Vài câu
nói rất nổi tiếng
Hoàng Anh
1. “ Cái đẹp sẽ cứu thế giới”
Đây là câu nói của văn hào Nga
thế kỷ thứ 19, Dostoevxky. Câu này được nghiều người nhắc tới,
nhất là giới nghiên cưú về Mỹ học hay phê bình
văn học nghệ thuật. Viện dẫn câu nói, giới nghệ sĩ như tìm
được một chỗ dưạ tinh thần quý báu, một thanh kiếm sắc về lý
luận để yên tâm sáng tác và biện minh cho
hoạt động cao quý của mình. Sống trong
một thời đaị tiến bộ cực kỳ nhưng cũng cực kỳ tao loạn và thống khổ,
thì còn gì sung sướng hơn khi mình đang góp
phần làm văn học nghệ thuật, tức hướng tới một trong ba giá
trị vĩnh cưủ của nhân loại là cái Đẹp- điều duy nhất có
thể cứu lấy thế giới luôn bị đe doạ hủy diệt bởi bom đạn và
sự tàn bạo, ngu xuẩn của con người.
Thế nhưng chúng ta hãy nghe giáo sư Lê Ngọc
Trà giải thích:
“ Thật ra đây không phải là phát ngôn trực
tiếp của Dostoevxky mà là câu nói của một nhân
vật trong tiểu thuyết Chàng Ngốc ( cũng có bản dịch là
Thằng Khờ - chú thích của người viết). Câu này
thường được dịch là “ cái đẹp cứu thế giới”,”Cái đẹp
cứu chuộc thế giới”. Ở đây cũng chỉ thiếu một chữ-đó là
chữ “sẽ”. Trong tác phẩm, Dostoevxky dùng chữ “cứu” ở dạng
động từ hoàn thành ở thì tương lai (cnacem) với ngụ
ý rằng cái đẹp mà theo ông tượng trưng cho lý
tưởng Cơ đốc sẽ cứu vớt nhân loại, giúp nhân loại, trước
hết là nhân dân Nga thoát khỏi cảnh đau khổ và
bế tắc của xã hội cuối thế kỷ XIX. Rõ ràng không
có chữ ‘sẽ” này, câu nói trên không
còn mang ý nghiã mà Dostoevxky đã gưỉ
gắm vào lời nhân vật và câu “ Cái đẹp cứu
thế giới” sẽ bị sử dụng một cách vô nghiã, tuỳ tiện trong
nhiều tình huống khác nhau, thậm chí cả như lời đề
dẫn cho các kỳ thi Hoa hậu!”
(Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo, tr 192,
n.x.b Thanh Niên, 2002)
Khi chuẩn bị viết tiểu thuyết “Những người bị quỷ ám”, Dostoievsky
có ghi như sau:” Thiên chúa giáo sẽ cứu thế giới
và chỉ có Thiên chúa giáo mới có
thể cứu được thôi”. Như vậy cái Đẹp trong quan niệm của văn
hào không hoàn toàn giống như những gì mà
trước nay chúng ta đã nghĩ.
2. “ Tồn tại hay không tồn tại, đó
mới là vấn đề”
(To be, or not to be: that is the question.)
Câu nói này trích
từ vở bi kịch có tên là Hamlet của
William Shakespeare ( 1564-1616 ), người Anh, thi sĩ và kịch tác
gia vĩ đại của thế giới qua mọi thời đại, một người quá nổi tiếng
đến độ dường như những lời giới thiệu thêm nưã về ông
đều trở nên không cần thiết.
Giáo sư Đỗ Khánh Hoan khi dịch vở kịch này đã
chuyển câu thơ ấy như sau:” Sống hay thôi không sống, vấn
đề là đây.” Những bản dịch về sau của các tác
giả khác như Buì Ý, Buì Phong, Buì Anh
Kha (n.x.b Văn Học 1986, tr.91) cũng dịch như thế. Về sau mỗi khi trích
dẫn câu này trên sách báo, ta lại thường
quen nghe : ”Tồn tại hay không tồn tại, đó mới là vấn
đề”
Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng đưa ra một cách dịch khác khá
bất ngờ và thú vị:
“Nói chung, các bản dịch Pháp, Đức, Ý, Tây
Ban Nha đều theo chung một khuôn, nghĩa là hiểu rằng to be
trong câu thơ trên có nghiã là to live
hay to exist. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu kỹ lại vở kịch và
bối cảnh tôn giáo của thế kỷ 16 ở Anh - Công Giáo,
Tin Lành, hoài nghi v.v.. - cần phải dịch câu thơ trên
( theo phương pháp giao tiếp) như sau:
"Có phải là hồn ma của cha ta hay không, đó mới
là vấn đề?”
