NGƯỜI HOA Ở LÁI THIÊU
Lưu Thanh Bình
Huyết thống
Trước tiên xin tự giới thiệu ông ngoại tôi là người
Trung Quốc 100%, gốc Triều Châu, dân gian gọi nôm na là
người Tiều. Khi sang Việt Nam làm ăn có tiền thì về bển
lấy vợ rước qua Việt Nam sinh sống, bà sinh được hai người con trai
rồi bệnh mất, hai người con được gởi về Hoa Lục cho họ hàng chăm sóc.
Về sau ông mới cưới một người vợ Việt ( là bà ngoại tôi),
sinh ra ba người con gái trong đó có má tôi.
Như vậy má tôi và hai bà dì tôi
là người Việt gốc Hoa (50%), biết nói hai thứ tiếng. Hai bà
dì có chồng Tàu Chợ Lớn, đẻ con cho học trường Tàu
nên lớn lên họ chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu (75%)
nhiều hơn văn hoá Việt. Còn ba tôi là người Việt,
tổ tiên là lưu dân theo chúa Nguyễn vào
Nam lập nghiệp. Nên bọn tôi chỉ còn (25%) thôi,
kể như Tàu…chìm. Trong những bữa cơm gia đình bọn tôi
lên án và chửi sa sả Tạ Vinh ( gian thương thu gom gạo)
mà bà cũng không nói gì. Nhiều khi còn
nhại tiếng người Tiều “Chó cắn bù chét, bù chét
không chết; bù chét cắn chó chó chết”.
Chê người Tàu ở dơ mà quên rằng má tôi
rất sạch sẽ, nên chín chị em tôi mới được tươm tất trắng
đỏ ai cũng khen.
Mì & Hoành thánh
Còn nhớ thuở nhỏ khi tôi được má sai xách gà
mên ra chợ mua mì – hoành thánh về làm canh
ăn cơm thì tôi xung phong liền, để được đứng ngắm những bức
hình màu in chìm vào kiếng mà tôi
vừa sợ vừa thích. Xe mì có hình Quan Công
cởi ngựa Xích Thố sử dụng ngón đà đao làm rơi
đầu Nhan Lương,Văn Xũ hoặc Lữ Bố cưởi ngựa Xích Thố đại chiến tam anh
(Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi). Tôi cũng thích
đứng nhìn họ chế biến hoành thánh: bột mì cán
thật mỏng thành lớp áo bao ngoài, bên trong là
thịt bằm nhuyễn. Hai tay phối hợp nhanh thoăn thoắt, từng viên hoành
thánh vo viên lại rồi thảy vào nồi nước lèo bốc
khói. Nhớ lần đi làm gỗ ở cửa khẩu Hoa Lư ( Lộc Ninh) những
năm 80 thế kỷ trước, ghé quán dã chiến bên đường
ăn cho đỡ đói, chỉ một tô mì ăn liền, nước lèo
xương heo lỏng bỏng với vài cọng giá và hai ba lá
cải mà giá tới năm ngàn, làm tôi ngậm ngùi
quá. Đêm đó tôi nằm mơ thấy …ăn mì Lái
Thiêu, một tô mì chỉ ba vắt, nước lèo chan đầy tới
miệng tô, trên có mấy miếng tóp mỡ và con
tôm chiên lăn bột, còn thêm một tô xí
quách ninh nhừ. Ăn mì, hấp dẫn nhứt là đoạn chót,
khi hai tay bưng tô ngang mặt và chu mỏ húp từng ngụm
nước lèo, nuốt tới đâu nghe tê tái tới đó.
Dĩ nhiên ở nhà hàng thì không được rồi vì
trông bất lịch sự, nên chỉ húp từng muỗng nhè nhẹ
không được gây tiếng động, nhưng ở mấy tiệm mì Lái
Thiêu, ấy là sự thường. Có gì hảnh diện cho chủ
nhân bằng khách ăn cạn tàu ráo máng, chỉ
còn trơ cái đáy tô. Dứt điểm bằng cái khààà
nhẹ nhàng, đẩy tô ra, rút khăn giấy lau miệng và
vói tay tìm hủ tăm. Một ly trà nóng bốc khói
nữa là xong. Chỉ hiềm một điều là họ hay chan thêm một
muỗng nước mỡ nên nếu bạn nào kiêng dùng mỡ
thì phải dặn trước.
Ăn cơm chưa ?
