Tết ở nông thôn
qua truyện ngắn Bình Nguyên Lộc
Huỳnh Hoàng Anh
Đặc trưng của nếp sống thời công nghiệp hiện đại, đặc biệt ở
vùng đô thị là sự ồn ào sôi động, là
những cuộc vui suốt sáng, những trận cười thâu đêm. Cuộc
vui kéo dài từ ngày này qua ngày khác,
tháng này qua tháng nọ, thế nên thêm một
cái Tết nữa với người thời nay có vẻ như là hơi dư.
Chợ Tết thì vẫn đông đúc, tấp nập, thế nhưng không
khí Tết cũng chỉ có thế. Hỏi Tết, nhiều người than rằng chán,
một số khác thậm chí còn than phiền rằng ai đã
đặt bày ra cái Tết để họ phải mua sắm tốn tiền, lại dọn
dẹp nhà cửa mệt ứ hơi mà chẳng biết để làm chi. Ngày
Tết nhiều gia đình đi du lịch xa bỏ nhà cửa bếp núc
lạnh teo, không chút khói hương.
Đọc lại các truyện ngắn của nhà văn Bình Nguyên
Lộc, ta ngỡ ngàng nhận thấy rằng cuộc sống đổi thay sao mà
nhanh quá. Chỉ cách nay mới chừng nửa thế kỷ mà thế
hệ cha mẹ ông bà của chúng ta ăn Tết khác chúng
ta bây giờ nhiều biết bao nhiêu. Tết với họ bao giờ cũng là
những ngày đặc biệt, thiêng liêng và không
kể tuổi tác, ai cũng mong chờ Tết:
_” Ông đợi Tết như trẻ
con đợi ngày ấy để được mặc áo mới, ăn bánh ngon, đốt
pháo và khỏi làm gì hết lại có tiền lì
xì đầy túi”
( Gốc mai già)
“ Về quê, tức là ngược dòng thời gian để lên nguồn
đời mình. Thú biết bao! Về quê vào ngày
giỗ tiên thường, ngày Tết lại càng vui gấp bội.”
( Tre phải tàn)
( Hai người xuống tinh thần)
Hai vợ chồng già trong câu chuyện “Hai người mất tinh thần”
đều thẫn người ra khi nghe chút gió lạnh tàn đông,
nhìn lá tre rơi xao xác trong rừng vắng và tiếng
con tu hú xa xa gọi bầy: “Từ hai mươi năm nay, họ nhớ Tết ghê
hồn,vì họ không được ăn Tết lần nào hết”. Người nông
dân ngày xưa chờ đợi Tết da diết nồng nàn quá,
thế nên họ đón chào Tết bằng tất cả tâm hồn tươi
vui và trân trọng:
“Ăn Tết, không chỉ có bàn thờ hay hoa quả, nhang
đèn, nhà bếp hay thức ăn là đủ. Tết là không
khí, không khí ấy gồm nhiều thứ lắm không kể cho
xiết được, thứ thường, mà cả đến thứ thiêng liêng nữa.
Ăn Tết trước hết là chuẩn bị. Mà phải chuẩn bị mua sắm
trong tinh thần tranh đua với láng giềng cà, mới là
thú vị. Chẳng hạn năm nay họ gói mười đòn bánh
tét bực trung, ta gói hai mươi đòn bánh tét
thứ bự là ta sướng vô cùng.
Kế đến, ăn Tết là dẩy mả. Đạo thờ cúng ông bà
gồm tưởng nhớ, thờ cúng và dảy mả ngày Thanh Minh và
ngày Tết, ông Sáu đã theo cha dảy mả từ thưở ông
lên bảy và cứ như vậy cho đến năm ông hăm tám,
cha ông qua đời, ông đi dẩy một mình tới ngày chạy
giặt là năm ông băm lăm.”
