Nhớ về bạn cũ trường xưa

Từ thị Yên


Sớm mai, ra sân tập vài động tác thể dục cho giãn gân cốt, nhìn hoa tím nở đầy khắp lối, tôi chợt nhớ San José giờ đã vào hè. Ở đây, tuy không có những cành phượng đỏ thắm, không có tiếng ve sầu trong những vườn cây râm mát nhưng tự nhiên tôi vẫn mông lung nhớ về một thuở  hoa niên, một thời mới lớn đầy vô tư ở vùng quê hương đầy trái ngọt cây lành. Đó là Bình Dương nơi tôi sinh ra và lớn lên. Đó là trường trung học Trịnh Hoài Đức, ngôi trường thân yêu nhiều kỷ niệm ...

Thuở  nhỏ, tôi đi học ở trường Trí Đức cho gần nhà. Trong kỳ thi Trung Học Đệ  Nhứt Cấp, tôi đổ hạng Bình. Vào thập niên 60, khi việc học hành ở Bình Dương còn rất khó khăn, và trong lúc nhiều bạn khác bị thi rớt kỳ thi Trung Học, thì việc tôi đậu hạng cao như vậy là một “chấn động” lúc đó, nhứt là trong giới bạn bè trung học. Tôi nhớ năm đó chỉ có hai người đậu Trung Học hạng Bình đó là tôi và anh Nguyễn thành Thuần.

Do đậu cao, tôi được tuyển thẳng vào học lớp đệ tam của trường trung học Trịnh Hoài Đức (tức lớp 10 bây giờ).

Hồi đó, trường Nữ Trịnh Hoài Đức ở sâu phía trong. Từ quốc lộ 13 đi vào là con đường đất đỏ, bên phải con đường có quán bánh bèo bì Mỹ Liên nổi tiếng. Từ đây vào trường phải đi bộ hơn một cây số. Vào mùa mưa đi học trên con đường nầy là cả một cực hình vì học sinh nữ phải mặc đồng phục áo dài trắng, mang guốc mộc, mà đường đất thì dơ lắm, vừa bùn lầy, vừa trơn trợt, có khi bùn đất dính vào hai tà áo dài trông rất dơ bẩn.

Đường đi học đã khó mà việc học cũng không dễ dàng gì. Tôi nhớ chỉ có hai người được tuyển vào học nên “ma cũ ăn hiếp ma mới”. Nhóm học sinh đệ tam cũ của Trịnh Hoài Đức dành hết các bàn đầu. Tôi bị nhét vào bàn chót, vừa chật chội, vừa xa bảng, khó nghe thầy giảng bài. Tuy bị “chơi ép” như vậy, tôi quyết tâm phải tỏ ra mình không thua kém ai.

Tôi có người anh thứ ba tên Từ văn Chánh. Anh rất giỏi toán nên tối nào tôi cũng nhờ anh kèm toán trước. Vào lớp, tôi xung phong lên bảng giải những bài toán khó. Thế là được thầy để ý. Tôi rán học bài, làm bài đầy đủ nên cuối năm đó tôi đứng đầu lớp. Đó là lớp đệ tam không phải là lớp thi nên tôi chỉ học tà tà chớ chưa phấn đấu hết sức mình.

Sang năm đệ nhị, mấy bạn kia đã biết “tài” của đối thủ nên họ cũng rán học ghê lắm. Còn phần tôi, dĩ nhiên tôi cũng phải phấn đấu học tập siêng năng hết mình. Đối thủ của tôi lúc đó có: Quế Châu là con của cô giáo Quế dạy Pháp Văn của trường Trịnh Hoài Đức, nhà trước rạp hát Bình Minh; Hồng Điệp là cũng con của thầy cô giáo, nhà ở gần Ty Cảnh Sát; và Sang. Ba người nầy siêng lắm, ai cũng học giỏi và đuổi theo tôi ráo riết.

Thầy cô giáo của chúng tôi năm đệ nhị toàn là “thượng thặng”: Việt Văn có thầy Kiên, Lý Hóa có thầy Phạm Ngọc Em, Vạn Vật có cô Hưng ...

Người tôi nhớ nhứt chính là thầy Em, người mập, mang kiếng cận. Thầy giảng bài rất dễ hiểu và rất nhiệt tình. Tôi còn nhớ như in những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt thầy trong những trưa hè nóng nực. Nhưng tánh thầy quá dễ dãi nên học sinh nói chuyện um sùm. Đúng là “nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”.

