Phác hoạ bức tranh
ẩm thực của Bình Dương xưa và nay
Hoàng Anh
“ Đói nào cũng là đói, nhưng
đói mà ăn thịt luộc và ăn bằng dao, niã thì
vẫn khác đói mà nuốt thịt sống và chỉ dùng
tay, móng và răng “
K. Marx
Thi sĩ Tản Đà từng viết : ” Đồ ăn không ngon, ăn không
ngon. Đồ ăn ngon, người ăn không ngon, ăn không ngon. Đồ ăn ngon,
người ăn ngon, chỗ ăn không ngon, ăn không ngon. Đồ ăn ngon, người
ăn ngon, chỗ ăn ngon mà lúc ăn không ngon thì ăn
cũng không ngon “. Cách nói của nhà thơ có
vẻ hơi khề khà, tựu chung, ông muốn nói rằng để có
được bưã ăn ngon khó lắm thay, nó đòi hỏi không
chỉ thức ăn, cách ăn mà còn không gian và
thời gian lúc chúng ta ăn uống nưã. Việt kiều về nước,
nhất là bà con bên Mỷ bảo ngày nay bên ấy,
đặc biệt là ở Little Sài Gòn, bạn muốn kiếm thức ăn gì
ở Việt Nam cũng có cả. Thế nhưng mỗi khi về nước, một trong những
niềm vui của họ là được ăn món ăn quê hương ngay chính
tại cảnh cũ quê nhà. Chớ sao nưã, tay không cuốn
bánh tráng cá trui, rau biền chấm nước mắm thì
phải là ngồi bên bờ suối nghe tiếng nuớc chảy rì rào,
gió đồng rượi mát, có tiếng chim cu gáy từ thôn
xóm xa xa vọng lại, mắt nhìn những cánh đồng lúa
xanh rờn lăn tăn tận chân trời xanh thẳm thì mới hết cái
thú vị đậm đà tình quê tình nước. Chớ còn
món ấy mà ăn trong một nhà hàng máy lạnh
giưã đô thành ngộp mùi công nghiệp thì
còn chi mà ngon nưã. Thế nên noí đến ẩm
thực mà không xét đến cách ăn, nơi ăn, lúc
ăn thì chưa thể gọi là đã nói hết chuyện. Nhà
văn Thạch Lam còn bảo: “ăn quà cũng là một nghệ thuật,
ăn đúng cái giờ ấy, và chọn người bán ấy mới là
sành ăn “. Có lắm người ghiền uống cà phê sáng
ở tiệm, không phải vì cà phê ở nơi ấy ngon hơn
chỗ khác, mà chính vì ghiền cái chỗ ngồi,
hay có khi lại chỉ vì nhớ cái cô bưng tách
cà phê đó thôi.
Phần này chúng tôi dành thời gian để bàn
về những chuyện tuy có vẻ bên lề nhưng thực ra là để chúng
ta thấy hết được bức tranh ẩm thực của BD.
THỜI KHẨN HOANG ( ĐẾN 1954 )
Cái công cụ đầu tiên mà con người mọi nơi trên
trái đất này dùng để đưa thức ăn vào miệng ắt
hẳn phải là ngón tay. Văn minh như dân Trung Quốc mà
vẫn ăn bốc mãi đến thời nhà Tần. Từ khi thôn tính
phương Nam, họ mới bắt đầu học cách ăn của dân bị trị mà
dùng đũa. Người Ấn thì tiếp tục duy trì truyền
thống này đến tận ngày nay và lối ăn bóc vẫn còn
là cách ăn phổ biến của nhiều bộ tộc ít người trên
thế giới.
Theo tác gỉa Pháp, ông Zeev Gourarier, vào thời
xa xưa, ở cổ đại, người ta nằm ăn và lấy tay bốc thức ăn. Mãi
đến thế kỉ thứ 12 mới có một cuộc cách mạng về tư thế trong
bưã ăn, đầu tiên trong giới vua chúa do bắt chước giới
tăng lữ ngồi trên ghế để ăn. Thức ăn đặt trên bàn, trong
khi đa số dân chúng vẫn ăn nằm hoặc ngồi bệt xuống đất hay ngồi
xổm. Đến thế kỉ 13, tư thế ngồi bàn để ăn mới trở thành phổ
biến.