( Hai người xuống tinh thần)
Nền văn minh Tây phương là nền văn minh của tuổi trẻ và
tương lai, ở đó những người già sống cô đơn, lạc lõng
bên lề cuộc sống mà mơ tưởng cảnh Thiên Đường. Người
còn sống cũng có lệ thỉnh thoảng đến cắm hoa trên mộ
của ngừơi thân đã chết. Nhưng họ không có tập tục
chôn cất gần nhà đất của họ để tạo cảm giác gần gũi,
cũng không bao giờ vì luyến tiếc mồ mã mà không
thể ra đi tìm cơ hội làm ăn tốt hơn. Người nông dân
Nam Bộ sống với kỹ niệm và quá khứ, thế nên suốt bao
đời họ chấp nhận nghèo khổ ở nơi chốn cũ mà không thể
ra đi . Mỗi khi phải rời bỏ làng xóm, trong hành trang
đầy niềm thương nỗi nhớ của kẻ lên đường luôn có hình
ảnh của mồ mã ông bà.
Yêu nước, vì yêu làng xóm, vì trong
làng xóm có ngôi nhà, có đất đai
của họ, và trên đất đai ấy có cả mồ mã ông
bà tổ tiên. Tình yêu tổ quốc thắm thiết đã
gắn liền với lòng lưu luyến những nắm xương tàn của người đã
chết. Có dân tộc nào trên thế giới yêu nước
như người nông dân Nam Bộ đã yêu và
chịu đựng hay không?
Họ tin thuyết luân hồi, rằng người chết sẽ hoá kiếp vào
một đời sống khác, nhưng cũng tin những người thân đã
khuất núi sẽ luôn ở bên cạnh để cứu giúp che chở
họ khi hoạn nạn. Ngày giỗ, ngày tết, dù mất bao nhiêu
năm thì ông bà vẫn trở về mà sum họp vui vẻ cùng
con cháu. Thế nên chuyện dãy mã và cúng
kiến là một nghĩa vụ không được bê trễ hay thất kính,
để người dương thế kẻ âm gian mãi còn mối quan hệ với
nhau.
_”Ông đã gần-gũi-tổ tiên ông mỗi năm hai lần,
nghe thương mến người dưới các nấm đất ở đầu làng lắm, mà
đã hai mươi năm rồi, ông không được dẩy mả nưã.”
( Hai người xuống tinh thần)
Thời chiến tranh loạn lạc, người ở nông thôn phải chạy tản cư
xiêu tán khắp nơi, thê’nhưng dù nguy hiểm và
gian khó đến đâu, cứ mỗi cuối năm họ vẫn ráng lặn lội
quay về:
_”Tuy nhiên, năm nào ông cụ cũng hồi hương ba chuyến:
vào dịp cúng kỳ yên ngay sau mùa gặt, vào
dịp dảy mã ngày hăm ba tháng chạp và vào
dịp Thanh Minh.”
( Đám đất thầy pháp)
Tết do vậy không phải chỉ là dịp để được ăn ngon và mặc
áo đẹp, mà hơn hết đó là những ngày đoàn
viên, giưã ông bà tổ tiên đã khuất,
và với cháu con lưu lạc bốn phương trở về:
_”Rốt cuộc, ăn Tết là tề tựu đông đủ dòng họ,bà
con, cháu chắt, dưới một mái tranh cũng tốt, miễn là
có sự tề tựu ấy, nó tạo ấm cúng không thể tưởng
tượng được.
Ông Sáu coi nhà thờ, các em của ông, có
ra riêng, Tết cũng phải đưa con cháu họ về nhà thờ”
( Hai người xuống tinh thần)
Với những người viễn xứ, nỗi buồn tha hương ray rức nhất chính là
vào mỗi độ xuân về:
_” Không thể nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm
khát quê hương của một kẻ lìa xứ vĩnh viễn không
hy vọng trở về như em. Thèm như thèm một món cá
nướng chấm mắm nêm. Thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông
chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm
cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết đi được
là vào lúc gần Tết, tức là vào khoảng
đầu năm dương lịch. Nhớ Tết như nhớ nhà, nhớ nước, bởi vì Tết
là sum họp gia đình.”
Ngoài việc lo dảy mã, sưả sang nhà cửa, bàn thờ
…kế đó là khâu chuẩn bị bánh mứt, nhất là
nồi bánh tét nấu đêm ba mươi đợi giao thưà thì
hình như nhà nào cũng có:
_”Nghe tu hú kêu, tôi lại nhớ những công việc
sữa sọan ăn Tết. Hồi còn ở dưới làng, mùa này
là mùa xay lúa, giả gạo đây!