( Dương Ngọc Dũng , phương pháp luyện dịch Anh Việt Việt Anh, n.x.b
Long An 1991)
Với tôi đây là điều hết sức mới mẻ và thú
vị. Đặc biệt, trước đó cũng trong cùng tác phẩm ông
Dương Ngọc Dũng đã chứng minh khá thuyết phục những nhầm lẫn
về phương diện dịch thuật của một dịch giả khá nổi tiếng của miền
Nam trước 75 là Trần Thiện Đạo, hay của một nhà Hán
học uyên thâm là Trần Văn Giáp. Tôi cảm thấy
bị lôi cuốn ngay phải tìm hiểu sâu thêm vấn đề này.
Trong dịch thuật, ngữ cảnh (context) là một yếu tố vô cùng
quan trọng không thể bỏ qua, do vậy để có thể xác định
nên hiểu ra sao giưã hai cách dịch quá khác
biệt nêu trên, tôi nghĩ rằng điều cần thiết là
phải tìm hiểu kỹ hơn trường hợp xuất hiện của câu nói
trong tác phẩm. Trước tiên, tôi đọc lại câu chuyện
Hamlet được kể bằng thể văn xuôi bởi nhà văn Anh nổi tiếng
sống vào cuối thế kỷ 18, Charles Lamb (1775-1834). Trong đó
có một đoạn rất đáng chú ý:
- ”he could not help having some doubts whether the spirit he had seen
was really his father, or whether it might not be the devil who had taken
his father’s shape only to make unfair use of his weakness and his unhappiness
in order to drive him to the act of murder.”
( Chàng không thể không có một vài nghi
ngờ không biết hồn ma mà chàng đã nhìn
thấy có phải thật sự là cha chàng hay không, hoặc
là không biết nó có phải là quỉ dữ đã
đội lốt cha chàng để chỉ lợi dụng sự yếu đuối và nổi bất hạnh
của chàng nhằm đưa đẩy chàng đến hành động giết người
hay không.)
Đoạn trích dẫn này cho ta thấy rằng lý giải của Dương
Ngọc Dũng là có cơ sở, chỉ tiếc rằng đây lại không
phải là lúc câu nói trên xuất hiện. Tốt
hơn hết vẫn là đọc chính từ nguyên tác của Shakespear,
tác phẩm “Bi kịch Hamlet, chàng hoàng tử xứ Đan Mạch”
( The Tragedy of Hamlet, Prince of Denmark).
Vở kịch này gồm có 5 hồi, tổng cộng 20 cảnh, được viết vào
khoảng năm 1601, theo thể tuồng, tác giả chỉnh sửa lại theo thể kịch
nói vào năm 1623 và văn bản này còn lưu
lại cho đến ngày nay. Hamlet là hoàng tử xứ Đan Mạch,
cha chàng là vua nhưng bị người em dùng thủ đoạn ác
độc giết chết để cướp ngôi và cướp luôn vợ của Ngài,
tức mẹ của Hamlet. Oan hồn cha chàng hiện về tố cáo tất cả
sự thật và mong muốn Hamlet phải bằng mọi giá trả thù
cho ông. Câu chuyện quá đổi kinh hoàng, thế nhưng
Hamlet do tính thận trọng của mình, hoài nghi không
biết bóng ma đó có phải thật sự là cha của chàng
hay không. Chàng bèn giả điên để tránh
sự cảnh giác của mọi người - nhất là vị vua hiện thời, để
có điều kiện tìm cho ra sự thật với những chứng cứ xác
thực hơn. Vị vua kia rất nghi ngờ Hamlet và tìm nhiều cách
để khám phá ra chân tướng của chàng, trong đó
có việc âm thầm bố trí để Hamlet gặp lại người mà
chàng đã thương yêu bằng trái tim nồng cháy
của tuổi trẻ, nàng Ophelia, con gái của Tể tướng Polonius,
một người được Đức vua tin cẩn.