Hồi đó, thầy Điềm, dạy sử địa thích cô Yến dạy Việt Văn lớp đệ tam. Thế là chúng tôi tha hồ trêu ghẹo thầy cô. Mỗi lần thấy thầy cô gặp nhau ở hành lang là tụi tôi cười khúc khích. Thế mà sau đó thầy cô thành vợ chồng mới hay chớ.

Tôi có một người bạn ngồi cùng bàn là Xuân Hương con ông Tỉnh Trưởng tỉnh Bình Dương lúc đó. Sau khi đậu Tú Tài một, Xuân Hương lên xe hoa với thầy Kiên trong một đám cưới rất linh đình. Thầy đã “đá lông nheo” với Hương hồi nào không biết. Đây là một chuyện tình kết thúc có hậu.

Một chuyện tình khác cũng kết thúc có hậu. Đó là Ngọc Tuyết, học chung lớp của tôi năm đệ nhị. Tuyết đã lên xe hoa với thầy Công – giám thị trường Trịnh Hoài Đức – Hai người yêu nhau vì cùng sinh hoạt chung trong tổ báo chí của trường. Lúc đó tôi cũng là một thành viên của Ban Báo Chí. Có lẽ máu văn sĩ của tôi đã nổi lên từ đó hay chăng ? (Mới đây có người cho biết tin là hiện nay thầy Công định cư tại San Jose và là một nhà địa ốc rất thành công ở Thung Lũng Hoa Vàng. Cũng mừng cho thầy).

Sau năm đệ nhị nhiều bạn đã rớt Tú Tài một, hoặc đã đi học Cao Đẳng hay ở nhà ... lấy chồng. Lớp chỉ còn phân nửa nên chúng tôi chuyển qua học đệ nhứt bên trường Nam chung với những bạn trai.

Xin điểm danh lớp đệ nhứt A năm nầy. Bên nữ thì có Thanh Quang, Quế Châu, Hồng Điệp, Sang, Ngọc Điệp, Hồng Cúc, Ngọc Mai, Yên ... Bên nam thì có Di, Liệu, Đỗ thái Bình, Phan kỳ Nam, Nuôi, Tám ...

Thành công nhứt lớp đệ nhứt A của tôi hiện giờ ở Bình Dương là bạn Đỗ thái Bình. Anh là Giám Đốc một công ty Dược khá bề thế ở Lái Thiêu. Bình là người có lòng với trường. Anh là Hội Trưởng Hội Cựu Học Sinh Trịnh Hoài Đức. Mấy năm trước khi tôi về Việt Nam thăm gia đình có gặp Bình thì được biết anh cùng với Nuôi, Liệu, Tám cùng các bạn học niên khóa 63-64 đang vận động góp tiền bạc để xây cho cô Hưng (dạy Vạn Vật) một căn nhà tình nghĩa vì hiện giờ cô đã về hưu và rất nghèo. Tôi rất cảm động về nghĩa cử đó và cũng có đóng góp một phần nhỏ trong đó.

Xin nói tiếp chuyện học hành năm lớp đệ nhứt. Trường Nam Trịnh Hoài Đức nằm gần quốc lộ 13, chung quanh chỉ là ruộng trồng đầy củ sắn. Mỗi lần thi Lục Cá Nguyệt, khi phải suy nghĩ về một bài toán khó hay tìm một câu văn trong bài luận Triết tôi hay thả mắt nhìn qua ruộng củ sắn nơi có một màu xanh ngắt bát ngát, mênh mông.

Hồi đó, tôi mê những lời giảng về môn Triết của cô Long. Cô mang kiếng trắng, lời giảng của cô thao thao và rất sâu sắc. Cô Hưng thì độc thân và hơi khó tính nên cô bị tụi con trai như anh Nuôi quậy phá tưng bừng. Có lần tụi con trai còn để trái “mắt mèo” dưới ghế ngồi của cô nên cô đòi đưa mấy cậu nầy ra Hội Đồng Kỷ Luật. Sau nầy chính mấy anh chàng quậy phá nầy lại có lòng nhứt với cô Hưng như đã nói ở trên.

