Một vài gương mặt đáng
nhớ của Chợ Bình Dương
Thu Lâm
Sau khi gia đình rời xóm Hủ Tiếu Cây
Dừa để về cư ngụ tại dãy phố làng ngoài chợ thì
thế giới của tôi là cái chợ. Cuối tuần không đi
học tôi thích lang thang ngoài chợ, vòng ngoài
, để ngắm các tiệm. Tôi thường dừng lại ở bazaar Duy Tân
nhìn bức tượng bằng thạch cao chưng trong tủ kiếng. Đó là
tượng bán thân của chị Lệ Thuỷ, con gái đầu lòng
của ông bà chủ tiệm. Không hiểu sao tôi không
chú ý mấy đến nét đẹp hiền hoà của chị trên
bức tượng mà lại thích nhìn đôi bông tòn
ten hình giọt nước. Có lẽ vì thực tế chị đeo đôi
bông đó, đôi vàng nhận cẩm thạch hình giọt
nước. Dường như đặc điểm nầy khiến cho bức tượng giống như thật nhiều hơn.
Rồi từ đó, tôi đi luồng qua các sạp chồm hổm để vào
phố xem tiệm Mỹ Nam. Hồi đó có lẽ tiệm nầy sang nhất chợ Thủ.
Tiệm rộng rãi, bán đủ thứ gia dụng phần nhiều là đồ
nhập cảng. Chủ tiệm là một người Tàu, tuổi trung niên,
không mấy vui vẻ gì lắm. Chúng tôi cho là
ông ta làm phách vì tiệm thuộc loại sang. Tôi
mải mê nhìn các chai dầu thơm nhập cảng từ Pháp,
nhất là chai Soir de Paris màu xanh dương có hình
con đầm xoè. Thích nhưng làm gì có tiền
để mua vì đó là một món xa xỉ phẩm đối với cô
bé mười tuổi. Tôi tự nhũ mình sẽ mua chai dầu thơm
nầy khi có tiền. Tôi phải đợi hơn mười năm sau lúc đi
dạy học ở Phước Tuy mới mua được. Mùi dầu thơm mới ngọt ngào
và quý phái làm sao. Sau đó tôi
thử các loại nước hoa khác và Soir de Paris bị trôi
vào quên lãng. Một hôm, sau nhiều chục năm, lúc
định cư ở Mỹ, tình cờ một người Mỹ đi ngang qua, tôi giựt mình
bàng hoàng khi nghe mùi Soir de Paris trở lại. Có
thể đó là một loại dầu thơm khác có mùi
tương tự. Tôi ngơ ngẩn thật lâu và cả một khúc
phim dĩ vãng được quay lại với thời thơ ấu ở quê nhà
cùng năm đầu tiên xa tỉnh nhà làm cô giáo
tỉnh lẻ, nơi tôi được dân chợ Bà Rịa gọi một cách
thân thương là cô giáo búp bê. Tôi
đã lạc đề rồi, xin trở lại chợ Bình Dương.
Sau đó, khi đi học trung học, thú vui của
tôi là đi mua tập vở, viết, giấy bao về nhà tỉ mỉ bao
tập, dán nhãn tươm tất chờ ngày tựu trường. Tôi
mua ở tiệm bên trong, ngay đầu chợ. Người bán là một
người đàn ông Trung Hoa, cao, nước da xanh mét. Ông
ta không bao giờ bớt giá mặc dù tôi là một
khách hàng rất trung thành của ông. Bạn tôi
cho biết các nơi khác bán rẻ hơn, nhưng rồi tôi
cũng mua nơi đó để chịu mua mắc mà chủ nhân thì
không vui vẻ tí nào. Có lẽ tính tôi
không hay thay đổi và cũng vì ở đó có nhiều
thứ mà nơi khác không có. Thỉnh thoảng má
tôi sai đi chợ mua thức ăn. Hể mua thịt quay thì mua ở quầy
thịt của chú Quần. Người Tàu nầy rất dễ tính và
thịt cũng rất ngon. Ở chợ còn có một chú tên là
chú Áo. Tôi không nhớ rõ chú nầy
lắm. Nếu mua thịt tươi má tôi biểu tôi mua ở Dì
Tư. Lần đầu mua, dì không biết tôi nên không
lóc bớt mở. Còn sườn, vì tôi không nói
rõ nên dì bán cho tôi sườn già. Khi
về nhà, má tôi xem lại bắt đem xuống cho dì lóc
mở và đổi lấy sườn non. Không đi thì bị mẹ rầy, mà
đi thì nói gì với người ta. Tôi xách thịt
trở xuống chợ, vừa đi vừa khóc, mặc dù lúc đó
cũng đã 15, 16 tuổi rồi. Từ đó, hễ tôi mua thịt thì
dì sẽ lựa thịt ngon cho tôi. Dì rất hiền và dễ
thương, lúc nào cũng chìu ý khách hàng.
Ở đầu chợ, gần Phòng Thông Tin là tiệm sách của
ông Trường Tiếu. Dường như ông bà rất thích sân
khấu. Tôi không rõ lắm về việc nầy. Sau nầy, ông
Trường Tiếu dẹp tiệm, nơi đây trở thành nhà sách
Nam Cường. Chủ tiệm là một thiếu phụ trẻ, rất đẹp, nước da trắng mịn.