Cho đến thế kỉ 15, người ta vẫn tiếp tục ăn bốc bằng tay. Cái niã,
mặc dù biết đến từ thời La Mã, chỉ xuất hiện một cách
dè dặt đầu thế kỉ 15.
Ngày nay, BD chỉ ăn tay, ăn bóc trong vài món
đặc biệt như cơm nguội mắm sống, chân gà…còn thông
thường thì ăn đũa. Ca dao xưa có câu ví von :
Thịt gà, cơm nếp, đàn bà
Cả ba thứ ấy đều là dùng tay.
Ăn thịt gà, nhất là đuì gà chiên
bơ hay nước mắm; hoặc món xí quách mà cầm đôi
đũa chông chênh thì thật là bất tiện. Thế nhưng
có món ăn cầm đuã vưà tịên vưà sạch
là cơm nguội mắm xé thì người ta phải ăn bóc mới
thưởng thức hết cái ngon cuả nó.
Nét đặc trưng trong cách ăn của một số dân tộc ở Châu
Á chính là đôi đũa. Đó là cách
ăn đặc thù xuất phát từ cư dân trồng lúa nước Đông
Nam Á cổ đại. Dân Việt ăn đũa đã lâu, có
thể tự lúc họ còn được gọi là dân Giao Châu
Giao Chỉ. Nghèo thì dùng đũa tre, giàu thì
có đũa sơn mài, đũa mun cẩn ốc. Người Hàn Quốc ngày
nay dùng đôi đũa sắt, bền nhưng có vẻ lạnh lẽo, máy
móc lắm, không thể sánh được với đôi đuã
tre của VN, tuy tầm thường mà chưá đựng biết bao nhiêu
vết tích kỉ niệm của giống nòi. Ta có thói mời
nhau cầm đủa, tức là mời ăn. Thường thì chủ mời khách.
Lớn lệnh cho nhỏ. Người quan trọng gắp trước, các người khác
gắp sau.
Ở Âu châu đến cuối thế kỉ 13 con người mới bắt đầu biết ngồi
vào bàn để ăn và việc dùng niã ( với chức
năng như đôi đuã ở châu Á)chỉ xuất hiện 300 năm
sau đó nưã.
Người châu Âu thường dùng bưã trên bàn,
người trung Hoa cũng vậy và gọi bàn là “ thồi”. Người
VN nói chung khác thế, hầu như đều ngồi trên sập, trên
ghế ngưạ, trên phản, trên giường, có khi ngay đầu
hè, trên nền nhà hoặc trãi cái chiếu ra
sân, cả nhà, chủ và khách ngồi quay quần quanh
mâm cơm. Chiếc mâm, do vậy là một khác biệt quan
trọng nhất trong cách ăn uống của chúng ta. Cái mâm
trở thành vật thiết yếu, không nhà người Việt nào
mà không có chiếc mâm. Tuổi của nó có
thể tính hàng nghìn, có khi còn có
trước cả đôi đủa.
Ngày xưa, nhất là đối với thế hệ tiên phuông,
việc ngồi ăn ở đâu không phải là vấn đề đáng để
bận tâm. Họ là những người lao động nghèo khổ, cày
sâu cuốc bẩm, chân lắm tay bùn, miễn có ăn là
qúi rồi, dám đâu mà kén chọn. Tấm thân
đã quen với bùn đất, ngồi ăn dưới đất có khi lại nghe
còn thoải mái hơn ngồi trên ghế hay bộ ván, những
nơi gò bó, tù túng chỉ thích hợp cho dịp
lễ nghi hệ trọng.
Sách Gia- Định Thông- Chí chép : “ Ở
đất Gia-Định, người Việt vẫn noi theo tập- tục của đất Giao-Chỉ…Quan chức
thì đội khăn cao cao sơn (?), mặc áo phi phong (?) mang giày
bì đà (?), sