VÀI Ý KIẾN VỀ
NỀN VĂN HỌC DÂN GIAN BÌNH DƯƠNG
Huỳnh Hoàng Anh
Viết về Bình Dương trong quá khứ ở nhiều
lãnh vực, khó khăn chung mà giới nghiên cứu gặp
phải là việc khan hiếm nguồn tư liệu, yếu tố quan trọng nhất quyết
định mức độ khả tín của tác phẩm. Có một vài
lý do đã góp phần tạo nên tình trạng
này:
-Nguồn tư liệu về Bình Dương thời trước hầu hết
đã thất lạc, hoặc tản mác các nơi chưa có cá
nhân hay cơ quan hữu trách nào sưu tập, dịch thuật, bảo
quản đầy đủ. Một tư liệu gần đây nhất, quyển “Địa phương chí
Bình Dương”, dày khoảng 500 trang, thực hiện bởi nhóm
giáo chức Bình Dương trước năm 1975, do ông Nguyễn Văn
Phúc, khi đó là Chánh Sự Vụ Sở Học Chánh
Bình Dương chủ trì, nay chỉ còn lưu lại khoảng vài
mươi trang. Tác phẩm quí giá này hiện nay còn
hay mất, đang nằm ở đâu, không ai biết và cũng không
có ai quan tâm tìm kiếm, phục hồi. Nhật báo Trắng
Đen cũng có loạt bài viết về Bình Dương, đất nước và
con người, đăng vào đầu thập niên 70, nay chắc rằng cũng cùng
số phận.
-Người Bình Dương, kể cả những người sống và
làm việc tại Bình Dương xưa nay ít chịu viết hay ghi
chép về vùng đất này. Hai nhà khoa bảng lớn của
tỉnh vào đầu thế kỷ là ông Phan Văn Hùm và
Trần Văn Trai là một thí dụ: cả hai đều không lưu lại
một bài viết nào về Bình Dương.
Ngoài hai lý do trên, có thể
còn một vài điều khác nữa liên quan đến các
yếu tố chính trị, xã hội… khiến cho quá khứ của Bình
Dương nay đã trở thành một vùng đất không có
lịch sử, hay nếu có, chỉ là một lịch sử mờ nhạt, đứt khúc.
Nền văn học dân gian, một nền văn học không
được thể hiện bằng văn bản, không cất giữ trong tủ sách của
thư viện mà nằm trong ký ức của từng thế hệ và được
truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Đặc điểm quan trọng đó
khiến cho nền văn học này, dù đồ sộ, phong phú, lại
dễ tan dần trong bước đi lạnh giá và lãnh đạm của thời
gian. Đến hôm nay, những gì còn lại, có lẽ chỉ
là một mảng tường hay đống gạch rong rêu của ngôi nhà
xưa mà tổ tiên đã dày công xây dựng.
-Trong thời đại hội nhập với các nền văn hóa
toàn cầu, trong đó có những nền văn hóa được
sự yểm trợ đầy uy lực bởi sức mạnh về kinh tế và phương tiện khoa
học kỹ thuật tiên tiến, nền văn hóa truyền thống bản địa của
các quốc gia nhược tiểu bị chao đảo mạnh mẽ, và nguy cơ bị
cuốn trôi trong dòng thác của thời đại là điều
khó tránh khỏi. Việc duy trì, bảo tồn những giá
trị trong gia tài văn hóa truyền thống của từng quốc gia, từng
địa phương trở thành một nhiệm vụ cấp bách, nếu không
sẽ không còn kịp nữa.
-Sự khẩn trương của tình thế, riêng đối với
nền văn học dân gian, là rõ nét nhất. Bởi như
đã nói, nền văn học dân gian chỉ được lưu giữ trong ký
ức, sống trong các sinh hoạt. Khi đời sống thay đổi, các sinh
hoạt làm thành cái môi trường cho các nền
văn học dân gian tồn tại, vận động, phát triển không còn
nữa, thì các câu hò, câu đố, các
trò chơi... cũng không còn lý do tồn tại. Khi
chúng biến mất, và những thế hệ từng tham gia trong các
sinh hoạt ấy qua đời, thì tất cả sẽ chìm vào dĩ vãng.
Việc phải nhanh chóng tìm kiếm, ghi chép, sưu tầm vốn
liếng ấy từ những bậc lão thành đang vẫn còn sống rải
rác đâu đó trong xóm làng là điều
hiển nhiên không thể chậm trễ.
-Việc sưu tầm tư liệu là điều khó, việc
xử lý chúng như thế nào có lẽ cũng không
dễ hơn. Bởi văn học dân gian có tính phổ biến, lan truyền
trên phạm vi đôi khi rất rộng. Một câu ca dao được hát
bởi người dân Tương Bình Hiệp, hoàn toàn chưa
đủ để khẳng định đó là câu ca dao được sáng tác
bởi người dân Tương Bình Hiệp, liên quan đến chuyện xảy
ra tại Tương Bình Hiệp. Một tuyển tập dân ca địa phương ra đời,
thì ai, và dựa trên những căn cứ nào để xác
định đó đúng là dân ca của địa phương, là
việc cần phải quan tâm.