Nói về thói quen của người Tàu thích ăn cháo,
ba tôi có lần giải thích rằng xưa kia bên Tàu,
được ăn cơm là cả một diễm phúc, chứ thường là ăn cháo.
Người ta lấp liếm là ăn cháo cho nhẹ bụng dễ ngũ, nhưng thực
ra do Triều Châu là đất núi, ít có đất canh
tác nên ăn cháo thành thói quen, bây
giờ dù giàu có người Tiều cũng thích ăn cháo
nhứt là ban tối. Tôi cũng thích ăn cháo, nhưng
là cháo trắng chứ không phải cháo Tiều. Những lúc
sau này, đi nhậu về tôi hay ghé hàng cháo
bà Chín gần tua 18, ăn một tô cháo trắng hột vịt
muối kèm củ cải mặn xắt nhỏ, dĩa nước tương ớt thật cay. Nghiêng
tô vét thìa cháo cuối cùng, hít
hà thiệt đã và nghe mồ hôi ra ướt đầm lưng áo.
Quán cũng có bán cháo đậu nhưng tôi không
khoái .
Ăn cơm, tiếng Quảng gọi là xực phàn, tiếng Tiều gọi là
chìa pừng, tiếng Quan thoại gọi là tsớ phán. Thời thơ
ấu, tôi có một kỹ niệm đặc biệt liên quan đến hai từ “ăn
cơm” này. Thuở ấy các lò chén lò lu đều
có một người chuyên trách tiên đoán thời
tiết, nhìn mây nghe gió gọi là ông “coi trời”.
Không biết tiếng Tàu gọi là gì. Đang giữa trưa
nắng mà ông nhìn trời, hô đem vô thì
đám đông thợ lò răm rắp tuân lệnh. Hoặc ông
nhìn kiến bò, chuồn chuồn bay mà tiên đoán
ngày mai mưa thì chắc chắn ngày mai mưa. Dĩ nhiên
xác suất đúng phải trên 90% là cái chắc
vì mỗi ông “coi trời” là một đài khí tượng
thủy văn sống, qua nhiều năm kinh nghiệm mới nhận được sự tin tưởng của chủ
lò. Tô chén được tạo hình xong, được đặt trên
những chiếc sào dài, phơi hàng hàng lớp lớp như
những đạo quân sắp ra trận. Một mẻ gốm đâu có ít
tiền, là công sức của bao người, đến giai đoạn này chỉ
gọi là bán thành phẩm thôi. Nếu đất ướt mà
gặp mưa là kể như …toi. Nên ông làm việc rất có
trách nhiệm không chút xao nhãng ( Mà dù
có lỡ xui xẻo thì cũng không đến nỗi hại nhân mạng
như vụ ngập lụt ở Phú Yên, Quảng Ngãi mới đây. Khi
tôi phàn nàn sao lại xả đập lúc đang mưa lớn và
triều cường thì vợ tôi lại bảo nếu không xả đập lỡ bể…đập
thì càng nguy hơn. À há, vậy xả đập là
đúng sao? Thực lòng tôi vẫn ấm ức làm sao ấy nhưng
thôi, đó là chuyện khác). Trở lại chuyện ông
“coi trời” của tôi. Tôi cũng chẳng biết ông ở lò
nào, chỉ biết hướng cụm lò Quảng Hoà Xương gần sân
banh. Ông thường mặc bộ đồ vải nâu hoặc xám, bước đi chậm
rãi, hai vai nhấp nhô và vui vẽ cười với đám con
nít. Khoảng năm giờ chiều là ông đi ngang nhà,
tôi đợi riết thành thói quen chỉ để hỏi lớn một câu
ông già ăn cơm chưa? Và được ông cười hềnh hệch
hỏi lại ăn cơm chưa. Gương mặt hiền từ phúc hậu, cặp chân mày
trắng và cái miệng cười móm mém chỉ còn
lại một chiếc răng. Ông đã đi vượt qua khỏi nhà mà
tôi còn nhìn theo mãi cho tới khi hình bóng
ông khuất sau ngã Năm. Nay chắc ông đã ra người
thiên cổ, nhớ về ông như nhớ lại một kỹ niệm đẹp thời thơ ấu,
một ông lão người Hoa hiền hậu dễ mến như thế có lẽ nào
không phải là một nhân tố tốt trong cộng đồng người Việt
chúng ta ?
