(Giáo sư Nguyễn Nhật Duật đã mãn phần năm 2000, dưới đây là trích đoạn một phần bài viết của ông năm 196)

Kinh nghiệm về vực thẳm

NGUYỄN NHẬT DUẬT

Cuộc sống của chúng ta hàng ngày vẫn bị chi phối bởi quá nhiều yếu tố phức tạp, dằng co giữa bao nhiêu sức lôi cuốn mãnh liệt thường làm cho chúng ta lung túng ngỡ ngàng. Đó là một thực tại kinh nghiệm hiển nhiên, trong thời đại này hơn bao giờ hết, nó chứng tỏ rằng sự tồn tại của chúng ta trong thế gian có nhiều kích thuớc, bị nhiều mối tương quan thu hút, chứ không phải chỉ thu gọn vào một chiều hướng đơn độc, nhất định.

Ngay từ giữa thế kỷ thứ mười bảy, Pascal đã khám phá ra tính cách tương đối của thân phận con người trên bình diện siêu hình: bị đặt giữa hai thái cực là cái vô cùng lớn và cái vô cùng nhỏ, trên bình diện đạo đức là giữa thiên thần và súc vật. Khám phá này đủ để giúp chúng ta nghiệm ra rằng con người không phải là một bản thể đơn nhất và tự do luôn luôn hướng thượng như đa số các nhà triết học kinh viện đã tin tưởng. Đến thế kỷ chúng ta, Teilhard de Chardin đi xa và sâu hơn nữa trong cuộc khai phá về con người và tìm ra một sắc thái mới nơi chúng ta: đó là cái vô cùng phức tạp trong con người. Nhưng hai khám phá kẻ nay chưa phải là đã khơi hết được những gì tiềm ẩn ở bản chất của cái loài vật kỳ lạ này: loài vật có ý thức, sống trong không gian và thời gian, biết rung cảm và sáng tạo bằng hành động.

Con người rung cảm, sáng tạo và ý thức chính là một hiện tượng, hiện tượng đối với bản thân và đồng loại, nhưng trước hết cái toàn thể tâm linh – gồm những yếu tố: rung cảm, ý thức và hành động kết hợp lại -  làm hiển hiện những kích thước tinh thần căn bản của con người. Chính cái cơ cấu tinh thần này là nơi phát sinh ra những kinh nghiệm sâu xa nhất trong cuộc giao ứng giữa chúng ta và thực tế ở bên ngoài bản thân chúng ta. Đã hẳ cuộc sống của con người là một tập hợp những kinh nghiệm đủ loại, hỗn độn, được tiếp nhận không ngừng trong thời gian. Nhưng có lẽ kinh nghiệm quan trọng nhất phải là kinh nghiệm về ý nghĩa sâu thẳm của cuộc đời, về sự tồn tại hay về sự tiêu trầm của tính mệnh chúng ta trong thời gian và không gian.

Thứ kinh nghiệm độc nhất đã mặc khải cho con người rất nhiều khía cạnh đó, mặc khải đến cùng độ, ấy là kinh nghiệm về vực thẳm. Nhưng kinh nghiệm này không hiển nhiên dễ dàng trong đời sống hàng ngày, mà chỉ bộc lộ trong những khoảnh khắc đặc biệt có tính cách quyết định. Dù sao đi nữa nó cũng là một kinh nghiệm tinh thần đã được nhiều triết nhân và nghệ sĩ cảm thấy. Hai loại người này đã mô tả – trực tiếp hay gián tiếp – kinh nghiệm về vực thẳm qua các tác phẩm triết học và văn nghệ của họ, nên chúng ta có thể căn cứ vào đó mà nghiên cứu. Ngoài ra, có nhũng con người hành động và nhiều tu sĩ (các bậc thánh, hay nói chung là các nhà tôn giáo) cũng đã từng cảm thấy kinh nghiệm này, nhưng nhà tôn giáo thường giữ thái độ im lặng trước cảm thức quan trọng bậc nhất trong đời, họ chiêm ngưỡng thực tại tuyệt đối hoặc tìm cách vượt qua “cơn khủng hoảng” cũng như những con người hành động (bằng cách “giải quyết vấn đề” trên bình diện thực tiễn). Vì vậy, ở nay, người viết chỉ xét tới kinh nghiệm về vực thẳm đã được diễn tả bởi các triết gia và văn nghệ sĩ tiêu biểu mà thôi.