Tại Bình Dương, thời gian qua có nhiều bài
khảo cứu hay tác phẩm được thực hiện khá công phu, xứng
đáng được tuyên dương, nhưng việc xác định giá
trị của chúng lại bị xem nhẹ hay bỏ qua. Xem các tác
phẩm đã ra đời mặc nhiên là chính xác và
trở thành tư liệu lịch sử cho các thế hệ đời sau học hỏi là
thái độ chưa thích đáng, không cẩn trọng và
thiếu tinh thần khoa học.
-Phạm vi của văn học dân gian là rất rộng,
những công trình nào đã được thực hiện, một cách
tương đối, những gì còn thiếu sót hoặc chưa nhận thấy
để định hướng nghiên cứu là nhiệm vụ quan trọng của mọi người
dân Bình Dương, nhất là giới nghiên cứu, giới làm
công tác giảng dạy, và các quan chức lãnh
đạo văn học nghệ thuật địa phương. Ba mươi lăm năm qua, đã có
rất nhiều nỗ lực của cá nhân hoặc nhóm người để cho ra
đời khá nhiều công trình khảo cứu về văn học dân
gian ở nhiều lãnh vực, đó là thành quả đáng
lạc quan và ca ngợi. Tuy nhiên nếu cho rằng cái kho tàng
văn học dân gian như thế là đã khai thác hết,
nhiệm vụ đã tròn, là một nhận định quá vội vàng.
Có ý kiến cho rằng chuyện xưa của Bình
Dương đã được viết quá nhiều, nay không còn gì
lý thú để khai thác. Chúng tôi cho rằng
ngược lại, có qúa nhiều thắc mắc về Bình Dương mà
chúng tôi không biết và không đủ khả năng
để khám phá. Vì sao tại Bình Dương người ta gọi
là múa cù mà không nói múa
lân? Ở Bình Dương có bao nhiêu đền đài miếu
mộ, nguồn gốc và ý nghĩa chúng ra sao? Có bao
nhiêu lễ cúng bái, nghi thức và vai trò
của chúng trong tâm thức cộng đồng của cư dân Bình
Dương? Các trò chơi trẻ con với nhiều bài đồng dao trong
sáng, hồn nhiên và có tính nhân văn,
giáo dục cao có còn ai sưu tập? Nhất là về ngôn
ngữ, cách ăn cách nói của người Bình Dương với
những phương ngữ và phương âm riêng biệt đang mất đi từng
ngày, có ai quan tâm gìn giữ hay không?
Chúng tôi nghĩ rằng không có đề tài nhỏ,
mà có thể chỉ có cách làm nhỏ mà
thôi.
Văn học dân gian tất yếu nằm trong dân gian,
do vậy để khai thác kho tư liệu này, người nghiên
cứu bắt buộc phải đi nhiều, gặp nhiều, đổ công sức nhiều. Nguồn tư
liệu đó lại chủ yếu được lưu trữ trong trí nhớ, một công
cụ dễ lầm lẫn và ít chính xác. Do vậy người sưu
tầm cần phải biết gạn đục khơi trong, đãi cát tìm vàng,
óc phân tích, suy luận, đánh giá các
sự kiện cần phải được tiến hành một cách cẩn trọng và
khoa học. Tuy vậy, dù có nổ lực đến đâu, việc sai lầm
và thiếu sót là không thể tránh khỏi. Thế
nên thay vì cất làm của riêng, chúng tôi
cho rằng dù biết chưa hoàn chỉnh, viêc sớm công
bố rộng rãi tài liệu sơ thảo là điều cần thiết, bởi
chỉ nhờ vậy chúng ta mới hy vọng có thể nhận ra được những
sai lầm nhờ vào sự phát hiện của nhiều người khác. Văn
học dân gian là công trình của tập thể, việc ghi
chép lưu giữ chúng vì vậy rất cần phải có sự
chung sức của tập thể.
Cùng nhau ý thức tầm quan trọng của vấn
đề, tiếp tục nỗ lực, tiếp tục hợp tác, tiếp tục quan tâm, trợ
giúp để lấp đi khoảng trống mà tiền nhân đã để
lại, mà thế hệ sau sẽ thiếu sự quan tâm hoặc không còn
khả năng hay cơ hội để phục hồi, là những gì mà những
ai có liên quan đến việc bào tồn gia sản của tiền nhân
trên vùng đất Bình Dương này phải tiếp tục
bắt tay vào việc, khẩn trương và tâm quyết.
Mỗi một ngày qua đi, có thể một người nào
đó sẽ lìa đời, đem theo xuống đáy mồ những câu
hò, câu đố…vào đêm đen miên viễn của cõi
vĩnh hằng. Công việc bề bộn vẫn đang nằm chờ đợi trước mắt, và
nhiệm vụ của giới nghiên cứu là phải đêm ngày thực
hiện, không được chậm trễ và xao lãng.
Tùy vào vị trí và hoàn
cảnh riêng của từng cá nhân, mỗi người đóng góp
phần mình, họp nhau lại, tin rằng giới nghiên cứu sẽ có
thể hoàn thành được sứ mệnh của mình, với tiền nhân
và với bao thế hệ mai sau.
23-10-2009