NGƯỜI BÌNH DƯƠNG
HOÀNG ANH
Sử sách chép rằng thưở xa xưa trên
vùng đất Bình Dương ngày nay đã từng có
các tộc người Xtiêng, người Chàm, rồi người Khơ øme
đến sinh sống, người Việt ta chỉ mới bắt đầu đặt chân đến đây
vào khoảng đầu thế kỷ 17. Thế nhưng khi người Việt ta đến, những tộc
người này thiên cư dần lên phía Bắc ở những nơi
mà người đồng tộc với họ cư trú từ lâu. Đất đai này
lúc ấy dường như hoang vắng chỉ toàn là rừng rậm và
thú dữ.
Thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, cả dinh Trấn
Biên có khoảng 4 vạn hộ, tức 40.000 gia đình. Vùng
đất nay là tỉnh Bình Dương thưở ấy thuộc Tổng Bình An,
dinh Trấn Biên, vốn nhiều rừng rú và thú
dữ, dân đến đây lập nghiệp chắc là không có
bao nhiêu.
Tổ tiên của những người khai hoang lập ấp trên
đất Bình Dương, lúc ấy còn gọi chung là ngừơi
Gia Định, vốn chủ yếu là dân từ các tỉnh Quảng Bình,
Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, thường
gọi tắt là dân Nam Ngãi Bình Phú. Sách
Vũ Biên Tạp Lục chép : “ Họ Nguyễn lấy được đất đai ấy rồi chiêu
mộ những lưu dân ở các phủ Điện Bàn, Quảng Nam, Quảng
Ngãi di cư đến khai khẩn, lập ra đất Trấn Biên ăn thông
đến Giồng Ông To,á phía Tây đến vùng Thủ
Dầu Một Lái Thiêu.”
( trích lại từ Việt Sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang)
Rời bỏ quê hương để trôi giạt đến những vùng
đất xa xôi “ ma thiêng nước độc”, chắc phải là dân
lính tráng hoặc những người cùng khổ, hay những kẻ tội
nhân lánh sự truy bắt của triều đình tìm chốn
ẩn thân. Về sau mới có thêm ít người giàu
có do tham mối lợi lớn mà mạo hiểm đến bỏ tiền của tạo nên
cơ ngơi bạt ngàn ở đây.
Vũ Biên Tạp Lục viết :
“ Lấy được đất ấy (Gia Định ), rồi chiêu mộ những
dân có vật lực ở các phủ Điện bàn, Quảng Nghiã,
Qui Nhơn xứ Quảng Nam, di cư đến, chặt cây, khai phá, trở thành
bằng phẳng, đất nước mầu mỡ, cho họ chiếm lấy, lập vườn trồng cau, làm
nhà ở.”
Sơn Nam trong “Đồng bằng sông Cửu Long” viết :
“ Người Việt đến, qua nhiều đợt, chạy đói khi
mất mùa… Đời Minh Mạng tù nhơn khắp nơi đến, người mang tội
nặng co ùthể bị xiềng chân ngay trong lúc phục dịch bọn
quan lại, vợ con có thể đi theo.Ngoài số thường phạm còn
người bị xử oan ức vì không đủ tiền lo hối lộ, những tội phạm
chính trị bị đày cùng gia đình, nhứt là
sau vụ khởi binh của Lê Văn Khôi. Trước đó, người ủng
hộ Tây Sơn đã bị truy nã tận gốc”.
