Nhắc Chuyện Xưa

Hoa Trần

1.  

    Trong tờ khai sinh của tôi ghi: sinh năm 1931 tại làng Phú Cường, tỉnh Thủ Dầu Một. Vì thế nên từ nhỏ đến lớn tôi sống gần chợ xưa gọi là chợ Thủ, cuối chợ có cất một cái chợ cá ve ra sông, gần đó có bến đò qua bên kia sông gọi là Bình Mỹ. Thửơ đó, chợ và bến đò đều do người Ấn Độ thầu, nên mỗi buổi sáng đều có mấy ông vận chăn đi thâu tiền các bạn buôn bán gọi là tiền chỗ, còn cuối bến đò cũng có hai ông bán vé qua sông. Mấy ông Ấn nầy ăn trầu bô bô, cái túi vải đeo trước bụng đựng trầu, thuốc tòn ten. Dân buôn bán có tiền thì ngồi chỗ đàng hoàng, còn dân nghèo buôn gánh bán bưng hể thấy dạng mấy ông nầy thì lo lẩn tránh.

    Nhà ông bà nội tôi ở gần rạp hát Trần Trung, tức là con đường có tiệm vàng Tín Thành sau nầy, ngày xưa gọi là đường Outrey vì lúc đó còn người Pháp đô hộ, tất cả tên đường đều bằng tên Pháp. Kỷ niệm ăn sâu trong đầu tôi là chợ và rạp hát vì chỗ nầy rất vui. Thử nghỉ tám chín tuổi còn con nít thì ai mà không thích. Ban ngày đi học đi ngang qua chợ lên khỏi nhà làng Phú Cường để đến Trường Nữ. Lúc đó học sinh còn ít nên chỉ có hai trường nhà nước riêng con gái, con trai. Trường chỉ dạy từ lớp một gọi là Cours Enfintin, 2 Cours Preparatoire, 3 Cours Elementaire, 4 Cours Moyen 1ere Année, 5 Cours 2ème Année, và sau rốt là Cours Superieur.  Hồi đó gọi theo ta là lớp chót, lớp tư, lớp ba, lớp nhì một năm, lớp nhì hai năm và lớp nhứt. Học hết lớp nhứt là đi thi lấy bằng sơ học mà viết tắt là C.E.P.C.I. Tức là Certificat d'Etude Primaire Complementaire Indochinnois. Tôi chắc quý vị cỡ tuổi tôi hồi đó cũng trải qua những chương trình học nầy. Bắt đầu 7 tuổi tôi vô học lớp chót, xong lớp nầy là phải đọc viết cho giỏi chữ quốc ngữ. Lên đếùn lớp tư là bắt đầu học tiếng Pháp. Đến lớp ba là khỏi nói, đến giờ Pháp văn đứa nào nói tiếng Việt là bị phạt đòn. Ngày xưa đi học sợ thầy cô lắm, đến giờ học im thin thít lắng nghe lời giảng của cô. Bây giờ nghĩ lại gẫm nực cười , học sinh mũi xẹp như chúng ta học sử ký địa dư đều là của nước Pháp. Bắt đầu  đến lớp nhì 1 năm là cứ nhai mãi câu " Nos ancêtres sont desù Gaulois", tức tổ tiên chúng ta là người Gaulois. Và năm đó bắt đầu là năm nước Pháp bị Đức xâm chiếm, thống chế Pétain đứng ra cầu hoà, vì vậy học sinh Đông Dương còn phải học thêm những bài hát để ca tụng thống chế Pétain. Tôi còn nhớ như in là bài "Maréchal, nous voilà" và phải học cho thuộc bài quốc ca của Pháp tức là bài "La Marseillaise" để mỗi buổi sáng tất cả học sinh sắp hàng trong sân trường làm lễ chào cờ tam sắc, trong lúc kéo cờ hát bản quốc ca sau là suy tôn thống chế Pétain, xong tuần tự trang nghiêm vào lớp học.

    Tạm dừng chuyện nầy để bước sang chuyện vui ba ngày xuân. Tôi có nói là nhà tôi ở gần rạp hát Trần Trung, chỉ băng qua đường là đến rạp. Lúc đó tôi độ tám chín tuổi, cái tuổi ham vui. Hể tối đến thì lảng vảng trước rạp hát, hể thấy ai đi một mình là kè theo sát như con cháu của người ta để vào xem, hể mấy người gác cửa soát vé dễ dàng thì lọt qua. Còn có người khó tánh thì cản lại đòi tiền đứa nhỏ, tới đó là dì nầy không nhận thì đi về đợi đêm khác vậy. Có khi học bài xong cũng gần vãn hát, chỉ còn một màn chót là kết cuộc, không còn người gác cửa vô rạp thì đám con nít chúng tôi vô coi thả giàn.