Về chuyện học hành, tôi phải rán học dữ lắm đến nổi ốm yếu trơ xương. Tôi, Quế Châu, Hồng Điệp, Sang ... đang tranh nhau từng điểm một. Mấy anh bên trai tức lắm nhưng học không lại tụi tôi. Cuối năm đó, tôi chiếm hạng nhứt, Quế Châu hạng nhì, Sang hạng ba, Hồng Điệp hạng tư. Đỗ thái Bình chỉ hạng 5 mà thôi. (Nhưng sau nầy anh ta thành công nhứt lớp. Con trai mà, chắc giỏi ngoại giao hơn tụi tôi !). Năm nầy tôi còn được Phần Thưởng Danh Dự Đệ Nhị Cấp của trường.

Về chuyện tình, trong lớp tôi có bạn Hồng Cúc rất đẹp và nẩy nở ở tuổi 18 nên lọt vào mắt xanh của anh Nguyễn văn Phúc. Sau nầy hai anh chị thành hôn với nhau. Anh Phúc là người học giỏi nên sau nầy là giáo sư Triết và trở thành Hiệu Trưởng Trịnh Hoài Đức rồi làm tới Chánh Sở Học Chánh của tỉnh Bình Dương. Còn Hồng Cúc là giáo sư dạy môn Lý của trường Cấp 3 Thị Xã.

Sau khi đậu Tú Tài Hai và rời mái trường trung học, tôi và Đỗ thái Bình đậu vào trường Đại Học Dược Khoa. Bốn năm sau chúng tôi tốt nghiệp Dược Sĩ. Những năm trước 1975, tôi, chị Lâm Lệ Du, anh Võ Tấn Đức, Đỗ thái Bình ... là những dược sĩ trẻ của tỉnh nhà. Chúng tôi mở nhà thuốc tây ở Chợ Thủ và nhờ đó mà người dân Bình Dương có nhiều lựa chọn hơn khi cần mua dược phẩm cần thiết để trị bịnh.

Cuộc đổi đời năm 1975 đã làm đảo lộn tất cả. Nhà thuốc tây tư nhân thì bị đóng cửa. Với lý lịch là vợ sĩ quan chế độ cũ, tôi không được thu nhận vào làm việc cho các cơ sở y tế ở Bình Dương. Từ đó, tôi phải làm nhiều nghề lao động và buôn bán để kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng đang “học tập cải tạo”. Năm 1990, gia đình tôi qua Mỹ định cư với hai bàn tay trắng. Việc học lại vì đó cũng không thể thực hiện được nữa. Cuộc sống bây giờ chỉ làng nhàng chớ chẳng lên hương chút nào. Tôi cũng không buồn vì tôi đã biết rõ số tử vi của mình. Cung Quan Lộc thì tốt nhưng cung Mệnh thì tầm thường. Bây giờ đã trên sáu “bó”, đã thành lão bà rồi. Thôi thì hãy vui với con với cháu. Một điều an ủi đối với tôi là con gái tôi rất thành công và có địa vị trong xã hội mới ở xứ người. Cháu làm việc lương cao,
siêng năng và được mấy người “lãnh đạo” yêu mến. Như vậy đối với tôi đó cũng là một điều làm tôi rất mãn nguyện khi đến xứ sở tự do nầy.

Mấy năm trước, tôi đã nhiều lần trở về thăm lại trường xưa. Trường Trịnh Hoài Đức bây giờ đã được xây cất lại. Đó cũng nhờ công của cậu em trai kế của tôi là Từ văn Nhung, người từng làm Hiệu Trưởng Trịnh Hoài Đức trên hơn 10 năm. Nay Nhung cũng đã về hưu rồi. Thế hệ “già” cũng cần ra đi để thế hệ trẻ tiến lên.

Bây giờ nhìn lại sau hơn 40 năm, tóc đã bạc, răng đã long nhưng mỗi khi nhớ lại những ngày hoa niên, lòng tôi bỗng như trẻ lại, bỗng bâng khuâng nhớ về một dĩ vãng thật xa xưa với hình ảnh thầy cô, với bạn bè. Tôi mong một ngày nào đó có dịp về lại quê hương để gặp lại những bạn cũ, rồi cùng nhau nhắc những câu chuyện về những ngày xưa thân ái, rồi điểm danh xem ai còn ai mất, hoặc nhắc lại những kỷ niệm vui buồn của thời học sinh ở trường Trịnh Hoài Đức. Đó là một thời vàng son mà tôi không bao giờ quên được ./.