Tiệm nước
Tiệm nước bán cà phê kho (cà phê bột đặt
trong chiếc vợt vải nhúng chìm vào ấm nước sôi
trên bếp), khi có khách gọi thì phổ ky chế cà
phê từ ấm ra ly xây chừng, đặt trên một chiếc dĩa nhỏ kèm
cái muỗng để khách tự múc đường. Lái mía
ngồi riêng, dân làm lò chén ngồi riêng,
đánh xe ngựa ngồi riêng, dân cá độ đá banh
ngồi riêng…và không phải người ta ghiền cà phê
mà còn vì ghiền chổ ngồi, ghiền không khí
ồn ào, ghiền bạn ngồi chung và ghiền nhất là được tha
hồ “tám” đủ chuyện trên trời dưới đất Không có
cảnh ngồi trầm ngâm bên khói thuốc, tai nghe văng vẵng
nhạc Trịnh hay Vũ Thành An, ánh mắt mơ màng nhìn
về cõi xa xăm. Vô tiệm nước mà không nói
thì chắc là ..bị đứt dây nói rồi. Mời bạn nghe
một tay nói phét trong tiệm nước “ Hôm qua tao đi Sài
Gòn bằng xe đạp. Bận về trời kéo mây chuyển đen thui.
Tao đạp xe hết tốc lực, về tới Lái Thiêu coi lại chỉ ướt bánh
sau, bánh trước không ướt!”. Riêng tôi hồi nhỏ khoái
được ba dắt ra tiệm nước, húp sữa nước sôi trong chiếc dĩa nhỏ
từ ly xây chừng đổ ra thổi cho mau nguội và được ăn bánh
nướng nhân đậu xanh, mặt trên bánh có in phẩm màu
đỏ ( dân gian gọi là bánh lột da). Nhân tiện nhắc
về cá độ đá banh, xin được giải thích thêm về thành
ngữ “ bắt cá hai tay”. Theo tôi cá đây không
phải là con cá, mà là cá độ. Thường những
tay chuyên nghiệp không bao giờ đặt hết tiền vào một cửa,
kiểu bỏ hết trứng vào một rổ. Thí dụ trận Manchester United
– Fulham. Bắt M.U là phải chấp từ một đến một trái rưởi. Và
quăng ngược lại kèo dưới Fulham một ít, đề phòng ngựa
về ngược. Nên không bao giờ họ trúng đậm và cũng
không bao giờ cháy túi.
Giàn nhạc Tiều
Giàn nhạcTiều (dân gian gọi là giàn Tiều)
có đủ bộ trống, phèn la, chập chỏa, kèn, ống tiêu
và ống sáo (ống tiêu thổi dọc, còn ống sáo
thổi ngang). Bộ sậu gần hai chục người nhạc công mặc đồng phục, sắp
hai hàng bước đi rất trật tự. Riêng chiếc trống được khiêng
trong kiệu, mái che bằng vải đỏ có viền ngù kim tuyến.
Ông “Cũ”, tiếng Tiều chỉ ông cậu, là con nuôi của
ông ngoại tôi làm ông từ giữ nhà Tiều ( hội
quán). Ông hay đội nón nỉ, mặc bộ đồ xá xẩu tay
dài, hai ống quần rộng, thắt lưng giải rút. Mỗi lúc có
đám tang đi ngang nhà , chúng tôi luôn luôn
nghểnh cổ cố tìm cho được Cũ trong đoàn nhạc Tiều và
sung sướng được ông vỗ nhẹ đầu, tặng cho cái quạt giấy màu
tím. Nay nhân sự khiếm khuyết nhiều quá, lớp trẻ tấn
lên thay thế dần nhưng sao tôi thấy không bằng, nói
đúng hơn là chơi không có “hồn”. Nghe nhạc Tiều,
hay nhứt là khi dứt trống, nhạc trổi lên nghe réo rắt
làm sao. Vậy mà bây giờ người ta nỡ nào phụ bạc,
đem thay thế bằng mấy đội kèn tây. Tang chế hữu sự là
chuyện buồn, mà họ cứ phùng mang trợn mắt thổi mấy bài
“Hạ vàng biển xanh”, “ Em ơi có bao nhiêu”, “ Xóm
đêm”…Xin mách nhỏ, mấy tay đang thổi kèn sợ nhứt là…trái
chanh, bạn nào không tin cứ thử cắt đôi quả chanh, thè
lưởi liếm trước mặt họ là biết liền. Đố các bạn ham đọc truyện
Tàu : Trương Lương trong trận Cai Hạ thổi ống sáo hay ống tiêu
?