Đây là nơi tôi lui tới rất thường xuyên, nhất là
sau ngày lãnh lương. Bà chủ tiệm rất vui vẻ với tôi,
thường hay bắt chuyện hàn huyên. Sau năm 1975, tôi tình
cờ gặp con trai bà, lúc đó khoảng 12, 13 tuổi. Tôi
hỏi nó gia đình sẽ đem nộp sách cho chánh quyền
theo lịnh của họ hay không. Thằng bé nói:" Có
chớ cô, lúc nầy mà chứa sách cũ trong nhà
giống như chứa bom nổ chậm vậy". Do câu nói nầy mà tôi
đau lòng huỷ bỏ tất cả sách mà tôi đã mua
trong suốt hai mươi năm.
Ở gần đầu chợ, gần đường Lý thường Kiệt,
trên lề dãy phố Đoàn Trần Nghiệp (hồi xưa là General
Chason) có một sạp bán thuốc lá mà tôi
thường lui tới nhất là vì chủ nhân sạp thuốc lá
là anh Chín, anh cho thuê truyện. Quyển nào cũng
được anh bao bằng giấy dầu, may chỉ coton thật chắc ở bìa để sách
đừng rơi, mất bớt các trang sách. Dường như anh không
lấy tiền thuế chân, tôi quên rồi. Khi nào có
sách mới, anh thường giới thiệu với tôi. Vì sách
truyện qua tay nhiều người, có người không kỷ, nên sách
có mùi hôi đặc biệt. Vậy mà hồi đó vì
mê đọc mình không cảm thấy gớm gì hết. Bây
giờ nghĩ lại giựt mình. Có lẽ anh Chín có óc
thương mại, nhưng cũng phải là người yêu sách nên
mới nghĩ ra như vậy.
Khi trở thành cô giáo, có gia
đình riêng, thỉnh thoảng cuối tuần đi chợ, tôi thường
ghé sạp vải cô Hoà (con ông bà Cả). Cô
Hoà cũng là bạn học cũ ở trường Nữ với tôi. Chị cô
là chị Hợi, học trên một lớp ở trường Gia Long. Chị vắn số qua
đời vì sốt thương hàn năm lên đệ ngũ. Tôi thích
nhứt là sạp vải cô Tốt, con gái ông bà Cẩm
Hưng. Tôi gọi cô là Dì Tư vì có họ
xa với má chồng tôi. Tới nơi tôi hay leo lên bộ
ván ngồi chơi với dì để lựa vải. Mua xong rồi thì nán
lại nói chuyện trời mưa trời nắng. Đây là những giây
phút êm ái đậm tình bà con chòm
xóm Việt Nam mà mình không sao tìm lại
được. Kế đó là gian hàng bán chén, dĩa,
ly kiểu của một người Trung Hoa bên hông chợ phía đường
Đoàn trần Nghiệp. Tôi thích ghé tiệm để mua sắm
chén bát. Mỗi lần đi ngang dù không mua gì
chú cũng mời vào giới thiệu các món hàng
mới, phần nhiều là đồ nhập cảng từ Nhựt, Hồng Kông và
Pháp. Tôi thích lắm nhưng giá cao. Chú
nói" "Cô mua đi tôi bớt cho. Hôm nay chưa có
tiền thì hôm khác trả. Mình quen nhiều mà".
Chú nầy có một tiệm bán đồ ngọt trước cửa nhà
ông bà Năm Đại. Chè rất ngon, người vui vẻ và
mấy đứa con cũng dễ thương, đứa nào cũng trắng bóc. Sau năm
1975, vì khủng hoảng tinh thần, chú bị mất trí. Sau
đó, cả gia đình đi định cư ở tiểu bang Georgia, hiện đang mở
nhiều nhà hàng. Chú làm sui gia cùng gia
đình tiệm gạo Thoại Tuyền cũng ở Georgia.
Bây giờ xin nhắc lại quý đồng hương về các
hàng quà vặt mà có lẽ đàn bà chúng
tôi rành hơn quý ông. Nhắc đến các hàng
quà vặt không thể quên được gian hàng xôi
và bánh ngọt của Bà Giáo Thọ. Bà bán
xôi đủ loại: xôi lá dứa, lá cẩm, bên dưới
lót một miếng bánh phồng khoai, trên mặt là nước
cốt dừa, đậu xanh, dừa nạo, và đường mè. Ăn một gói
rồi vẫn còn thèm. Ngoài xôi ra, bà còn
bán các thứ bánh: bánh bèo ngọt,
bánh qui, xôi vị, bánh dừa( bánh bột nếp, nhưn
đậu xanh lại ăn với muối mè đường). Sao mà bà khéo
và chịu khó quá. Từ gian hàng xôi, đi lên
phía đầu chợ, có một gian hàng bán bánh
xèo, bún thịt heo xào, chả giò. Đồ ăn ở đây
rất ngon và giá cũng vừa phải. Xích tới nữa là
xe mì của mấy chị em gái người Tàu. Khách đến
ăn phải đợi lâu vì bán rất đắc. Những người nầy nghe
đâu cùng một gia đình với Mì Cây Me, cũng
là một xe mì nổi tiếng. Sau đó, các chị em không
bán nữa vì chánh quyền mới đánh thuế quá
cao. Từ đây đi vòng xuống lưng chừng chợ là gánh
chè của cô Hiền. Cô nầy nấu chè ngon không
chỗ chê. Cô luôn luôn có hai thứ chè,
chè nào cũng ngon. Tên Hiền nhưng cô không
hiền, vì tôi đã có lần chứng kiến cô gây
lộn với người bán hàng kế bên. Tôi lắc đầu chịu
thua. Hễ có khách hàng ngồi xuống mà cô
thích là cô bắt đầu nói chuyện. Nói huyên
thuyên không dứt, cũng rất vui. Từ đó đi xuống nữa, ở
đầu chợ dưới là một ông Tàu, làm bánh dừa.