    Rạp hát Trần Trung nầy cất theo kiểu của Pháp, phía ngoài chạm trổ tinh vi. Trên nóc rạp chính giữa có hình như cái tháp. Trên nóc tháp có cây thu lôi. Ở phía dưới, mỗi bên lan can là có tượng một cô hình dáng và ăn mặc như người tây phương, ngồi duỗi dài, tay ôm chiếc đàn vào lòng. Có lúc tôi nghe người ta đồn là hai cô nầy thỉnh thoảng hiện ra trong lúc rạp không có hát, và lúc sấm sét thường thấy hai cô nầy cười. Hồi nhỏ nghe vậy tôi sợ lắm, nhưng bây giờ nghĩ lại thật là chuyện tức cười. Cạnh bên trái rạp có vách tường ngăn chừa một cửa vô, có một dãy nhà ba căn để cho người gác dan ở coi quét dọn rạp, và hai căn kia cho đào kép nhứt. Cách một khoảng sân nhỏ là dãy nhà bếp cho gánh hát. Khuất sau nhà bếp là một dãy nhà vệ sinh. Mặc dù lúc ấy còn nhỏ tôi vẫn thắc mắc khi thấy có một cái bàn thờ nhỏ treo trên tường, đâu mặt với nhà vệ sinh mà trên ấy chỉ có độc nhứt một chiếc lư hương mà thôi. Gánh hát nào đến cúng đốt nhang khấn vái, mong cậu Năm Chà phò hộ cho đắt giàn. Tôi nghe thấy người lớn nói chuyện cậu Năm nầy linh lắm. Cậu tự vận thắt cổ chết nơi nầy cũng vì thất chí chán đời nên cậu không siêu thoát nổi. Ngang hông nhà bếp có khúc sân tráng xi măng có bực thang dẫn lên bên trong sân khấu. San khấu nầy xây trên cao lót gỗ dày lắm. Có một cái thang dẫn xuống hầm dành cho nhân viên gánh hát ở. Rạp  nầy ở giữa có hai dãy ghế bằng cây cách khoảng một mét, mỗi hàng ghế độ 10 cái đóng dính vào nhau cách sân khấu chừng 5 mét và chạy suốt đến gần cửa ra vào. Hai bên hông sân khấu là những dãy băng cây dành cho hạng cá kèo. Những chiếc băng nầy đóng không khít chừa cách khoảng 2 lóng tay. Những hàng ghế nầy không có số, ai đến trước thì được chỗ tốt, đến sau thì rán chịu thôi. Có một dãy lầu hình chữ U chạy dài từ trên hai dãy cá kèo suốt đến ngoài cửa rạp. Phía ngoài nầy có chừa một bao lơn nhỏ để ra vô hóng mát. Phía sát hai bên sân khấu có hai cái phòng cao độỉ một mét có cửa ra vào, trong đó có 6 ghế bằng gỗ dành để mời quan khách, và đâu mặt ngay giữa sân khấu cũng có một phòng (loge) như vậy dành riêng cho chủ rạp. Những hàng ghế dọc theo 3 dãy nầy là hạng nhứt, còn hạng nhì và ba là những dãy băng cây.