VỰC THẲM NHƯ MỘT THỰC TẠI NỘI TÂM

Khi sống bình thản theo cái đà sinh họat chung, chúng ta thường có thái độ dễ dãi với tất cả, nhất là với chính mình. Những lúc mọi công việc đều thành tựu, mọi dự tính đều được thực hiện theo ý muốn, con người ít thích tự vấn, không ưa hoăc quên hẳn cả việc quan sát bản thân. Theo dòng đời êm đềm thoải mái, con người luôn có xu hướng buông thả mình cho thỏa lòng ao ước những khi còn chờ đợi và hi vọng. Bỗng nhiên cả cơ nghiệp sụp đổ vì phá sản, và thêm vào đó, người thân yêu nhất đời mình bị chết trong một tai nạn ngẫu nhiên; bay giờ, chính vào cái giờ phút tan tành tất cả này, trong cơn thất bại ê chề này, ta mới chợt thấy đời mình trở thành trống rỗng, hoàn toàn vô vị, và ta tuyệt vọng, trong trạng thái tê điếng, bàng hòang, mê loạn. Đó là kinh nghiệm về vực thẳm được cảm thụ tới mức hoàn  toàn, thấm thía đế cùng cực.

Nhưng thật ra, không cần phải that bại đắng cay như vậy mới cảm thấy vực thẳm trong đời mình. Vào một giây phút hiếm hoi nào đó, rất hiếm hoi giữa lòng cuộc sống, sau những tháng năm mòn mỏi đợi chờ với niềm hi vọng chứa chan, chợt cảm thấy lòng mình xao xuyến mà không hiểu tại sao, không có lý do gì người yêu dấu xa lìa hẳn; vì ngày hẹn sắp tới rồi, thế mà kẻ đợi chờ bỗng lo âu không duyên cớ; đó chính là trạng thái đột hiện rất đặc biệt của kinh nghiệm về vực thẳm. Hoặc có thể sau nhiều ngày đắm đuối trong những cuộc vui say liên miên, bỗng dưng cảm thấy tuyệt vọng ngay giữa một bữa tiệc tưng bừng mà mình đã chờ đợi từ lâu và trong đó mình đang được chiều đãi như ý muốn.

Vài thí dụ trên đây chỉ được nêu ra để nhấn mạnh vào cách thế xuất hiện đặc biệt rất hiếm hoi của kinh nghiệm về vực thẳm. Kinh nghiệm này bộc lộ dưới một hình thức có vẻ ngẫu nhiên, vô cớ. Đặc tính của nó là không có đối tượng rõ rệt. Nó là một niềm xao xuyến, lo âu, nhưng không phải là xao xuyến lo âu về một cái gì nhất định hay cụ thể. Niềm xao xuyến này là một cảm thức hết sức phức tạp làm bộc lộ chân tướng của vực thẳm trong sự sống của con người. Cảm thức này không bị một đối tượng nào kích thích hay khêu gợi ra, mà nó xuất hiện truớc bản thân chúng ta, nảy sinh từ đáy tâm hồn chúng ta; vì nó là một thực tại nội tâm.

MÔ TẢ KINH NGHIỆM

Trong trạng thái đặc biệt này, chúng ta có thể nhận ra nhiều yếu tố phức tạp pha trộn vào nhau. Khi đó con người cảm thấy ngột ngạt, cân não căng thẳng, sinh ra choáng váng kinh hãi tuy không thấy rõ là mình sợ cái gì, do đó Pierre Janet bảo rằng “xao xuyến là một niềm lo sợ mãnh liệt, không đối tượng”. Đồng thời với đầu óc quay cuồng, toàn thể con người sống kinh nghiệm về vực thẳm lại như thoáng thấy một điều gì rất mơ hồ, nó đè nặng lên tâm thức mình, và chợt có cảm tưởng trống rỗng khủng khiếp. Freud cho rằng tất cả cái toàn thể tâm sinh lý này – đột ngột và ngắn ngủi – do nhiều động lực vô thức tập hợp thúc đẩy và gây ra xáo trộn trong hệ thần kinh bởi những dồn nén tích lũy và những sức lôi kéo xung đột nhau, tạo thành “khủng hoảng”. Qua “kinh nghiệm khủng hoảng” này, con người thoáng thấy toàn bộ đời mình cùng với vũ trụ bị cuốn phăng đi, biến mất hẳn; cái ấn tượng kinh hoàng này đặt con người vào trạng thái hoang mang, nên cái khoảnh khắc kinh nghiệm về vực thẳm là khoảnh khắc ngơ ngác, bần thần, hoảng, mê và tuyệt vọng nhất của con người; những tính chất mất hút, trống trải, thăm thẳm, mênh mông của ấn tượng kỳ quặc làm cho con người choáng váng chính là những tính chất hỗn loạn và huyền ảo của một thực tại đặc biệt mà triết học gọi là Hư Vô.

