Tống Cựu Nghinh Tân
Hoàng
Anh
Một số nhà nghiên cứu về văn hoá VN cho rằng người
Việt ta có tính chất giống như Nước, nghĩa là rất
uyển chuyển, mềm mại, dễ thích nghi với hoàn cảnh. Trong
quá trình giao lưu với các quốc gia khác,
ta có thái độ tiếp biến về văn hoá có chắt
lọc, chế biến, sáng tạo để vừa đón nhận được cái
hay của người, vừa biết canh cải một cách khôn ngoan cho
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nếu nhận
xét này đúng thì quả là điều đại
phước đức và đáng mừng cho dân ta vô
cùng. Thế nhưng đối diện với thực tế, lại cảm thấy
có điều gì đó khiến cho ta ngài ngại
và bất an trong lòng khi buộc phải tin như thế. Có
lẽ nếu điều đó đúng, thì cũng đúng ở một
mức độ tương đối mà thôi, và do vậy vẫn rất cần
phải soi sáng thêm.
Người dân Việt Nam suốt mấy nghìn năm cứ đời này
sang đời khác an phận sống trong lũy tre làng xanh
mát mà ngâm nga những bài học tốt đẹp của tổ
tiên; đối với họ như thế là nhất rồi, không cần chi
khác hơn: “Đèn
nhà ai nấy sáng, chuyện
nhà ai nấy lo”. Ở tầm mức quốc gia thì vua quan
luôn ưa chuộng chính sách bế môn toả cảng.
Ngoại trừ Thiên triều ở Tàu mà vua phải có
nhiệm vụ cống nạp hàng năm, thì vua ta không cần
ngoại giao, hay tiếp xúc để học hỏi ai, bất chấp tình
hình thế giới có biến động ra sao. Nếu có vị quan
trung trinh tiết liệt nào liều mạng can gián hay kiến
nghị thì cũng gạt qua một bên, nếu thương, còn bực
mình thì ra lệnh giam vào ngục là xong.
Cái khuynh hướng biệt lập đó khiến dân tộc ta từ
lâu đã luôn xa cách với các
trào lưu tiến hoá chung của nhân loại; và do
vậy, lạc hậu, thua kém thế giới trên khá nhiều
phương diện.
Không tiếp xúc với cái mới, không hiểu biết
cái mới, thì tự dưng lại đâm ra sợ hãi, nghi
ngờ, rồi bèn chống đối lại nó- chống bừa thế thôi,
nên đôi khi có hơi mù quáng. Đồng thời
ta vừa tự ru ngủ để làm an ổn tinh thần mình bằng
cách quay về với cái cũ, cái gì đã
có sẵn, ca tụng nó, bám chắc vào
nó như một tấm phao cứu sinh.
Nguồn gốc thói hoài cổ, bảo thủ có thể xuất
phát từ tinh thần sùng bái cổ nhân của Trung
Quốc mà Khổng Tử là ngừơi chủ trương thời xưa. Mà
Khổng Tử thì lại nhiệt liệt xưng tụng thời đại hoàng kim
Nghiêu Thuấn. Xây dựng một học thuyết chính trị dựa
trên huyền thoại thì khó thoát khỏi
tình trạng ảo tưởng, phi thực tế. Có lẽ vì vậy
mà học thuyết đó lúc ông còn sinh
thời đã không được vua chúa nào áp
dụng. Khi ông chết, tưởng nó sẽ chết theo; ngờ đâu
cái tinh thần tôn trọng thời xưa, tôn trọng cổ
nhân vẫn còn ảnh hưởng mãi đến ngày nay ở
châu Á, trong đó có Việt Nam ta.
Ảnh hưởng của văn hoá Trung quốc, đặc biệt là Nho
giáo, phủ trùm nặng nề lên tinh thần của người Việt
hầu như ở mọi phương diện. Mãi đến tận hôm nay, tuy
đã phai nhạt hơn trước, thì tầm ảnh hưởng ấy vẫn
còn sức tác động tiềm tàng nhưng rất mạnh chi phối
mọi ứng xử của họ trong đời sống. Dù là họ đang theo
tôn giáo, chủ thuyết nào thì đã
là người Việt sinh trưởng trên mảnh đất này,
khó ai mà thoát ly khỏi hoàn toàn
ảnh hưởng sâu xa ấy.
Quý trọng tập tục, truyền thống, tổ tiên, cứ coi
cái gì của người xưa để lại là tốt, xưa làm
sao thì nay làm vậy, rất sợ bị mất gia tài của
quá khứ nên ôm ghì giữ tất cả mà
không cần biết nên hư. “Xưa
bày nay vẽ “,
thái độ khư khư với cái gì đã có
sẵn, cái gì đã ổn định của dân ta rất mạnh.