Hoang phế rạp hát Trần Trung

    Thưở đó có mấy anh chị không tiền đi coi hát. Mấy anh nầy bàn cách với nhau là nếu  một người vô được thì sẽ mở cửa bên hông cho bạn vào. Rạp nầy xây đấp lên lót từng miếng gạch lớn cách nhau khoảng 3 lóng tay ở mặt tiền bên hông, thì anh nầy bám lên mà leo lên lầu. Ai cũng hồi hộp sợ anh sút tay thì khổ thân. Leo lên đến bao lơn, anh vẫy tay , các bạn anh ùn ùn chạy đứng bên hông cửa. Anh xuống lầu bên hông hạng cá kèo có cánh cửa, anh rút cây gài, cả đám chạy ùa vô. Nghỉ con nít cũng khờ thiệt, chen nhau đứng gần sân khấu cho dễ thấy. Vì vậy mà mấy anh sắp chỗ khi biết con nít vô coi cọp liền đến lùa cả đám trở ra ngoài. Lủ nầy ra đứng xa chưởi là đồ làm phách chó. Tuổi thơ thật là vui, biết bao giờ tìm lại được. Lâu lâu cũng có gánh hát đồng ấu Triều Châu về hát. Mà hát từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau. Cứ chiều tối là thấy mấy bà xẩm cụ bị túi xách, nào là bình thuỷ nước nóng, thức ăn, áo ấm ... Không biết nghe tiếng Tàu mà cái tội ham coi nên cũng rán dậy sớm lối 5 giờ sáng để đợi coi "xả giàn". Đào kép hát đều là con nít, lớn nhứt là 12 tuổi và nhỏ là 7 tuổi. Tội nghiệp đầu hôm tới sáng thức trắng đêm nên cô cậu nào cũng muốn rệu hết. Mấy bà xẩm  thì gục lên gục xuống, vậy mà cũng không chịu về ngủ. Đương nghe hát bổng nghe một cái rầm trên lầu. Ai nấy cũng giựt mình. Sau biết lại có một bà xẩm ngủ gục té xuống sàn đổ theo lon hủ bánh nước văng tùm lum.

    Hồi nhỏ vì ở gần rạp hát nên tôi đã thấy đời sống cơ cực của các gánh hát nghèo, nhứt là gánh hát bộ. Tối trên sân khấu, họ là những ông hoàng bà chúa, lộng lẫy áo mão cân đai. Họ đẹp và sang cả vô cùng khiến cho bao cô gái quê đều mơ ước. Tôi được coi tuồng Mộc Quế Anh Dâng Cây. Đứng sát sân khấu mê say theo dõi cô đào hát bộ. Ôi sao cô đẹp cô sang, thân hình cô mảnh mai như cành liễu, kèm theo giọng hát vút cao. Thần tượng của tôi rồi đó. Tôi nghỉ không biết chừng nào tôi mới được như cô. Sáng hôm sau, nhằm chủ nhựt, nghỉ học tôi chạy qua sân rạp chơi. Bên đầu đường có hàng cà phê nhỏ có 2 bàn và 2 ghế ngựa mà thôi. Đương lúc ấy có hai người khác, người đàn ông day mặt ra ngoài, còn người đàn bà bới tóc mặc áo túi đen, mặt day vào trong. Đi ngang, tôi nghe than:"Hát mà thưa giàn như vầy bầu phát lương không đủ sống vậy tụi mình tính sao đây anh". Tôi nghe giọng nói sao thanh tao quá. Tôi bước lại gần đặng nhìn kỹ, thì ra cô Mộc Quếâ Anh của tôi đây mà. Cô mặc chiếc áo túi đen đã cũ, phơi hai cánh tay gầy gò. Mặt cô không son phấn nên thấy rõ nước da màu bánh ít, nom thật tiều tuỵ. Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn cô không chớp mắt, cho đến khi bà bán hàng la :" Ê, nhỏ đi chỗ khác chơi, đứng xớ rớ đó rủi đụng nước sôi báo tao đó ". Tôi quay lưng rảo bước về nhà và suốt ngày hôm đó tôi thẩn thờ nghỉ đến cô. Tôi thương cảm cho kiếp cô sao quá long đong, lòng cầu thầm cho cô sẽ gặp nhiều điều may mắn trên bước đường phiêu bạt.

    Đặc biệt rạp hát Trần Trung đắc giàn nhứt là từ mùng một Tết đến lối mùng tám và sau đó là ngày 14, 15, 16 tháng giêng. Ba bữa Tết, phần đông bà con ở miệt Bình Chuẩn, Tân Uyên, Bưng Cầu, Bến Thế, Búng ... đổ về chợ Thủ coi hát. Gánh hát về mỗi ngày hát 3 xuất. Xuất nào cũng đông nghẹt. Thôi thì các cô áo xanh đỏ trắng vàng đủ màu. Có cô thì quần tây hoặc quần hàng đen, chân mang dép guốc đủ kiểu. Trên tay không đồng hồụ thì cũng chiếc lắc vàng, bông hột xanh hột đỏ tòn ten sáng chói. Phần đông các cô ở độ tuổi 15, 18 vì phụ giúp cha mẹ việc ruộng vườn cực nhọc nên nước da cô nào cô nấy ăn nắng dữ lắm. Các cô lại thích những màu sáng đậm làm cho nước da đen thêm. Về phía con trai thì quần tây, áo sơ mi mang dép, lũ lượt từng đàn đi coi hát.