Trong khoảng thời gian dài từ sau đợt định cư chính
thức kể trên, chắc hẳn có nhiều đợt định cư lẻ tẻ của các
lưu dân từ các tỉnh miền ngoài. Chẳng hạn vào
khoảng trước năm 1845 các tín đồ Thiên Chúa Giáo
tại miền Bắc vì bị ngược đãi đã trốn vào sinh
sống ở Lái Thiêu, lập nên làng Thiên Chúa
Giáo Hưng Định. Nhà Văn Sơn Nam viết :
“Lái Thiêu và Búng còn
là nơi cư trú an toàn của người theo đạo Thiên
Chúa, gốc từ miền Trung, hoặc từ Sài Gòn, lúc
đầu thi hành chánh sách kỳ thị. Ban sơ giáo dân
tụ ở Cây Me”.( Sơn Nam )
Trong hồi ký của Grammont, quyển “Onze mois desous-pre’fecture
on Bassecochinchine” Paris 1863, đã có các chi tiết
như sau : “ Năm 1845, giáo sĩ Le fevre trở lại Sài Gòn
và đến ở tại Lái Thiêu (…). Làng Thiên Chúa-giáo
Hưng Định từng bị thiêu hủy vào năm 1861( …)”
Trong quyển “ Nhà thờ Lái Thiêu” (
năm 1994, nhân kỷ niệm 100 năm xây dựng) viết : “ Theo quyển
“ Lịch sử Truyền Giáo ở Đàng Trong “ của Launay xuất bản năm
1924 tại Paris thì từ năm 1747 Lái Thiêu đã nằm
trong danh sách 11 họ đạo của vùng Trấn Biên, lúc
ấy Lái Thiêu đã có 400 giáo dân đứng
vào hàng thứ ba của Địa phận Đàng Trong.Từ sự kiện nầy,
chúng ta xác định họLái Thiêu đã được thành
lập từ nhiều chục năm trước 1747”.
Đến thời Pháp đem quân qua xâm chiếm
3 tỉnh miền Đông (1861), huyện Bình An có 9 tổng, 89
xã, với một số dân vào khoảng 100.000 người. Huyện Bình
An lúc này bao gồm một diện tích rất rộng, gồm cả huyện
Thủ Đức và phần lớn đất đai thuộc hai tỉnh Bình Dương,
Bình Phước ngày nay.
Đến năm 1912, khi người Pháp lập nên các
đồn điền cao su ở Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Bến Củi, Lộc Ninh, Hớn
Quảng…họ đã thu hút thêm nhiều lao động từ miền Bắc vào
đây. Đến năm 1954, với đợt định cư thứ ba của đồng bào miền
Bắc tại Thủ Chánh, Rạch Bắp, Hớn Quản…thì người miền Bắc đã
khá đông.
Sau hiệp định Geneve 1954, BD còn tiếp nhận thêm
một số tín đồ Công Giáo di cư từ tỉnh Phước Tuy đến tại
Văn Hữu ( Chơn Thành ) và sau định cư tại làng Vinh
Sơn thuộc quận Châu Thành, nay là Thủ Dầu Một…
Khỏang những thập niên đầu thế kỷ hình
thành một xóm của người Huế ở khu vực gần mộ Hiệp Trấn, đối
diện trường Hùng Vương gọi là xóm Huế, còn gọi
vùng nghĩa trang Đất Thánh, đa số dân nghèo, làm
nghề bán thuốc dạo gia truyền hoặc nghề mộc, thủ công. Không
ai buôn bán nên không phổ biến được những đặc sản
địa phương. Không biết được họ định cư ở đây từ bao giờ, lý
do gì.
Ngoài số người Việt từ các tỉnh miền ngoài
đến đây khai hoang như đã kể trên, rất đáng kể
đến bộ phận người Hoa, thường được gọi một cách thân thiện là
“các chú ba Tàu”.
Đầu tiên là nhóm bộ hạ, thân thích của Trần
Thựơng Xuyên, di thần của nhà Minh, do lánh nạn Thanh
triều được chúa Nguyễn thời ấy thuận cho vào đất Trấn Biên
lập nghiệp. Theo sử gia Tạ Chí Đại Trường, đây chỉ là
nhóm giặc biển qua đây tìm chốn dung thân, bởi
nhà Minh bị diệt đã lâu trước thời điểm họ đến đây,
những sự kiện biến loạn về sau ở vùng Mỹ Tho càng củng cố thêm
cho lập luận này.
Cuối thế kỷ 19, một số người Hoa ở Cù Lao Phố xuôi
theo sông Đồng Nai về định cư dọc kênh Tàu Hủ và
lập nên Chợ Lớn. Ta không biết có ai trong số họ trôi
giạt về vùng tổng Bình An vào hồi đó hay không,
nhưng chính sự có mặt của họ đã là nhân
tố quan trọng thu hút ngày càng nhiều người Trung Hoa
đến miền Nam, trong đó có huyện Bình An về sau này.