Ông đổ bánh trong một khuôn lớn, đổ xong cắt ra làm
sáu phần rất đều và khéo. Bột pha với đường vàng.
Nhưn dừa cũng xào bằng đường vàng. Ông làm bánh
không kịp bán. Lúc bánh mới ra lò , vừa
ăn vừa thổi, ngon đậm đà. Sau đó, có lẽ vì già
yếu, ông không bán nữa, và không thấy ai
kế vị. Đến nay chị em chúng tôi vẫn còn nhớ bánh
của người nầy.
Còn vài ba chỗ cũng đáng nhớ ở hai
bên phố Đoàn Trần Nghiệp và Thái Lập Thành.
Lúc xưa, chợ Bình Dương rất đẹp. Chợ nằm cạnh sông. từ
xa nhìn như một chiếc tàu khổng lồ. Phía trên
là phòng Thông Tin, xung quanh có 4 kiosque bán
sách và tạp hoá. Xích lên trên ,
một bên là các kiosque bán thức ăn (Thái
Bình Dương ...) và một bên là một hàng
cây không rõ tên có hoa trắng rất đẹp.. Cuối
hàng cây nầy là xe lẻng kẻng của mọt chú người
Tàu. Lúc nào chú cũng bận rộn xẻ trái
cây để ngâm vào mấy hủ nước cam thảo. Do đó, tay
chú bị nhăn nhó và thấm màu vàng. Chỗ
nầy đám trẻ hay lui tới để mua trái chua và xí
muội. Bên kia lề góc đường (?) và Đoàn trần Nghiệp
là xe nước đá của một người Tàu, không biết tên
gì, nhưng ông xã tôi thích gọi ông
ta là "Bồ Tèo". Ông rất dễ thương, dễ tánh và
rất chìu khách hàng. Ông xã tôi nói
ông và mấy người bạn thường lợi dụng tính dễ dãi
để vòi vĩnh xin thêm đường, thêm nước đá. Thành
ra mua một ly thành hai ly. Bên đường Thái Lập Thành
ở góc lên Dốc Ông Cò là một xe nước đá
khác nữa. Ông nầy không dễ dãi như ông kia,
mình không lợi dụng được. Tuy nhiên, khi xe của "Bồ Tèo"
dẹp vì lý do gì tôi không biết, thì
tôi lại là một khách hàng thường xuyên của
ông nầy. Đặc điểm của các tiểu thương gia người Tàu nầy,
trừ ông Mỹ Nam, là ông nào cũng mặc quần ngắn quanh
năm. Nói đến cách ăn mặc mình cũng không quên
rất nhiều người bán hàng, kể cả phổ ky trong các tiệm
nước cũng vậy, họ ở trần trùng trục cho đến khi ông Ngô
Đình Diệm nhận chức Thủ Tướng. Ông ra lịnh người Tàu
nhập tịch Việt Nam và người buôn bán nhất là đầu
bếp và phổ ky phải mặc áo.
Kể lể dài dòng, xin bắt chước chị Hoa, đã
dùng chữ "tan hàng" rất dễ thương trong bài vừa rồi
của chị. Chị Tư ơi, em nhớ các cô giáo của mình
quá vì chữ "tan hàng" của chị.
Quên nữa, bên trong chợ còn hàng
bánh chưng bánh tét của Bà Ba. Bà bán
lâu đời và nổi tiếng nên nhiều người gọi bà là
Dì Ba Bánh Tét. Kế hàng Bà Ba là
hàng bánh thững , bánh bò của cô Sáu,
chồng là ông Ôn Song dạy ở trường Mỹ Nghệ. Cô Sáu
là em gái của ông Trường Tiếu. Còn một gian hàng
nữa của dì Hai ở xóm Cây Dừa bán dầu dừa, dầu
gió, cau khô, thính ... Dì Hai là láng
giềng của ba má tôi. Các thứ dầu dì bán
đều do dì chế tạo. Sau lưng dì Hai là hàng guốc
của dì Hai Sớt nơi mà đàn bà con gái đều
phải ghé qua.
Xin lỗi quý đồng hương, tôi nhiều chuyện
quá !
Thu Lâm