    Nhà tôi ở gần rạp nên vui lắm. Hết Tết lại đến ngày rằm tháng giêng thỉnh Bà. Lối 12 tháng giêng đổ lên thì có các đoàn múa lân (cù) lên múa, múa giáp vòng quanh chợ Thủ, các tiệm người Tàu buôn bán lớn đua nhau treo cái bao lì xì kèm theo cây cải xà lách nên gọi là cù ăn cải. Hể cù nào đi qua thấy có tên đội mình thì mới được múa. Chớ có ăn bậy mà sẽ xảy ra lắm chuyện vì đội cù nào cũng võ nghệ đầy mình. Lúc múa cù thì gia chủ treo một dây pháo dài nổ đinh tai điếc óc. Pháo nổ cù nhảy múa, nhịp nhàng theo tiếng trống rùm beng. Hồi nhỏ đi theo coi múa cù bỏ ăn bỏ uống, có khi bị trúng nắng nằm bịnh 3, 4 ngày liền. Lại còn vài đám hát rong người Tàu, mỗi nhóm 2 người: một đàn ông lớn tuổi xách cây đờn cò đi cùng một cô gái cầm cái nhịp. Họ vào nhà xin phép gia chủ cho họ hát để chúc mừng nhiều may mắn trọn năm. Ông kéo đờn, cô gái gõ nhịp và hát. Họ hát những bài gì tôi không được biết, nhưng nghe hay lắm. Xong bài hát gia chủ lì xì một bao giấy đỏ và họ tiếp tục qua nhà khác. Tôi lẽo đẽo theo họ từ nhà nầy qua nhà kia cho đến lúc thấy đói bụng mới mò về kiếm cơm ăn. Mẹ tôi rầy: con gái gì đi chơi không biết đến giờ cơm nửa. Từ ngày 13 tháng giêng thì chùa Bà bắt đầu nhộn nhịp vì ai nấy cũng sợ đến ngày rằm đông đảo các nơi tựu về thì không thể vào chùa được. Dọc theo đường vào chùa, hàng quán mọc lên san sát. Họ chuẩn bị bán thức ăn chay. Nào là bún riêu, bún bì, bánh canh, cà ri, mì, hủ tiếu, đồ kho ăn với cơm, hoặc tàu hủ ướp xả chiên ... Còn xe nước mía chỗ nào cũng có. Rồi rất nhiều gian hàng bán nhang đèn trước cổng luôn cả trong sân chùa, chưa kể những kẻ đi bán dạo. Một điều lạ là không biết bao nhiêu người ăn xin ngồi la liệt đầy sân chùa, và còn có những kẻ bất lương thừa nước đục thả câu. Họ giả dạng đi chùa để thừa dịp chen lấn đặng móc túi khách hành hương.
 
    Đúng ngày rằm, từ sáng sớm từ Sài Gòn, Chợ Lớn những gia đình người Hoa có bà con ở Bình Dương dùng đủ loại xe để lên trước cúng Bà sau dự lễ rước Bà vòng quanh chợ. Các đội lân, hẩu từ Biên Hoà, Sài Gòn, Chợ Lớn đều tề tựu về đây cúng hầu Bà. Ngày trước thỉnh Bà lúc chiều tối, sau nầy vì lý do an ninh nên đổi lại bắt đầu từ lúc 4 giờ. Ngày ấy tôi và các bạn cũng chưa quá 10 tuổi, suốt ngày đi theo đám con nít Tàu tập dượt gánh giỏ bông, lồng đèn, còn lớn hơn chút thì vác liểng. Con trai thì cầm cờ  phướn. Tập xong là đến giờ cơm trưa, tan hàng ai về nhà nấy lo nghỉ ngơi để chiều rước Bà.