Ngày nay cứ đám ma là phải mặc đồ tang rộng
thùng thình, giấy tiền vàng bạc thì rải đầy
đường, không biết để làm chi mà rất tốn kém.
Nhiều người cũng thầm biết như thế nhưng ít ai dám
làm khác đi.
Thích đựơc an trú trong cái cũ như con ốc
sên muốn nằm yên trong vỏ, người Việt không cảm thấy
có nhu cầu thúc bách cần phải tìm
tòi cái mới, độc đáo, sáng tạo. Ba
ngàn cây số bờ biển mà không có đựơc
một nhà hàng hải danh tiếng nào, đất đai là
rừng rú mênh mông mà phải nhờ có những
ông Tây như Yersin mới tìm ra được Đà Lạt.
Không biết hổ thẹn, ta lại còn nghêu ngao ca
hát tự bào chữa cho mình bằng thái độ“Ta về
ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Lịch sử văn hiến 4000 năm của ta có nhiều anh hùng
và hiền nhân nhưng vắng bóng các nhà
tư tưởng, các tríêt gia. Quyển sử đất nước
dày cộm như thế mà tìm hoài không ra
được một bậc hiền tài nào cất tiếng nói nhận
xét đánh giá về Tứ Thư Ngũ Kinh; cho thấy
óc sùng bái cổ nhân, sùng bái
ngoại nhân, kinh sách Thánh hiền và những
điển phạm thái quá đến thành như nô lệ của
người xưa. Nói chi đến chuyện nhận xét hay phê
bình, người Việt ta thậm chí còn sợ hãi
không dám nghĩ ngợi hay đụng chạm đến những
gì mà một bậc được coi là trí tuệ
ngoại bang nào đó đã phán và
cái đám đông bầy đoàn hỗn độn thời đại
đã xưng tụng, tôn kính. Ta không dám
và từ đó không hình thành được tinh
thần tư duy có suy xét, phê phán và
phản biện mọi xác tín, học thuyết, giáo điều tiếp
thu từ hải ngoại- trên bình diện cá nhân
chí đến tầm dân tộc- mà óc tư duy này
lại là yếu tố cần thiết của khoa học, giềng mối của tiến bộ,
phát triển.
Vua chúa vì sự ổn định, an toàn, và lợi
ích riêng của tộc họ, của bè nhóm; thay
vì khuyến khích, phát triển, lại luôn
tìm mọi cách, kể cả khắc nghịêt và
tàn bạo nhất để cấm đoán triệt hạ từ mầm mống mọi kẻ sĩ
trong nước mình làm công vịêc ấy; thế
nên tinh thần suy nghĩ phê phán độc lập của
dân ta vốn đã suy nhược lại càng suy nhược hơn.
Trong lịch sử, Hồ Quý Ly là trường hợp hiếm hoi,
có thể là duy nhất, đã đọc lại kinh sách
Khổng Tử và dám đặt bút phê bình
chúng. Không còn văn bản nào lưu lại để
chúng ta có thể biết nhận xét của ông vua
đáng kính này có giá trị đến
đâu; động cơ của ông là phục vụ cho sự nghiệp
chính trị cá nhân hay thuần là học thuật,
văn hoá. Tuy nhiên chỉ với viêc làm đầy
tính khai phá và cách mạng này, cũng
đã đủ để chúng ta khâm phục và tưởng nhớ đến
ông. Bài học quan trọng hơn nữa là, vì
vịêc làm này mà giới quan lại sĩ phu đương
thời ngoảnh mặt không ủng hộ ông. Những kẻ “trung
quân bất phụng nhị chúa” đó đành đoạn bỏ rơi
ông khi quân xâm lược nhà Minh tràn đến
dày xéo nước ta. Dũng cảm cầm quân chống lại kẻ
thù, nhưng thế cô, lực yếu, nhà vua của
chúng ta thảm bại nhanh chóng và chịu đựng sự
trừng phạt nhục nhã đau đớn của giặc. Rất tiếc cho vị vua
có tư tưởng cách mạng cấp tiến nhất Á châu
thời đó đã không gặp thời; cảm thương cho
Ngài đã trót sinh giữa một bầy người luôn sợ
đụng chạm đến các Thánh hiền ngoại bang mà họ
đã rước về và thờ phụng. Tiếc nuối cho ông
đã lao tâm khổ trí hy sinh tất cả cho sự nghiệp
chấn hưng đất nước, đem an vui hạnh phúc đến cho giống
nòi nhưng thần dân của ông đã thà
là làm nô lệ cho giặc còn hơn ủng hộ một
người dám làm khác với cái cũ, đi ngược lại
niềm tin và sự hiểu biết khô cạn của họ. Họ đã
kiên định rồi, ông dám cả gan làm khác
đi, thì chỉ có chết mà thôi. Ôi
dân tộc Việt Nam yêu dấu của chúng ta, chua
xót làm sao!