KINH NGHIỆM VỀ VỰC THẲM VÀ CHÂN TƯỚNG HƯ VÔ

Tự đáy lòng của nỗi hoang mang, lo lắng, vực thẳm hiện ra, bộc lộ dần dần chân tướng của hư vô trang nghiêm và trầm trọng. Tính cách trầm trọng của hư vô khiến con người nín thở, tê điếng và không nói được gì. Kinh nghiệm về vực thẳm là thứ kinh nghiệm khóa miệng chúng ta, làm cho những kẻ ồn ào nhất cũng phải ấp úng không thốt ra lời. Mọi hoạt động của con người đều bị chặn đứng vì sức mạnh vô cùng của hư vô sừng sững: chúng ta tê liệt, chúng ta bị bóp nghẹt, chúng ta bị phân tán hết nghị lực và ý thức cũng chạy trốn nên mới có cái cảm tưởng rỗng tuếch và nỗi chán chường đầy ắp dâng lên từ đáy tâm hồn. Đó chính là những hiệu quả trực tiếp của hấp lực toát ra tù vực thẳm, hình dáng cụ thể nhất mà hư vô chọn lấy để hiện diện giữa những khoảnh khắc vô cùng quan trọng của cuộc đời con người, và nó biểu thị ý nghĩa thăm thẳm, tối tăm, ý nghĩa vô cùng không đáy của sự hiện hữu trong thế gian. Hư vô hiện ra như một định mệnh không thể vãn hồi, không thể trốn tránh nổi. Nó trở thành mối đe dọa, một trở lực hầu như không thể vượt qua, nó lặng lẽ và uy nghi, chặn đứng cái đà tiến êm ru của cuộc đời chúng ta từ trước đến giờ. Nó làm cho chúng ta kinh ngạc và bối rối, không biết xoay trở làm sao khi tất cả tự do tinh thần của mình đã mất đi trong thoáng chốc. Bởi vì nó tượng trưng cho một thực tại tối hậu, nó chính là bóng dáng của sự chết: sự chết, hay hư vô, hay vực thẳm, trong kinh nghiệm bàng hoàng này khác với cái chết thông thường của mọi người, vì ở đây sự chết đứng sừng sững giữa lòng cuộc sống chứ không phải ở đầu đằng kia của sự tồn tại trong thế gian. Viễn ảnh hủy diệt toàn diện được cụ thể hóa dưới hình thức một hố sâu không đáy, hun hút và mênh mông, mãnh liệt, với sức lôi cuốn rất kỳ lạ, rất ma quái của nó: sức quyến rũ của vực thẳm, nó mời gọi con người lao xuống giữa lòng tăm tối của nó. Vì kinh nghi?m v?c th?m chính là một cách thế đam mê của tâm hồn bị định mệnh đưa đẩy đến bước quyết liệt: chênh vênh trên cái miệng đen ngòm đang mở ngoác ra và chờ đón con người. Bởi thế, Nietzsche đã nói: “Nếu anh nhìn vào vực thẳm, vực thẳm sẽ nhìn vào tâm hồn anh.” Lúc này là lúc chúng ta cô đơn hơn cả, không có ai nâng đỡ, không bám víu được vào đâu, một mình đảm lĩnh lấy định mệnh của đời mình, định mệnh khắc nghiệt đã cô lập chúng ta; chia cách chúng ta với thế giới bên ngoài, như Dostoievsky đã nhấn mạnh: con người hoàn toàn đơn độc trước cái chết, cái chết ở đây chắn ngang trưóc mặt cuộc sống của chúng ta, nó là một “bức tường” như Sartre ám chỉ qua nhan đề tập truyện “Le Mur”. Qua kinh nghiệm xao xuyến kinh hoàng này, con người khám phá ra bản chất bi đát của mình, vì lúc đối đầu với mối đe dọa trầm trọng nhất của cuộc đời, chúng ta mới đo lường nổi tàn thể tiềm năng sinh động nơi mình, mới hiểu được cái khả hữu của mình nó dồi dào đến chừng nào. Mà cũng chính cuọc gặp gỡ giữa chúng ta và bóng dáng sự chết qua kinh nghiệm hư vô ở đây đã giúp cho chúng ta lĩnh hội ý nghĩa toàn diện của cuộc đời: hiện hữu chính là xao xuyến trước cái chết. Kierkegaard cảm thấy cái tội tổ tông truyền là gai góc cắm vào xác thịt làm chúng ta tê điếng và lo âu; nhưng đi xa hơn nữa, Heidegger đã nắm được bản chất của con người qua niềm xao xuyến: chúng ta hiện hữu cho sự chết, vì sống để hướng về sự chết, tiến dần đến sự chết. Cũng trong giòng kinh nghiệm này, Kafka đã mô tả đời sống con người như một sự chờ đợi: chờ đợi cái chết, vì tồn tại chính là triển hạn giờ tuyên án tử hình, hiện hữu là bị xử tội (bằng pháp luật, bằng những ràng buộc xã hội và bằng những lần tự vấn lương tâm qua bao nhiêu thắc mắc, dày vò, hối hận); Kafka trình bày viễn quan của mình về sự sống qua tác phẩm “Le Procès” bằng nhân vật Joseph K. Như thế, kinh nghiệm cơ bản của con người đã gặm nhắm ý thức mình bằng niềm xác tín về cái chết của mình, về sự cùng tận tất nhiên của đời mình. Do đó, chính kinh nghiệm về vực thẳm là dấu hiệu để chúng ta nhận thấy tính chất hữu hạn của cuộc sống trong thế gian, để chúng ta nhìn rõ biên giới của hiện hữu. Trong viễn tượng này, thế giới hiện ra – trong kinh nghiệm về vực thẳm – như bộ mặt hư vô của cái tôi-hữu-thể nơi chúng ta. Hư vô chiếm đoạt không gian sinh tồn của con người như một “khoảng tay cụt” luôn luôn ám ảnh người cụt tay theo lối nói của Sartre. Bởi vậy, niềm xao xuyến mặc khải sự xâm nhập của hư vô trong đời sống, hư vô gắn liền với hiện hữu như khoảng tay cụt đối với phần cánh tay còn lại: tức là gắn liền dưới hình thức một ám ảnh không rời tâm thức và tư thân con người, chúng ta cảm thấy hư vô như người cụt tay vẫn thường cảm thấy (bằng ảo giác) khoảng tay cụt của mình. Điều có đó nghĩa rằng cuộc sống quá gần gũi với sự chết thấp thoáng hàng ngày: chúng ta quen thuộc với sự hủy diệt đến nỗi nó đến ăn ngủ với sự tồn tại của chúng ta, nên có thể nói rằng hư vô là thành tố thiết yếu giữa cơ cấu của hiện hữu; do đó, hư vô trở nên một kích thước không thể chối cãi của sự sống.