Câu nói mà chúng ta đang tìm hiểu nằm
trong hồi III cảnh I, lúc Hamlet vừa gặp lại Ophelia. Tâm trạng
Hamlet lúc này rất hoảng loạn và đau khổ, vừa nung nấu
mối thù cha, vừa nhẫn nhục che dấu con người thật của mình.
Thế nên gặp người yêu chàng hân hoan biết bao nhưng
vẫn phải đóng tròn vai một người điên để không
bị kẻ thù nhiều mưu sâu quỷ kế phát hiện. Tuy nhiên
tim yêu khó bề chôn chặt trong đáy lòng
nên dù là những lời nói có vẻ cuồng si,
chàng vẫn luôn khéo léo muốn gửi gắm vào
đó biết bao tâm sự tha thiết với người tình:
“To be, or not to be: that is the question
Whether ‘tis nobler in the mind to suffer
The slings and arrows of outrageous fortune,
Or to take arms against a sea of troubles,
And by opposing end them? To die:to sleep;
No more; and by a sleep to say we end
The heart-ache and the thousand natural shocks
That flesh is heir to, ‘tis a consummation
devoutly to be wish’d. To die, to sleep;
To sleep: perchance to dream: ay, there’s the rub;
For in that sleep of death what dreams may come”
Đoạn thơ này được viết bởi Shakespeare, tức cách nay đã
bốn thế kỷ, do vậy cấu trúc và ý nghĩa ngôn ngữ
có nhiều thay đổi so với tiếng Anh ngày nay. Để giúp
quí vị tiện theo dõi, xin đọc đoạn dịch ra Việt ngữ
sau đây:
(To be, or not to be: that is the question). Chịu đựng tất cả những viên
đá, những mũi tên của số mệnh phũ phàng, hay là
cầm vũ khí vùng lên mà chống lại với sóng
gió của biển khổ, chống lại để mà diệt chúng đi, đằng
nào cao quí hơn? Chết, là ngủ. Không hơn. Và
tự nhủ rằng ngủ đi tức là chấm dứt mọi đau khổ của cõi lòng
và muôn vàn vết tử thương mà hình hài
phải chịu đựng, kết liễu cuộc đời như thế, chẳng đáng mong muốn sao?
Chết, ngủ. Ngủ,có thể chỉ là mơ. Hừ! Đây mới là
điều khó khăn. Vì, trong giấc ngủ của cõi chết ấy,
khi ta đã thoát khỏi cái thể xác trần tục này,
những giấc mơ nào sẽ tới.”
( Hamlet, người dịch: Bùi Anh Kha, Bùi Ý, Bùi
Phụng)
Nhận xét tình huống xuất hiện của câu nói, cũng
như mối liên hệ trong mạch văn, nhất là những từ to die(chết),
to sleep (ngủ), death(chết), dream(mơ)... được lập đi lập lại nhiều lần,
cho thấy rất phù hợp để diển tả tâm trạng hoang mang và
đau khổ của Hamlet, và những thổ lộ khắc khoải trong lòng chàng
trao gửi đến người yêu. Đây là bi kịch bi thảm nhất của
Shakespeare trong số những tác phẩm mà ông đã
viêt. Tất cả nhân vật chính đều chết hết khi kết thúc
chuyện, và chắc chắn Hamlet có tiên liệu được phần nào
kết quả của sự việc nếu chàng ra tay trả thù, trong đó
có cả cái chết của chính chàng. Hơn nữa vốn
bản tính là người nhân hậu, chàng không
thể không suy tư ray rức về lẽ sống chết ở đời. Tôi không
thấy có mối liên hệ nào với sự hoài nghi về bóng
ma vào thời điểm này, và chúng tôi thử
đặt câu dịch theo như ý của Dương Ngọc Dũng vào trong
bài thì thấy chúng lạc lõng không hiểu
được.
Tiếc là chúng ta không biết được lý giải
của Dương Ngọc Dũng khi ông chỉnh sửa người khác nên
chúng tôi chưa biết được sự thật ra sao. Ghi lại những điều
này, hy vọng cung cấp một ít tư liệu để quí vị nào
quan tâm sẽ có dịp tìm hiểu thêm.