Bánh đúc
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng
(Ca dao)
Chị người Hoa nước da trắng bóc. Bánh đúc bột gạo màu
trắng tinh xắt hình thoi, gói lại bằng lá chuối kèm
một cái muỗng bằng sống lá giống như gói bắp. Chị ngồi
trước tiệm thuốc Bắc thầy Năm Nương, với một chồng bánh đựng trong
khuôn nhôm, mặt trên bánh rắc tiêu bột, cải
bắc thảo và tôm khô vụn. Tôi là một khách
quen, mỗi sáng hay đứng trước chị với năm cắc trong tay, luôn
được chị chào đón bằng một nụ cười. Một ngày nọ tôi
tìm không thấy chị, đứng ngơ ngác một hồi thì các
bà ngồi bán gần đó thấy tội thằng bé quá
mới nói chị đi lấy chồng rồi. Tôi buồn và giận chị quá,
sao lại đi lấy chồng làm chi, chuyện 50 năm rồi mà vẫn còn
buồn, dù ăn bánh đúc ở đâu cũng không bao
giờ ngon bằng. Mới hay tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, nhiều kỹ
niệm in sâu đậm không bao giờ quên được. Bây giờ
bánh đúc bột gạo ít thấy bán, chợ Lái
Thiêu chỉ còn một nơi bán bánh đúc ở trước
nhà bà Tám Ngắn (má anh Quí võ
sư) nhưng là bánh đúc nước tro và bánh
đúc khoai môn. Hoặc ở chợ Búng bây giờ cũng có
chị bán bánh đúc ngồi trước chợ, chỉ bán từ 2
giờ đến 6 giờ chiều. Có lúc tôi thèm quá,
lấy xe chạy lên chợ Búng mua hai ngàn, (tiền xăng nhiều
hơn tiền mua bánh đúc) nhưng chị không rắc cải bắc thảo,
tôm khô vụn mà rắc nấm mèo đen thui ; và
bột gạo cho nước hơi nhiều nên không được đặc lắm. Còn
ở Lái Thiêu thì có xe bánh đúc chiên
hột vịt của ông người Tàu, kế tiệm cà phê Chiến
Mập đã hai mươi năm nay. Khi ăn rắc thêm tiêu và
xịt vài giọt giấm đỏ. Vật đổi sao dời, chợ lên phố lên
lầu nhưng ông ngày ngày vẫn đứng đó, với cái
xẻng và chảo gang lên nước bóng đen thui. Không
biết sau này ông có con cháu nối nghiệp không
?
Nghệ thuật kinh doanh
Người Hoa trong kinh doanh có một đức tính rất quý.
Đó là thái độ tôn trọng khách hàng,
không phân biệt đối xử dù khách hàng mua
một vật giá trị lớn hay vật rẻ tiền. Ngay khi khách bước vào
tiệm là đã được quan tâm chào hỏi, chứ không
lỏ mắt nhìn như mấy cô nàng trong cửa hàng mậu
dịch. Trước kia ở chợ Lái Thiêu có một tiệm tạp phẩm mà
chủ nhân là người Hoa, chỉ là một tiệm nhỏ nhưng rất
đắt hàng. Một phần nhờ thái độ bán hàng vui vẻ
, một phần nhờ giá cả phải chăng. Đang ăn cơm mà có khách
ông cũng lẹ làng bỏ đũa ra bán dù khách
hàng là một cậu bé như tôi: chỉ cần mua một cây
thước, một cây viết chì, một tờ giấy chậm, một ngòi viết
lá tre hay một cục gôm. Và ân cần vui vẽ chứ không
quát nạt cục cằn vì bị lỡ bữa. Đó là ông
chủ bazar Thiên Xương, thân phụ của bạn Liêu Bửu Khương.
Ở vào hoàn cảnh đó, nhiều người chỉ liếc mắt nhìn
ra và phán : hết rồi hoặc không có,và thản
nhiên ngồi ăn tiếp! Cũng một người Hoa giải thích như sau: người
ta mua vật mình cần nhưng cũng để ý xem những vật…chưa cần.
Và khi cần, người ta sẽ tìm tới nơi mà họ thích.
Bữa nay bán được một đồng , hôm khác sẽ bán được
trăm đồng!. Chân lý thật là đơn giản.