    Chiều sẩm tối, xung quanh chợ đèn đuốc sáng choang, các tiệm buôn đều đặt bàn hương án trước nhà, kèm theo dây pháo treo cao khỏi nóc dài cỡ hơn 5 mét. Từ chùa đến chợ đi đầu là ban giữ trật tự, kế đó là đám đồng tử gánh hoa cờ xí rợp trời tiếng trống kèn inh ỏi. Sau đó đến giàn tiên nữ đứng trên xe, cô thì thổi sáo, cô lại đánh đờn. Đi hai bên là một hàng dài cờ liểng. Đoàn hẩu múa đi trước là đến bàn hương án của Bà. Lúc nầy hai bên phố các tiệm đốt nhang lạy xong mới bắt đầu đốùt pháo. Tội nghiệp đoàn cù đi tới pháo nổ liên hồi, khói bay mù mịt mấy anh nầy vừa múa vừa nhảy để tránh pháo nổ dưới chân. Lâu lâu lại có một trái pháo đại kèm theo nổ nghe điếc cả lỗ tai. Đầu đám rước về đến chùa mà khúc đuôi còn ở tận ngoài chợ. Bây giờ đám cù lân hẩu đều tan hàng lo thu xếp lên xe, còn khách thì lũ lượt từng đoàn trở về nhà. Quê tôi ngày xưa tỉnh Thủ Dầu Một là thế. Biết bao kỷ niệm êm đềm của thời thơ ấu, tôi ghi nhớ mãi trong lòng không bao giờ quên.

    Lại còn những ngày trước Tết nữa. Ai ai cũng lo trước cả tháng. Đàn bà thì lo quần áo cho con, lo làm bánh mứt, làm củ kiệu chua. Cách hai ngày trước Tết thì lo gói bánh tét, bánh ít, lo kho nồi thịt cá, hầm nồi khổ qua, gói nem, rồi thịt đầu heo ngâm dấâm nửa. Thật là cực cho người đàn bà trong gia đình. Còn đàn ông thì lo quét dọn bàn thờ, đánh bóng mấy bộ lư chưn đèn. Xong lại lo chưng bông và hoa quả. Chiều hôm 30 rước ông bà bằng một mâm cơm tươm tất. Các con cháu đều có mặt lạy ông bà. Tối 12 giờ khuya đón giao thừa, pháo từ ngoài chợ và xung quanh xóm nổ liên hồi cho đến sáng không ngủ được. Lúc nhỏ tôi sợ nhứt đêm giao thừa vì mặc dầu lấy bông gòn nhét hai lỗ tai cũng vẫn còn nghe tiếng pháo. Sáng mùng một, mẹ tôi thức sớm lo hâm lại thức ăn để sửa soạn 3 mâm cơm cúng. Mỗi mâm đều đủ màu sắc. Nem chua màu hồng, dĩa dưa giá trắng muốt, kèm theo dĩa xà lách rau sống xanh tươi, dĩa thịt cá kho với chút nước màu vàng thẩm, lại còn tô ổ qua hầm có vài cọng ngò xanh vắt ngang qua, dĩa củ kiệu trắng phau kèm theo dĩa đầu heo ngâm dấm, kế bên là chén nước mắm ớt đỏ tươi. Mỗi dĩa bánh để hai khoanh bánh tét và 1 bánh ít. Hai màu nầy hợp lại thật hài hoà, nhìn mâm cơm thật là cả một nghệ thuật. Cành mai cắm trong lục bình đặt trên chiếc ghế đẩu cũng vừa hé nụ điểm theo những chiếc lá non màu nâu dợt cạnh màu hoa vàng tươi thắm. Nhìn lên bàn thờ đèn nến sáng choang, sắc hoa đủ màu rực rỡ, bên cạnh còn có dĩa quả tử trong đó có mãng cầu xiêm, hai trái dừa, một quả đu đủ lớn và hai trái xoài kèm theo một trái thơm nữa.