_ Ừ, đàn ông xay, đàn bà giả, mà giả chày
tư, hò hát suốt đêm, cả xóm đều vang dậy tiếng
hò giả gạo,vui quá.”
( Hai người xuống tinh thần)
Bình Nguyên Lộc còn cho ta biết thêm cách
đón Tết của người dân ở nông thôn miền Đông
thời ấy như sau:
_“Chúng tôi đây cũng vậy, quen ăn Tết trong ba trăm
năm, từ ngày đổ xô vào khai hoang ở đây,với dưa
hấu và đường phổi, rồi nghe không phải là Tết nếu thiếu
hai món đó. Nhưng ngòai quê của bác Thụ
làm gì có dưa hấu vào đầu xuân, nên
bác chỉ dửng dưng như không, nếu thiếu dưa và đường.”
( Quyển gia phả)
Xẻ dưa vào sáng mùng một để bói điềm cát
hung trong năm cũng là một tập tục lâu đời ở vùng đất
phương Nam này:
_”Ngày đầu năm, người nào trong gia đình cũng xẻ
thử một trái dưa hấu, xem nó có thật đỏ lòng,
mặt lòng dưa có xam-xảm cát hay không, để đóan
tương lai tổng quát của họ trong năm.
Đó là hôm cả nhà phải ăn dưa đến ngấy ra, muốn
ớn tới cổ, vì nhà đông tám người mà phải
ăn hết tám trái dưa bói đầu năm.”
( Gói hột dưa bí mật)
Không kể giàu nghèo, trên bàn thờ nhà
ai cũng phải cố gắng mua cho được miếng đường phổi để bên trái
dưa hấu thì họ mới toại nguyện:
_”Đường phổi không phải là đường. Thật ra nó chỉ
là một thứ quà ngọt chế tạo bằng đường cát trắng, tròng
trắng trứng gà và một vài chất khác mà
nhà nghề giữ kín cho đến mãi ngày nay.
Miếng đường phổi mang hình dạng một lá phổi mà bean
trong nó cũng có hang, lỗ y như phổi người.
Đó là một lễ phẩm, người dân Đồng Nai dùng
cúng tổ tiên ngày Tết
(Bảo mật)
Những người đi khai hoang khẩn đất ngày xưa yêu quí đường
phổi, có thể vì nó ngon, mà cũng có thể
vì một lý do lịch sử sâu xa khác: nó nhắc
nhớ đến nguồn cội của họ :
_”Thành phần hoá học của đường phổi, và cách
chế tạo nó, những nhà nghề trên ấy ( vùng Bình
Thới, Đồng Nai) thọ lãnh của tổ tiên ngoài Quảng Ngãi,
Quảng Nam khi bỏ làng di cư vào Đồng Nai, cách đây
trên ba trăm năm.
(Bảo mật)
Mọi thứ trong ngoài đã chuẩn bị xong thì không
thể quên được cành mai. Mai là cây cảnh đặc trưng
của muà xuân trong miền Nam nên thời nào cũng có,
mà thời nay mai lại còn nhiều hơn, đa dạng hơn. Khác
ở chỗ là hồi xưa vất vả quanh năm không đủ ăn đâu ai có
dư tiền mà ra mua sẵn ở chợ Tết như dân thời nay. Muốn có
cây mai đẹp thường người ta phải vào tìm trong rừng rất
công phu:
_”Tháng Chạp năm ấy, ông vào rừng để chặt vài
nhánh mai về thui hầu cắm độc bình ngày Tết.
Ông Tư đi tìm mai vào đầu tháng cuối năm, vì
lối chơi này đòi hỏi nhiều thì giờ. Nhánh mai
chặt rồi, lặt lá, thui nơi dấu chặt xong, để nó đó tới
ba mươi Tết nó mới chịu trổ hoa. Công việc thì lâu
lắt, nhưng thật đáng công chờ đợi, vì bông mai
của các nhánh mai thui, sống mạnh mẽ, tươi bền y như bông
của cây mai sống trồng dưới đất, chớ không phải mới trưa mùng
hai là rụng hết như bông của nhánh mai tươi chặt về,
vào ngày hăm Tết đâu.