“Riêng trong huyện Bình An cũ (vùngThủ
Dầu Một, không kể Tân Uyên ) đời Tự Đức ghi 2 bang người
Hoa. Sự có mặt của họ đáng chú ý. Những người
này có lẽ làm chút ít hoa màu,
nghề chánh yếu là lò đường, cưa ván, đóng
ghe tải. Bấy giờ nghề gốm chưa thành hình.” ( SN )
Lúc ấy, cả địa hạt có 47.825 người, trong
đó người Hoa chỉ có 119 người. Đến khoảng đầu thế kỷ 19, họ
bắt đầu phát hiện ra những ưu điểm về đất đai và địa thế rất
thích hợp cho việc lập lò gốm ở địa phương nên về đây
ngày càng đông. Đến năm 1931, tổng số người Hoa là
6.420, có tăng giảm đôi chút trong những năm sau do hoàn
cảnh chính trị xã hội khi ấy có nhiều biến động.
Đến tháng 04 năm 1974, cả tỉnh Bình
Dương có 260.786 người, định cư rải rác trên một khu
vực ước tính chưa đầy 2000 km2, trong đó người Việt gốc Hoa
có 17.977 người, chiếm 6.8% dân số. Phần lớn sinh sống ở hai
quận Châu Thành ( 10.154 người ) và Lái Thiêu
( 6.741 người).
Trên đây không phải là những
con số chính xác tuyệt đối do tỉnh này thường có
những thay đổi về địa giới, nhưng cũng giúp ta hình dung phần
nào mật độ dân cư ngày xưa so với thời điểm hiện tại.
Như vậy ta nhận thấy rằng thành phần tạo nên
cộng đồng dân cư Bình Dương không có khác
biệt chi lắm với các vùng khác ở Nam bộ. Tổ tiên
họ là những người từ các tỉnh miền Trung đến đây vì
nhiều lý do khác nhau, có người do bị tù đày,
có người muốn tìm nơi hẻo lánh để tránh sự truy
bắt của triều đình, có người tránh nạn kỳ thị tôn
giáo, có người vì quá nghèo đói,
hoặc hoàn cảnh khó khăn mới đành phải rời bỏ quê
hương mạo hiểm đi tìm đất sống ở chốn ma thiêng nước độc. Họ
đến từ những thời điểm khác nhau, kẻ trước người sau. Theo thời gian,
trong điều kiện và hoàn cảnh sinh sống mới, họ học tập, trao
đổi và giúp đở nhau để cùng tồn tại và phát
triển, dần dà hoà nhập để tạo nên những tính cách
riêng biệt của những người được gọi là người Bình Dương.
Sau 1975, dân số Bình Dương tăng nhanh dần,
đặc biệt kể từ khi chính quyền thực hiện chính sách
mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài thu bút rất nhiều nhân
lực để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đất đai và thời tiết hiền lành, lại dễ làm
ăn, nhờ vậy BD mau chóng thu hút dân cư từ mọi miền đến
đây làm ăn, sinh sống. Những yếu tố này khiến cộng đồng
dân cư của BD hiện nay rất đa dạng, nhiều tính cách.Với
dân số vào khoảng 800.000 ngừơi, cọâng thêm hơn
400.000 người lao động tạm cư (con số này hứa hẹn còn tăng
nhiều để có thể đáp ứng kịp sự phát triển rầm rộ các
khu công nghiệp hiện nay ).
Với sự đóng góp những đặc điểm văn hóa
từ những địa phương khác, cộng với tinh thần biết tôn quí
giá trị truyền thống mà đồng thời cũng dễ dung nhập cái
mới, tính chất con người Bình Dương hiện đại đang trên
qúa trình hình thành, chúng ta chưa thể
hình dung hay xác quyết được rồi nó sẽ ra sao.
Vì lý do đo, để biết những gì là
đặc trưng tạo nên tính chất của người Bình Dương, chúng
ta phải tạm chấp nhận mô tả con người Bình Dương từ năm 1975
trở về trước, thời điểm mà những dòng nhập cư khác nhau
chưa nhiều hoặc đã định cư trên cộng đồng này một
khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hoà nhập vào xã
hội của người Bình Dương, hình thành nên những
tính chất của BD nói chung.