Xét về mặt ý nghĩa cũng như tính chất văn chương của
câu nói trên ta nhận thấy không có gì
đặc biệt, thế nhưng điều lạ là vì sao nó lại được người
ta thường xuyên nhắc đến mặc dù lắm người cũng không
thực sự thấu hiểu nó muốn nói lên điều gì.
3. “Tôi tư duy, tức là tôi tồn
tại”
Chắc không nói ra thì ai cũng biết rằng câu nói
này là của Descartes. René Descartes (1596-1650), sinh
ra ở Touraine, nước Pháp, được đánh giá như một trong
những triết gia vĩ đaị nhất của thời đại Ánh Sáng. Trong 54
năm trời ròng rã sáng tác, ông đã
viết rất nhiều tác phẩm quan trọng về nhiều lãnh vực như tóan
học, vật lý, triết học. Thế nhưng chính 70 trang viết được xuất
bản vào năm 1641 với tựa đề Meditations on Firsa & Philosophy đã
được ghi nhận như điểm khởi đầu của nền triết học Tây phương hiện đaị.
Để tóm tắt những luận chứng của ông về sự hiện hữu của chính
ông, Descartes đã sử dụng một thành ngữ Latin : “Dobito
ergo cogito, cogito,ergo sum” (Tôi nghi ngờ, tức là tôi
tư duy, tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại). Câu dịch
phổ biến bằng tiếng Anh là “ I think, therefore I am” ( Tôi
tư duy, tức là tôi tồn tại).
Heidegger phê phán rằng cái cogito (tư duy) của Descartes
không thể nào nắm bắt được cái sum (sự hiện sinh, sự tồn
tại). Về câu nói này, tác giả Robert Paul Wolff,
giải thích như sau:
“If you read the selection from the Meditations carefully, you will realize
that “I think, therefore I am” is not exactly what Descartes says. “
( About philosophy)
Tạm dịch:
“Nếu bạn đọc trích tuyển trong quyển Meditations một cách
cẩn thận, bạn sẽ nhận ra rằng ”Tôi tư duy, vậy là tôi tồn
tại” không chính xác là những gì Descartes
nói”
Điều thú vị là những người này đã cho rằng
chính tác giả đã không diễn tả chính xác
ý của ông, và giáo sư Robert đã giải thích
như sau:
“The point is that if the proposition is being asserted, then someone must
be doing the asserting, and if I am asserting ít, then that someone
must be me. Needless to say, I cannot use this proof to establish the existence
of anyone else. Suppose, for example, that I try to prove my wife’s existence
by saying, “The proposition, She exists, is necessarily true each time I
pronounce it.” Well, that just won’t work. The fact that I pronounce or assert
that she exists is in no way guarantees that she does. But ít does
guarantee that I exist! In fact, my asserting any proposition, true or false,
about myself or about anything else, guarantees that I exist, because I am
the subject, the asserter, the conscious thinker of the proposition. And
this is the key point_propositions or assertions or statements cannot simply
hang in midair with no one asserting them.”
(About philosophy, Robert Paul Wolff)
Để giúp một số độc giả chưa quen với Anh ngữ, tôi xin mạn phép
dịch như sau:
“ Điểm quan trọng là nếu lời tuyên bố đang được khẳng định,
vậy thì phải có một người nào đó đang khẳng
định, và nếu tôi là người đang khẳng định, thì
cái người nào đó đích thị chính là
tôi. Không cần phải nói rằng tôi không thể
dùng luận cứ này để thiết lập nên sự tồn tại của bất
cứ ai khác. Ví dụ, giả sử như tôi cố gắng để chứng minh
sự tồn tại của vợ tôi bằng cách nói: Đây là
lời tuyên bố, Bà ấy tồn tại, thì không nhất thiết
rằng bà ấy phải thật sự tồn tại mỗi khi tôi phát biểu
thế”. Câu nói này hiển nhiên không hợp lí’.