Hoàng Sa - Trường Sa
Nghĩ về người Hoa, trong ý nghĩ của tôi chia làm hai
loại, một dân dã hoà đồng cùng cam cộng khổ với
dân Việt qua bao thăng trầm lịch sử, và một của tư tưởng Đại
Hán đã ăn sâu vào máu thịt như một phần
dân tộc tính của người Trung Quốc. Nội cái danh xưng “Trung
Quốc” cũng đủ biết rồi. Thực ra Hoàng Sa chỉ mới là phần lãnh
thổ nằm dưới quyền cai quản của Trung Quốc sau cuộc chiến năm 1974, nếu so
với lịch sử Đàng Trong của các chúa Nguyễn đã
quản lý – khai thác Hoàng Sa từ thế kỷ thứ 17 thì
thật là khập khiểng khi đem ra so sánh. Trường Sa thì
lại còn mới hơn nữa, chỉ từ 1988. So với độ dài lịch sử hàng
ngàn năm thì 20 năm chỉ là một cái chớp mắt.
Qua vụ tranh chấp này thì người ta thấy Liên Hiệp Quốc
nhiều khi chỉ là một tổ chức hàn lâm không
có thực quyền và bất lực, và dù thế giới văn
minh đã bước qua thế kỷ 21 nhưng có lúc có
nơi sức mạnh vẫn thể hiện cái quyền áp đặt của nó bất
chấp các quy tắc, quy ước về đạo lý. Ngay cả cách giải
quyết vùng chồng lấn giữa các hải phận, nếu có thiện
chí ngồi lại thương lượng thì tôi tin cũng có thể
có giải pháp thỏa đáng cho cả hai (hoặc ba) bên.
Vũ lực chỉ là biện pháp tạm thời không căn cơ, tạo ra
những hệ lụy lâu dài có hại hơn là có lợi.
Biển Đông giờ như tấm chăn nhiều người cùng giành đắp,
kéo cho ấm người này thì hở lạnh người kia.
Tôi đọc báo, cứ mỗi lần thấy Trung Quốc củng cố pháp
lý cho Hoàng Sa Trường Sa là lòng quặn thắt, lo
cho con cháu sau này chồng chất khó khăn để thu hồi chủ
quyền đất đai tổ tiên. Nhìn ngược lại lịch sử không biết
chúng có thông cảm hay oán trách cha ông
chúng không ? Nhớ lại thông lệ quốc tế, khi hải hành
qua vùng nước của quốc gia nào thì tàu bè
giương lên lá cờ nước của quốc gia đó, như một nghi thức
ngoại giao. Trên bản đồ hàng hải quốc tế và dự báo
thời tiết khu vực biển Đông trước kia, luôn ghi chú vùng
trời, vùng biển là của Việt Nam; cũng như không bao giờ
thấy tàu bè quốc tế kéo cờ Trung Quốc cả. Như thế cũng
thừa hiểu rồi.
Danh nhân văn hoá:
Sách văn học nước ngoài, tôi mê nhất hai quyển,
trong đó một là Sử Ký của Tư Mã Thiên và
quyển kia là Bố Già của Mario Puzzo. Đọc hai truyện trên,
tôi thấy gần gụi cảm thông với Hạng Võ hơn Lưu Bang, gần
Sonny hơn Michael. Biết bao lần đọc đến đoạn mô tả cái
chết của Hạng Võ và Sonny, lần nào tôi cũng thử
đặt mình vào hoàn cảnh của họ xem có thể có
cách xử lý khác không, kết quả là tôi
…hoàn toàn chọn cách xử lý y như vậy. Dĩ nhiên
họ không phải là danh nhân văn hoá nên không
được nhắc đến ở đây.
Mạc Thiên Tích
Trước tiên xin kể về Mạc Cửu người có công khai phá
đất Hà Tiên (Phương Thành) hồi cuối thế kỷ 17. Ông
gốc người Lôi Châu Quảng Đông, năm 1671 rời quê hương
xuôi Nam theo đường biển, ghé nhiều nơi như Philippine, Indonesia
trước khi dừng chân tại Chân Lạp. Sau khi được vua Miên
phong chức Ốc Nha (Oknha)**, ông đến khai khẩn vùng Hà
Tiên biến nơi đây thành chốn đô hội sầm uất. Thời
kỳ này Chân Lạp đang suy yếu nên bỏ mặc cho quân
Xiêm cướp phá Hà Tiên. Năm 1708 Mạc Cửu theo về
Chúa Nguyễn, được phong Tổng Binh Hà Tiên trấn. Từ đó
đất này thuộc nước Việt Nam.Năm 1718 quân Xiêm cướp phá
Hà Tiên lần thứ nhì. Trong cuộc chạy loạn này,
Mạc phu nhân hạ sanh Mạc Thiên Tích (còn gọi Mạc
Thiên Tứ).Năm 1735 Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích thay cha
làm Tổng Binh Đại Đô Đốc.