Mù quáng bám chặt vào những cái
xác khô của quá khứ, thế nên khi đón
nhận tiếp xúc với điều mới lạ, thái độ của người Việt
cũng bộc lộ sự mù mờ, lúng túng, tiền hậu
bất nhất. Cái mới, lạ, thì trước tiên hình
như là phải chống cái đã, rồi mọi chuyện sẽ hạ hồi
phân giải. Chống rồi, dùng đủ mọi cách rồi
mà không dẹp được. Nó cứ tồn tại lù
lù ra đó mãi thì lâu dần nó
lại biến thành cái cũ. Đến lúc này
thì ta lại chuyển sang chế độ đối xử đặc biệt với cái mới
vừa thành cũ, tức là phải đón rước, phải ôm
giữ bảo vệ như giữ một cổ vật. “Tống
cựu, nghinh tân” theo
cách của người Việt cũng có ít nhiều nét
độc đáo, ngộ nghĩnh riêng của nó chăng?
Những cái gì mới, lạ vừa du nhập bao giờ cũng bị
chê bai, chống đối, bài bác, có khi rất
quyết liệt. Chữ Nôm ở giai đoạn đầu từng bị chế giễu là
“nôm na mách qué”.
Thế nhưng khi chữ quốc ngữ
và bút sắt xuất hiện, các ông đồ lại hối hả
dùng bút lông sáng tác chữ nôm
và miệt thị lối chữ của bọn Pháp Lang Sa. Còn
nhiều chuyện nữa, cứ nhớ lại phong trào thơ mới, viết tiểu
thuyết theo lối Âu Châu bị chống đối tranh cải ra sao;
triều đình ta cấm đoán, bài xích đạo Ky
Tô lúc mới xâm nhập nước ta như thế nào.
Sợ cái mới, nhưng một khi đã chấp nhận nó rồi,
quen nó rồi thì lại biến nó thành một
cái cũ khác, thì lại không muốn đổi nữa,
không cần suy xét lợi hại, đúng sai, bảo vệ
nó cho bằng được, là một tính cách
khá đặc trưng của dân tộc Việt chúng ta chăng?
Cái mới luôn khó được chấp nhận, mà
đã chấp nhận nó rồi thì buôn ra còn
khó hơn gấp bội lần.
Chính vì thế mà khi tiếp xúc với cái
mới của ngừơi, ta không có mục tiêu cụ thể,
xác định; thường là tiếp thu trong thế bị động,
không chuẩn bị. Cái gì cũng để cho tự do
tràn vào, rốt cuộc cái tốt điều hay thì
không học lại hay bê cái xấu đem về. Giao lưu với
Hàn quốc, ta bắt chước được các kiểu thời trang
tóc tai quần áo và màu sơn môi tai
tái dị hợm của họ, thay vì phải học tinh thần làm
vịêc kỷ luật và hy sinh cho sự giàu mạnh của đất
nước. Quan hệ với Âu Mỹ, thì ta chạy theo các kiểu
ăn chơi phóng túng, cuồng loạn, hưởng thụ vật chất, lối
sống cá nhân; còn những thành tựu khoa học,
xã hội, nhân văn tiên tiến, những nhân tố
đã đưa họ vươn lên mau chóng là những quốc
gia đứng đầu thế giới, thì ta lại bỏ qua không quan
tâm đến.
Trước những thời khắc quyết định của lịch sử, người Việt ta thường lừng
khừng, lưỡng lự không dám quyết đoán ngay.
Không nhạy bén đánh giá chính
xác và nắm bắt thời cơ một cách kịp thời, thường
bỏ rơi những dịp may và vận hội, ta thích
làm mọi vịêc theo kiểu từ từ, vừa làm vừa
nhìn quanh quất xem thiên hạ làm ăn ra sao.
Hình như dân tộc ta cứ khoái sống cảnh “Trên
trời có đám mây xanh, ở giữa mây trắng chung
quanh mây vàng”, mà bỏ qua hiện thực cuộc
sống phồn
thịnh không ngừng trôi đang biến động từng giây
phút trứơc mắt.
Do ôm ấp bám chặt với cái cũ, rào giậu ngăn
sân với cái gì chưa quen biết, ngừơi Việt
luôn bị bỏ rơi khá xa so với trình độ chung của thế
giới. Đến tận hôm nay, các tác phẩm danh tiếng của
nền văn minh nhân loại vẫn chưa đến được nứơc ta. Đọc sách
thì ta biết ông Platon ở thời cổ đại Hy Lạp, biết
ông có lưu lại tác phẩm “Cộng hoà” nhưng
nguyên tác thì chưa một lần nhìn thấy. Ta
biết nhiều người nữa, như Aristote, như Edison, Thoreau…nhưng
tác phẩm của họ thực sự viết gì trong đó
thì hầu hết người Vịêt hiếu học đều bó tay chịu
thua, không biết kiếm đâu ra mà đọc. Trong thời đại
của nền văn minh tri thức, của bùng nổ thông tin, của
internet, vậy mà kho tàng tinh hoa của văn minh
nhân loại vẫn còn xa lạ với hầu hết người Việt, quả
là điều rất đáng tíêc, và không
thể chấp nhận được.