    Ngày xưa ai cũng kiêng cữ nhứt là ngày đầu năm, nên người ta cứ nghỉ "cầu vừa đủ xài rồi được cả tiếng thơm nữa" nên ai cũng thích chưng cúng như vậy trong ba ngày Tết. Ông bà nội tôi làm lễ trước bàn thờ, kế đó là cha mẹ tôi và cô tôi, sau hết  là chị em tôi. Cúng xong, cả nhà xúm lại dùng cơm. Mẹ tôi lo trút những thức ăn cúng rồi vào những nồi nhỏ khác. Dọn dẹp xong là mẹ tôi lo thay quần áo mới cho các em tôi để lên nhà trên chúc Tết mừng  tuổi ông bà nội. Ba tôi áo dài khăn đóng, mẹ tôi mặc chiếc áo dài xuyến đen với chiếc quần lãnh láng bóng. Ông bà nội tôi ngồi đầu bộ ván gõ. Ba má tôi đứng chúc ông bà tôi bá niên trường thọ, xong quỳ xuống lạy. Ông bà tôi cũng chúc lại vạn sự lành và được may mắn suốt năm cho ba má tôi. Xong đến lượt chúng tôi sắp hàng trước ông bà nội để chúc và cũng quỳ xuống lạy ông bà tôi. Bà nội lì xì mỗi đứa 5 cắc. Tiền hồi đó mắc lắm, lúc đó còn xài nửa xu. Đến trưa cũng dọn 3 mâm cơm cúng. Dọn dẹp xong nghỉ một chút là đến buổi cơm chiều. Tội nghiệp mẹ tôi bận bịu suốt ngày. Sáng mùng ba, mẹ tôi dậy thật sớm bắt con gà giò làm xong đem luộc để cúng Tết nhà. Bà nội tôi lấy giấy tiền vàng bạc cắt hình trái bầu, xong đem dán lên tủ và tất cả đồ vật trong nhà. Bà tôi nói Tết nhà để trong nhà mình được tài được lợi vì chỗ nào cũng đầy vàng bạc. Mùng ba Tết cũng vậy ngày ba bữa và khách khứa đến chúc Tết nên ông bà tôi vui lắm. Riêng tôi càng vui hơn vì mỗi lần bưng trà mời khách là được lãnh bao lì xì. Tôi cũng biết mừng tuổi khách. Có quên thì cứ chúc như vầy : "Năm mới bước qua năm cũ, con chúc ông luôn mạnh và sống lâu trăm tuổi", thay vì nói năm cũ bước qua năm mới. Sáng sớm mùng bốn, mẹ tôi đi chợ thật sớm để về nấu nướng làm ba mâm để đưa ông bà. Lần nầy thì khác với các thức ăn của ba ngày vừa qua. Hôm nay nào cà ri, mì xào, gỏi, bì cuốn, cháo gà,còn có bánh thững, bánh da lợn, bánh bò nửa. Nhìn các thức ăn trên bàn thờ tôi phục mẹ tôi quá. Sao mẹ tôi có thể nấu nướng quá giỏi và quá nhanh như vậy. Còn nhỏ mà tôi tự hỏi không biết sau nầy lớn lên tôi có thể làm được như mẹ tôi không. Hồi xưa làm dâu cực lắm. Ông bà nội  tôi ngày ba bữa, mà đến tối 12 giờ khuya còn phải nấu thêm một nồi cháo trắng, có khi là dưa mắm, cá kho quẹt hoặc là hột vịt muối. Đợi ông bà nội tôi ăn xong má tội dọn dẹp tươm tất rồi mới đi ngủ. Mẹ tôi vất vả suốt ngày. Lớp lo cho các con, rồi giặt giũ tắm rửa, chợ búa rồi hầu hạ cha mẹ chồng. Nhưng không bao giờ tôi nghe mẹ tôi than. Ôi sao ngày xưa người đàn bà đức hạnh và cao quý quá !

    Còn phần tôi, tiền lì xì tôi đưa cho mẹ tôi giữ vì tất cả được gần 3 đồng. Số tiền quá lớn tôi sợ mất lắm. Sáng tôi đi học mẹ cho tôi một xu. Tôi vô trong chợ có dì Ba bán chè đậu và bánh dừa, bánh nếp có nhưn đậu xanh, ở ngoài lăn dính dừa nạo trắng tinh. Cái bánh to bằng cái dĩa nhỏ. Khi nào mua dì gói bánh trong miếng lá chuối xong rắc đường và có chút muối mè nửa. Ăn thật là ngon mà chỉ có nửa xu một bánh. Còn muốn ăn thêm chè thì cũng nửa xu một chén. Nhưng bụng nào chứa cho hết. Bửa nào ăn chè thì khỏi ăn bánh. Còn lại nửa xu, vô trường học lúc ra chơi ăn miếng bánh mì chiên nhúng bột có con tôm đỏ tươi ở trên mặt, ăn với tương hay nước mắm. Nghĩ lại đồng tiền ngày xưa sao quý giá quá. Nhớ lại mỗi ngày mẹ tôi đi chợ chỉ có hai cắc, mà bữa ăn nào cũng đầy đủ thịt cá rau quả.

    Nhân ba ngày xuân, nhắc chút chuyện xưa tặng các đồng hương Bình Dương. Mong quý vị tìm lại chút dư âm ngày cũ.  Chuyện tôi kể không bao giờ hết. Mong gặp lại một ngày gần đây trong đặc san nầy. Chúc tất cả đồng hương một năm mới tràn đầy may mắn, riêng các bô lão thì sức khoẻ dồi dào để sống lâu trăm tuổi.