Sự kiện rằng tôi phát biểu hoặc khẳng định bà ấy tồn
tại thì không hề bảo đảm rằng bà ấy sẽ tồn tại. Nhưng
bảo đảm rằng tôi mới chính là người tồn tại! Thật
vậy, sự khẳng định của tôi trước bất cứ tuyên bố nào,
dù thật hay giả, về chính tôi hoặc về bất cứ điều
gì khác bảo đảm rằng tôi tồn tại, bởi vì
tôi là chủ thể, người khẳng định, kẻ tư duy có ý
thức về một tuyên bố. Và đây là điểm mấu chốt:
lời tuyên bố hoặc khẳng định hoặc phát biểu không thể
đơn giản treo lơ lửng trên không mà không có
ai là chủ thể khẳng định. Một lời tuyên bố là một sự
khẳng định, và do vậy nó phải được khẳng định bởi một
ai đó.”
Qua đoạn viết trên đây, tác giả hy vọng người đọc như
chúng ta nhận ra rằng cái Cogito Argument của triết gia Descartes
chỉ để chứng minh sự tồn tại hay hiện sinh của chính ông ấy
chớ không nhằm chứng minh sự tồn tại của ông ấy với chúng
ta.
Vấn đề là nếu như cách dịch của tiến sĩ Dương Ngọc Dũng là
sát với tinh thần của nguyên bản, từ câu nói của
chàng Hamlet: “Có phải là hồn ma của cha ta hay không?”,
chúng ta lại hiểu nhầm thành: “tồn tại hay không
tồn tại”, hay “hiện sinh hay không hiện sinh”. Đến Descartes, câu
: “Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại” tạo cho chúng
ta cảm giác rằng giưã các câu nói này
có mối liên quan với nhau. Đặc biệt là bắt nguồn từ
động từ exist, có nghiã là có thực, tồn tại,
ta có từ existentialism, tên chỉ một trào lưu triết
học rộng lớn và quan trọng nhất ở thế kỷ 20, trào lưu Hiện
Sinh, hay còn gọi là nền triết học Phi Lý.
“Tôi nổi loạn, vậy chúng ta hiện hưũ”, đó là
câu cogito cuả Ca-muy”
André Maurois ( Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện
đaị, Võ Phiến dịch)
Giưã các ý tưởng này thực ra không có
nhiều mối liên hệ với nhau, nếu không muốn nói rằng rất
khác biệt.
Qua vài câu nói vừa trích dẫn, ta nhận thấy
thêm một vấn đề cũng không có gì mới lạ rằng quả
thật đời sống có quá nhiều điều ta cứ mặc nhiên chấp
nhận là đúng mặc dù thật sự chúng chưa hẳn đã
như vậy. Người xưa bảo rằng đọc sách mà tin hết tất cả vào
sách thì thà rằng không có sách
thì hơn. Sự thật luôn chưá đựng rất nhiều góc
cạnh phức tạp, đa chiều nhưng chúng ta lại có thói
quen nhìn từ những góc độ rất hẹp để phán đoán
sự vật, và dễ dàng chấp nhận những gì đã được
số đông công nhận mà ít chiụ suy xét thêm.
Ngôn ngữ, một công cụ còn nhiều khiếm khuyết, ví
như một phương tiện thô sơ lại được sử dụng để chuyên chở khối
lượng hàng hoá vượt xa tải trọng của nó thì
sư vặn vẹo, méo mó là điều khó tránh
khỏi.
4. Có một câu nói rất quen thuộc với tất cả mọi người,
từ giới bình dân cho đến thành phần trí thức,
nhưng bạn có biết tác giả của nó là ai không:
“Một con én không làm nên
nổi mùa xuân” ?
Người ấy là Aristote, một trong vài triết gia vĩ đại nhất
trong lịch sử Hy lạp cổ đại đấy quí vị ạ!
“ Người ta còn nhớ câu nói bất hủ của Aristote về vấn
đề này:” Một con én không làm nổi một mùa
xuân”
( Will Durant, Câu chuyện triết học, dịch giả Trí Hải và
Bửu Đích)
Bạn có ý kiến chi khác không về câu nói
này?
Một vài phần trình bày trên đây có
thể là khô khan và khó hiểu với một ít
bạn đọc chưa quen với thể loại này. Thực ra mỗi khi đọc sách
thấy điều gì mới lạ, tôi thường ghi chép để về sau thỉnh
thoảng đọc lại. Giới thiệu một ít trang như thế hy vọng
có thể san sẻ cùng bạn đọc đôi điều thú vị trong
thế giới của chữ nghiã. Thế thôi.
Hoàng Anh (28-02-06)