Do vậy mà chẳng lạ là vì sao tầm nhìn của
ngừơi Việt luôn luôn hẹp hòi, thiển cận, thiếu
sâu rộng. Nhắc lại chuyện thơ Đường, phải một thời gian
khá dài sau khi hết thời Thịnh, đến Vãn Đường rồi
các cụ của ta ở đây mới tập tành làm theo.
Trường phái hiện thực trong văn chương cũng thành
hình ở Âu Châu sau gần hai trăm năm mới đến nước ta;
vậy mà lúc ban đầu cũng bị chống đối kịch liệt. Hiện nay,
khi các trào lưu văn học thế giới hậu hiện đại
phát sinh như nấm mối ở Tây phương trong thế kỷ 20 như Cấu
Trúc, Tân Hình Thức…đã đến hồi rụi
tàn thì tại VN, nhiều người trong giới văn nghệ vẫn
còn hoang mang mù mờ và đầy nghi kỵ những
trào lưu xa lạ ấy.
Lịch sử chứng minh đã quá rõ, thực tế cuộc sống
trước mắt cũng đã dạy ta quá nhiều bài học cay
đắng và da diết. Từ phạm vi một cá nhân cho đến
toàn xã hội, thực ra đều rất cần phải thường xuyên
xem xét lại mọi tín điều, chính trị cũng như
tôn giáo, những gì trong quá khứ đang
đè nặng và cản bứơc dân tộc ta, những gì tốt
đẹp cần phải bảo vệ, phát huy, truyền bá. Không
có bất cứ vị thánh nhân hay học thuyết nào
đủ sức giải quyết mọi vấn đề của nhân loại một cách
toàn triệt và vĩnh viễn được. Thật vô lý khi
bảo Phật Thích Ca phải chịu trách nhiệm về tình
trạng kém phát triển và mất dân chủ đang
diễn ra tại Miến Điện. Cũng hơi khùng khi cho rằng nạn kẹt xe
và ngập lụt tại các thành phố lớn hiện nay
là lỗi của Adam Smith... Mỗi một học thuyết khi ra đời chỉ
có khả năng giải quyết tốt nhất những vấn đề cụ thể trong một
không gian thời gian cụ thể nào dó mà
thôi. Vượt quá cái bối cảnh thời vị đó, một
lý thuyết được xem là rất hữu hiệu ở nơi này,
có thể trở thành thảm hoạ cho nơi khác. Ý
thức một cách sâu sắc vấn đề này, luôn
có thái độ phản tỉnh, xem xét đánh
giá lại mọi vấn đề kịp thời ngõ hầu có thể đề ra
các biện pháp điều chỉnh, sửa sai, hoặc vứt chúng
đi. Không sợ hãi và phản ứng tiêu cực trước
cái mới vừa du nhập, nhưng cũng không mù
quáng đón nhận chúng mà không
dám phán đoán, phê bình.
Lại chợt nhớ một câu chuyện xưa, ông Chu Thuấn Thủy,
tôi thần nhà Minh. Do chưa hiểu cách thức “ôm
cũ sợ mới“ rất đặc biệt của người Việt, ông định đem sở
học
uyên bác của mình ra mà giúp
chúa Nguyễn dựng nên cơ nghiệp. Chúa thấy ông
Tàu này mới quá, và lạ quá,
bèn theo nếp cũ, ra lệnh giam ngay chờ ngày…chém.
May là ông Tàu này có số không
chết yểu, sau được tha. Hoảng kinh hồn vía, ông bay
luôn qua Nhật, tại đây ông được đón tiếp
khá trân trọng, kế sách kiến quốc của ông
được đem ra thi hành. Có tài liệu chép rằng
ông đã góp phần rất đáng kể vào
công cụôc canh tân Minh Trị và sự cừơng
thịnh của nước Nhật ngày nay.
Giao thừa là thời khắc mà người Việt ta đốt hương để tống
cựu nghinh tân theo truyền thống của dân tộc cả ngàn
năm qua. Thế nhưng cái cũ nào cần tiễn đưa, cái
mới nào cần đón rước vẫn là điều mà người
Việt ta vẫn còn mơ hồ, lúng túng, hoang mang, như
cả ngàn năm qua. Đón mùa xuân mới, phải
chăng đều cần thiết nhất chính là đón một
thái độ mới, một não trạng mới ?