( Gốc mai già)
Phải tốn nhiều công phu như thế, nhưng nếu được gốc mai nở hoa đẹp
đúng vào dịp Tết thì với các cụ già không
có gì vui hơn :
_”Gió Bấc về, rồi mùa gặt qua, rồi mùa cưới, rồi kỳ
yên, chạy miễu, xong đâu đó thiên hạ chuẩn bị ăn
Tết. Tết năm nay, ông Tư chỉ ăn bằng gốc mai này là đủ
rồi, không cần thịt kho, dưa giá, bánh mức gì
hết ráo!”
( Gốc mai già)
Cuối cùng, là giờ khắc long trọng thiêng liêng
nhất mà mỗi năm chỉ đến một lần, sau bao nhiêu ngày chờ
đợi, ước mơ:
_”Khoa làm cái công việc nhỏ là cắm nhang
ấy sao mà lâu quá. Nhưng rốt cụôc rồi anh cũng
làm xong. Bấy giờ pháo giao thừa đã trả lời nhau từ
xóm này qua xóm khác. Họ không nói
với nhau gì nữa cả,lắng nghe tiếng pháo nó có
một giọng nói riêng: nay là thứ pháo giận dữ,
kia là pháo bệnh họan đuối hơi, xa nữa có thứ pháo
điệu máy hát, vừa nổ vừa mòn lần, rồi lại nổ to lên
để rồi hạ giọng nữa như là thỉnh thỏang được lên dây thiều
một lần.”
Một vài hình ảnh của ngày xuân được gợi lại trên
đây có lẽ đã ít nhiều nhạt phai vào trong
dĩ vãng xa xăm. Các hộp bánh kẹo tràn ngập thị
trường đã thay thế cho thèo lèo bánh mứt; bếp
ga đã chiếm chỗ cuả ánh lưả hồng nồi bánh tét
bập bùng trong buổi tàn niên trẻ nhỏ quây quần
bên mẹ ngày xưa. Xác người chết được đem hoả thiêu
nhiều hơn, đở cho con cháu phải lo dảy mả cực khổ vào những
ngày bận rộn kiếm tiền cuối năm. Năm kia, một vị tiến sĩ cũng đề nghị
chúng ta nên thay đổi ngày ăn Tết cho giống Tây
để phù hợp với thế giới hiện đaị ngày nay.
Phải công nhận rằng ngày nay chúng ta ăn Tết văn minh
và sung túc hơn ông bà mình hồi xưa nhiều
lắm, nhưng dường như Tết đã mất dần đi cái “hồn” vốn
có của nó đã được truyền lại tự bao đời. Muà
xuân nào tôi cũng hỏi các con tôi, các
học trò của tôi rằng ăn Tết có vui không, dường
như cả lớp đều đồng thanh trả lời rằng Tết chán quá Thầy ơi.
Tôi không hiểu tại sao, giống như tôi không thể hiểu
mỗi khi hỏi các em có thích ăn thịt chó không
thì trai gái cả lớp đều nhao nhao lên rằng thích
lắm.
Một ngày nào đó người dân Việt Nam không
còn thiết tha với Tết nưã, chỉ mới nghĩ đến đó thôi
tôi đã thấy buồn dạt dào. Người Việt mà không
có Tết thì vốn liếng văn hoá trong tâm hồn của
chúng ta sẽ vơi cạn đi biết dường nào!
_” Nàng nhìn vào khoảng không, rồi say sưa
nói to lên một mình:” Mai thui…ba chặt cành mai
vào giữa tháng chạp, ba thui cành ấy nơi bị chặt, ba
chặt lá, rồi ba cắm trong độc bình có chứa nước…”
‘Thế rồi hăm lăm hoa ra nụ và tối ba mươi nó âm thầm
nở. Sáng mồng một là bàn thờ vàng óng.
Nó bền và đẹp hơn hoa nở sẵn trên cành bị cắt
ngang…”
( Chiêu hồn nước)
Mong rằng hình ảnh này sẽ còn mãi dù đời
có bao nhiêu đổi thay!