Nếu gọi Mạc Cửu là người có công khai phá thì
Mạc Thiên Tích chính là người đã biến Hà
Tiên và cả vùng đất xung quanh thành một nơi trù
phú, phồn vinh nhất vùng vịnh Xiêm La lúc bấy giờ.
Cả vùng đất Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Châu
Đốc, Sa Đéc, Vĩnh Long trở thành đất của nhà Nguyễn cũng
một phần nhờ công ngoại giao của Mạc Thiên Tích. Thời
kỳ này xuất hiện Tao Ðàn Chiêu Anh Các, do
Mạc Thiên Tích làm nguyên soái gồm nhiều
vị tao nhân mặc khách Hoa, Việt, xướng hoạ thơ văn mà
điển hình là tập Hà Tiên Thập Vịnh nổi tiếng của
Mạc Thiên Tích còn lưu truyền đến nay, hay Thụ Đức Hiên
Tứ Cảnh đã thất truyền, chỉ còn chín bài in trong
Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Minh Bột Di Ngư gồm một
số bài phú và thơ Đường luật do Trịnh Hoài Đức
sưu tầm cho khắc in. Chiêu Anh Các là điểm sáng
văn chương hiếm hoi của vùng đất mới khai phá, được nhiều văn
nhân thi sĩ đương thời như Nguyễn Cư Trinh, Lê Quý Đôn
ngưỡng mộ.
Cuộc cướp phá lần thứ ba của quân Xiêm năm 1771 đã
biến Hà Tiên thành chiến địa hoang tàn.Sau này
dù nhiều lần được cố gắng phục hồi nhưng không bao giờ Hà
Tiên trở lại thời hoàng kim như trước. Họ Mạc cũng rơi vào
thời kỳ suy sụp. Năm 1778, khi Định Vương bị Tây Sơn bắt giết, Mạc Thiên
Tích cùng gia quyến, thuộc hạ lánh sang Băng Cốc. Hai
năm sau, bị vua Xiêm ngờ vực làm nội ứng cho chúa Nguyễn
Ánh, Mạc Thiên Tích tự vận.
Họ Mạc là dòng dõi người Trung Quốc nhưng đã
có công lớn mở cõi, giúp dân Việt tiết kiệm
xương máu trong cuộc Nam tiến.Ngày 7 tháng 9 năm 2008
tại thị xã Hà Tiên đã diễn ra lễ khánh thành
tượng đài danh nhân Mạc Cửu và kỷ niệm 300 năm ngày
thành lập trấn Hà Tiên ( 1708 – 2008).Mộ phần gia tộc
họ Mạc trên núi Bình San ngay cạnh thị trấn nhìn
ra vịnh Thái Lan nay đã được trùng tu khang trang, ngày
ngày khói hương không dứt.
** Chức Ốc Nha không phải là một chức sắc chính quyền
như nhiều người lầm tưởng. Chức này phải mua bằng tiền, để khẳng định
sự giàu sang thế lực. Các Ốc Nha thường là người bỏ tiền
xây dựng các công trình phúc lợi công
cộng tại địa phương, bù lại họ được hưởng nhiều biệt đãi của
chính quyền . Ở Việt Nam xưa có chức Bá Hộ (cửu phẩm)
gần giống nhưng thế lực không bằng Ốc Nha. Hiện chức này cũng
còn tồn tại ở Campuchia.