2.  

    Xin được tiếp tục viết về sinh hoạt của tỉnh Thủ Dầu Một ngày xưa. Bài viết nầy riêng tặng các đồng hương trẻ. Sở dĩ tôi nói như vậy vì lúc đó phần đông còn quá nhỏ, hoặc có người chưa có mặt trên đời. Riêng với các vị cao niên, nếu thấy có gì thiếu sót, xin quý vị bổ túc dùm, xin đa tạ.
   
    Tỉnh Thủ Dầu Một bao gồm quan trọng nhứt là tư dinh của tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng đều tập trung vào một chỗ, ngày xưa gọi là Dốc Ông Cò. Nơi đây có văn phòng của viên chánh chủ tỉnh, còn được gọi là Toà Bố, đâu mặt xéo qua là Chi Cuộc Cảnh Sát. Sau Toà Bố dưới đồi là một dãy nhà của gia đình lính cảnh sát người Việt, mà dân gọi họ là lính mả tà. Tôi cũng không biết vì sao mà có tên đó, nhưng mỗi lần có đánh lộn hay bị cướp giựt thì tôi nghe người ta la "bớ mả tà" để cầu cứu. Lính mả tà có nhiệm vụ bắt bớ và biên phạt những ai vi phạm luật lệ. Ngay chính giữa đầu dốc là Toà Án, ngó thẳng xuống là nhà làng Phú Cường. Cách nhà làng một khoảng đường có một vườn bông. Ngay giữa vườn có một hồ sen lót gạch bông xanh. Những con đường nhỏ bao quanh được rải sạn trắng. Có nhiều chiếc băng dài bằng xi măng, đặt dưới những bụi bông lồng đèn vàng đỏ. Bốn trụ đèn cao ở bốn góc vườn, đến tối bật lên thật sáng. Sau buổi cơm chiều, nhiều gia đình thường dắt con lên vườn bông, lũ trẻ chạy chơi, người lớn ngồi hóng mát.
    
    Và cũng nơi nầy ngày xưa, nhằm những ngày lễ lớn, người ta thường tổ chức ngay trước nhà làng. Quan trọng nhứt là ngày 14 tháng 7 ( 14 Jullet) là lễ quốc khánh, ngày toàn dân Pháp phá ngục Bastille, giải phóng cho nhân dân thoát khỏi cảnh ngục tù, và xây dựng lại chế độ dân chủ. Lúc ấy toàn cõi Việt Nam đều chịu dưới sự đô hộ của người Pháp, tất cả những chức vụ quan trọng đặt dưới quyền cai trị của thực dân. Ai lên tiếng phản đối thì sẽ bị bắt bớ, tù tội và nặng nữa là bị đày ra Côn Đảo. Thật là mâu thuẫn khi họ biết vùng lên để thoát ách gông cùm, thì họ lại tròng ách nô lệ lên toàn cõi Đông Dương gồm có Việt Nam, Lào và Cao Miên. Họ chia dân ta làm ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Họ làm như thế để gây chia rẽ, phân biệt ba miền cho dân ta không thể đoàn kết chống lại chúng. Tôi nhớ hồi nhỏ đi học, gây lộn với chị bạn người miền Bắc, giận quá tôi mắng chị " đồ Bắc Kỳ". Tôi nghĩ câu nầy nặng lắm, nhưng chị điềm tĩnh mắng lại: "đồ Nam Kỳ". Tôi vỗ tay cười: "thì tao là Nam Kỳ đúng rồi". Quý vị thấy không, thực dân mưu mô làm cho dân ta kỳ thị lẫn nhau, để chúng dễ bề đè đầu cởi cổ. Ngày lễ Quốc Khánh của Pháp, tất cả các quan chức, học sinh đều được nghỉ. Lễ nầy được tổ chức trước nhà làng Phú Cường. Trên bực thềm người ta xếp những hàng ghế sắt, trên căng tấm vải bạt, lá cờ tam sắc vươn cao trên trụ cột. Trên hàng ghế danh dự có quan chánh chủ tỉnh ngồi giữa, xung quanh là những viên chức Pháp, những hàng ghế sau dành cho quan chức và nhân viên ta. Chánh chủ tỉnh đọc diễn văn khai mạc, xong rồi dân chúng mới bắt đầu tham dự vào cuộc.

