tết" của Cụ
Tú Xương để mà nghe cái thâm thúy,
cái thi vị trào lộng nhẹ nhàng nhưng rất độc
đáo của nhà thơ:
Chúc Tết.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen nầy ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thì mua tước, đứa mua quan
Phen nầy ông quyết đi buôn lọng
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Nó lại mừng nhau cái sự giầu,
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Phen nầy chắc hẵn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi lọ phải cầu.
Nó lại mừng nhau sự lắm con,
Sinh năm, đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Trần Tế Xương.