Khuất Nguyên
Khuất Nguyên ( 340 – 278 TCN ) dòng dõi hoàng
tộc nước Sở, làm quan chức Tả Đô đời Sở Hoài Vương, học
rộng biết nhiều, có tài về văn chương và ứng đối nên
được giao phó nhiều việc quan trọng như soạn thảo luật lệ, pháp
lệnh, tiếp đón sứ thần các nước. Vì được nhà vua
tin yêu nên bị bọn gian thần xu nịnh ghen ghét tìm
cách nói xấu (có ông vua nào mà không
đa nghi!). Cuối cùng ông bị phế truất, chỉ làm một sứ
thần bôn ba các nước, không được gần vua nữa. Nước Sở
cũng đi dần vào thế suy vong : gian thần lộng hành, mất đất,
bại trận , kinh đô thất thủ, vua bị cầm tù, cuối cùng
chết trên đất người. Vua mới lên thay lại nghe lời gièm
pha, đày ông đi Giang Nam ( Hồ Nam ngày nay) vĩnh viễn
không cho về kinh đô. Năm 278 trước CN, nước Sở bị Tần quốc thôn
tính, Khuất Nguyên đau buồn ôm đá gieo mình
xuống sông Mịch La mà chết.
Mỗi lần đọc Sử Ký của Tư Mã Thiên, đặt sách xuống
lần nào tôi cũng bần thần nghĩ ngợi, thương cảm cho tấm lòng
trung quân ái quốc của Khuất Nguyên không gặp được
cảnh vua sáng tôi hiền. Giận thay bè lũ xu nịnh, thượng
đội hạ đạp thời nào cũng có. Kẻ có tài dùng
năng lực để tiến bước trên đường danh lợi, kẻ bất tài dùng
xảo ngôn lộng ngữ cũng tiến bước trên đường danh lợi. Thôi
thì ôm đá gieo mình xuống sông để bảo toàn
thanh danh, không để vật ô trọc làm hoen ố tấm thân
gột sạch bụi trần. Mùng 5 tháng 5, ăn chè xôi nước
(thực ra là trôi nước) lại nghĩ ngợi lan man đến Tam Lư Ðại
Phu, người đã khuất hơn hai ngàn năm trước. Nỗi oan khiên
nặng nghìn cân mang xuống tuyền đài, để lại cho đời tuyệt
tác “ Ly Tao” bất hủ.
Hai trăm năm sau khi ông mất, nhà làm sử đời Hán
là Tư Mã Thiên viết về ông như sau: “…Tôi
đọc Ly tao, Thiên vấn, Chiêu hồn, Ai sinh thương chí ông.
Tôi sang Trường Sa xem quãng sông Khuất Nguyên
trẫm mình không lần nào là không khóc.
Khi thấy Giả sinh viếng ông, tôi lấy làm lạ về chỗ tài
giỏi như Khuất Nguyên nếu đi sang chư hầu thì nước nào
mà chẳng dùng, tại sao lại làm khổ mình như thế?
Đến khi đọc bài phú Phục Điểu thấy nói đến việc coi sống
chết như nhau, coi thường việc đi hay ở, bấy giờ lòng luống bâng
khuâng tự biết là lầm!”.
Tôi ước có ngày được đặt chân trên bến Mịch
La, thả cho ông một vòng hoa cỏ đồng nội để tỏ tấc lòng
đồng cảm của kẻ hậu sinh. Cũng như tôi ước được đến Hoàng Hạc
Lâu nhìn sương khói lúc trời chiều, ước một lần
xem thủy triều lên ở cửa Tiền Đường, ước đến viếng mộ Nhạc Phi và
quất cho vợ chồng Tần Cối ( bằng đá) mấy roi cho hả giận. Tôi
ước…nhiều lắm nhưng tất cả ao ước chỉ là ao ước, mà quỹ thời
gian đời người là có hạn, không biết rồi có thoả
được tâm nguyện hay không.
Tiệm thuốc Bắc
Nhà quê thấy cứt dê, kêu ( bảo) thuốc tể!