Nhưng hư vô cũng có kích thước riêng của nó. Và nó có điều kiện tồn tại riêng cho nó. Vậy thì điều kiện khả hữu cho hư vô xuất hiện là gì? Bởi hư vô là hủy diệt, và hủy diệt là hủy diệt hiện hữu, nên chúng ta có thể hiểu hư vô bằng hiện hữu. Mọi vật và nhất là cn người đều hiện hữu trong không gian, đồng thời hiện hữu lại gắn liền với thời gian. Chúng ta cụ thể hóa thời gian dưới hình thức: sống, chúng ta chỉ sống với thời gian mà chúng ta trải qua, vì đi ra ngoài thời gian là sự chết và vĩnh cửu. Chúng ta khoác lấy thời gian lên thân xác và ý thức mình, chúng ta đảm lĩnh và cảm thụ thời gian bằng kinh nghiệm sống. Thời gian nuôi dưỡng con người, nhưng cũng chính thời gian gặm nhấm đời sống của chúng ta, thờ gian xóa nhòa và hủy diệt. Nó hàn gắn những khổ đau quá khứ hay nó tạo ra những chán chường mới, nó gây nên những tình cảm sống động hoặc nó kết thúc một chuỗi những vui buồn hỗn độn, nó làm nảy sinh sự sống của một hài nhi mà nó cũng tiêu hủy cuộc đời của một ông già. Thời gian hiện diện bằng chính sự tồn vong, sống với chết chỉ là những thể hiện của nó, những bộ mặt cụ thể của nó. Từ những nhận xét này, người ta mới nghiệm ra rằng chỗ đứng của sự hủy diệt hay hình thái đích thực của hư vô chính là thời gian. Chỉ có đau khổ trong thời gian mòn mỏi lạnh lùng, chỉ có thất bại trong biến chuyển, luân lưu, trong thăng trầm quay quắt. Giữa lòng vĩnh cửu, con người tràn ngập niềm hân hoan, dào dạt cảm xúc đê mê, ngụp lặn trong trạng thái bình an của tâm hồn yên nghỉ. Do đó, ở trong cái vũ trụ đầy ắp của cảm thức về vĩnh cửu, không thể có mặt hư vô, vì thời gian đã dừng lại và khổ đau cũng biến mất, cuộc sinh hóa như ngưng đọng. Bởi thế, với vĩnh cửu, chúng ta có hiện hữu toàn diện và bất biến trong khi hư vô chỉ lộ diện dưới hình thức cụ thể của một cuộc băng hoại tiệm tiến.

Vậy thì thái độ của con người trước hư vô, trước vực thẳm hun hút đó, là thái độ gì?

 

(còn tiếp)

N.N.D
(1966)