    Khoảng trống trước nhà làng ngay trước vườn bông, người ta chôn một cây cột cao cỡ năm thước. Cây cột  nầy được thoa mỡ láng bóng. Trên đầu cột có treo một gói quà. Song song đó cũng có chôn hai cây cột nhỏ, được căng thẳng bằng một sợi dây luộc cột chặt hai đầu. Người ta treo trên đó một hàng chảo, chảo nầy đã xài rồi nên lọ nghẹ dính đầy. Dưới đít chảo người ta gắn  rải rác những đồng bạc cắt trắng tinh.

    Cuộc thi thứ nhứt bắt đầu. Đây là cuộc thi nhảy bao bố. Một hàng độ mười người, mỗi người đứng hẳn trong bao bố, hai tay vịn chặt mép bao kéo lên tới ngực, sau tiếng còi là bắt đầu nhảy. Nhảy từ đầu nầy sang đầu kia, và quay lại về ngay chỗ xuất phát. Có ba giải thưởng: nhứt nhì, ba.

    Cuộc thi thứ hai tiếp theo, leo lên cây cột thoa mỡ bò. Rất nhiều anh trẻ tham dự. Họ leo lên tụt xuống không biết bao lần. Mỡ bò thoa nhiều nên trơn lắm. Bà con đứng coi cổ vỏ om sòm, các cô gái đứng ôm bụng cười ngất. Giải nầy coi vậy mà khó trúng lắm. Một lần có anh ở xóm tôi đoạt được phần thưởng. Trong gói quà có tờ giấy bạc con công, tức là tờ 5 đồng. Một gia tài quá lớn đối với anh.

    Cuộc thi chót là cạp đít chảo. Anh nào anh nấy mặt mày tèm lem, miệng mồm dính đầy lọ nghẹ. Chảo treo tòn ten nên khó cạp lắm. Đồng cắt  bạc 10 xu dính chặt vào dưới đít chảo. Anh nào kiên nhẫn có thể lấy được hết 10 đồng cắt nầy tức là một đồng bạc chớ ít ỏi gì đâu. Cũng xài được cả tháng, ăn mì hủ tiếu đã đời lại được ăn chè tráng miệng nữa. Cái màn này làm bà con cười nôn ruột vì rất nhiều anh không cạp được cắt nào mà mặt mày đen thui như hề vậy.

    Chấm dứt cuộc thi rồi thiên hạ lũ lượt kéo nhau xuống bến sông. Nơi đây sẽ tiếp diễn thi tài giữa các đội đua ghe. Mỗi đội là một màu áo. Chiếc ghe dài, bề ngang nhỏ, những tay đua ngồi hai hàng dọc theo lường ghe. Mỗi người cầm một chiếc dầm. Có ông trưởng đoàn đứng sau lái cầm cái gõ nhịp để thôi thúc cho đội mình. Hai bên bờ đen nghẹt người xem. Cuộc thi bắt đầu từ chợ lên đến gần thành quan, xong quay về. Tiếng reo hò, cổ vỏ vang trời, ai cũng mong đội mình ủng hộ thắng cuộc. Các tay đua phần đông là những thanh niên lực lưỡng, cầm chiếc dầm trong tay rẻ nước chạy như bay. Thêm vào đó ông chỉ huy, tay gõ nhịp, còn miếng thôi thúc hò hụi vang rân. Đội thắng về tới đích, dân của xã đó reo hò mừng rỡ tưng bừng. Còn các đội thua hẹn năm sau sẽ tái  đấu. Tan hàng ai nấy ra về, chấm dứt cuộc vui buổi lễ dành cho dân chúng.

    Riêng buổi tối hôm đó, tại nhà làng tổ chức một buổi dạ hội, gồm có chánh chủ tỉnh và các viên chức Pháp, các ông dân Tây, luôn cả các quan Anamite nữa. Họ ăn tiệc, nhảy đầm tới khuya. Dân chúng đứng dưới vườn bông ngó lên, không được đến gần. Lính đứng gác xung quanh nghiêm nhặt lắm. Ngày xưa Tây gọi nước ta là An Nam, còn dân gọi là Anamite. Sau nầy qua cuộc đổi đời mới được gọi là Việt Nam.

    Quý đồng hương cùng tôi đã dự Lễ Quốc Khánh của Pháp xong rồi, xin tan hàng. Thân ái chào tạm biệt. Hẹn sẽ gặp lại trong kỳ tới.