(Đồng dao)
Quả là giống thuốc tể thật, cũng vón cục tròn tròn,
đen bóng và khô chứ không nhảo nhẹt như phân
trâu bò. Nhưng nhà quê ai mà không
biết, sao lại nói nhà quê thấy cứt dê nói
…thuốc tể ? Phải nói là dân chợ mới đúng. Thuốc
tể dạng “hoàn tán”, ngoài có bọc vỏ bằng sáp
chống ẩm mốc, là thứ mà tôi hãi hùng nhứt
(thời còn nhỏ), thường phải có cây roi mây bên
cạnh mới tiêu hoá được. Nhưng lại khoái moi cục xí
muội trong thang thuốc gói bằng giấy báo ra ăn trước. Đặc điểm
của các tiệm thuốc Bắc là có mùi đặc trưng riêng
của cây cỏ phơi khô, tiếng lụp cụp leng keng của thuyền tán
dao cầu. Các hộc đựng thuốc xếp đầy kín vách tường, trên
mặt quầy là một chiếc gối nhỏ kê tay bắt mạch, mấy chai thuốc
bóp trặc và rượu thuốc trị nhức mỏi, không nhức mỏi cũng
uống được. Chợ Lái Thiêu có nhiều tiệm thuốc Bắc, như
Vĩnh Sanh Đường (người ta quen gọi là tiệm con trâu, nhưng thực
ra đó là con tê giác), Tăng Thọ Đường (thân
phụ bạn Phạm Diên Hy khóa 12), Nhựt Nguyệt Tinh (gần cầu đúc),
Vạn Đức Đường (thầy Hoành, lúc sinh tiền thường được ba tôi
chọn làm người xông đất đầu năm cho nhà tôi), tiệm
thầy Năm Nương hiện do hai người con gái nối nghiệp, và nhất
là tiệm thuốc Bắc của Thầy Bảy Tri hầu như ai cũng biết. Đi xe đò,
cứ nói cho tôi xuống trạm thầy Bảy Tri là lơ xe biết
liền. Nay có tới hai tiệm thuốc Thầy Bảy Tri, đều là hai người
con của thầy (giống bánh bèo bì Mỹ Liên). Hồi
nhỏ khi bắt được con cà cuống là bọn tôi chạy ù
xuống chợ bán cho tiệm thuốc, vui lắm; giờ bọn trẻ chưa chắc biết
hình dạng nó ra sao.
Tiết Nguyên Đán – con cù
- Từ Hán Việt
Con lân ở Lái Thiêu và Thị Xã người lớn
trẻ con gọi là con cù, vì kiêng húy ông
Hội Đồng Lân, giờ mả ông hãy còn (xem bài
của Hoàng Anh). Xem cộ Bà , các bạn để ý quan
sát sẽ thấy luôn luôn đoàn lân được xếp đi
sau đoàn hẩu ; hoặc khi đi múa chúc lộc đầu xuân,
tình cờ gặp nhau là thường thường đoàn lân chào
trước và chủ động nhường đường. Là bởi vì con hẩu là
vật cưởi của Văn Thù Bồ Tát (giống như tài xế) trong
khi con lân chỉ là vật gác cổng (giống như bảo vệ) nên
con lân cấp thấp hơn là phải rồi (!).
Có lúc người ta phát động phong trào bài
Hoa, bài luôn cả ngôn ngữ có nguồn gốc Hán
Việt; gọi là giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhưng
ngôn ngữ nói thì có thể thay thế được chứ trong
ngôn ngữ viết mà thay thì nhiều khi nó gượng gạo
làm sao ấy. Một thí dụ, ngày nay kinh tế khá khấm,
mấy bà U50, U60 hay quan tâm “tút” lại vòng một
, vòng hai và vòng ba; tương ứng với nâng ngực,
hút mở bụng và may thẩm mỹ tầng sinh môn. Nếu bạn nào
không thích dùng từ Hán Việt xin hãy thử
thay thế bằng từ thuần Việt xem nào! Như vậy có nghĩa là
từ Hán Việt cũng là một vốn quý trong kho tàng
ngôn ngữ tiếng Việt chớ bộ.
Tục lệ ăn mừng năm mới theo lịch âm, cũng là do ảnh hưởng văn
hoá Trung Hoa từ hàng ngàn năm trước, chứ các
nước quanh ta như Thái Lan, Miến điện, Campuchia, Lào…ăn Tết
theo mùa vụ nông nghiệp, theo tiết trời mưa nắng ( lễ té
nước, lễ mừng lúa mới…) chứ không theo lịch phương Bắc như ta.
Nhất là ở miền Nam làm gì có mùa xuân
? Ba ngày Tết, xin các bạn một lần nghĩ về những người lính
đảo Trường Sa, những người đã hy sinh rất nhiều nơi đầu sóng
ngọn gió để chúng ta hưởng yên ấm bên gia đình.
Đất nước còn nghèo, chắc chắn họ phải chịu thiếu thốn nhiều
thứ để giữ vững mảnh đất tiền tiêu của Tổ quốc. Dù ở đâu,
tất cả chúng ta đều là con dân nước Việt, chung một giòng
máu từ thời Văn Lang truyền lại. Riêng tôi xin khẳng định
tôi là người Việt Nam, con cháu giòng giống Lạc
Hồng và Thăng Long là đất Tổ.
Lưu Thanh Bình
(01 – 2010)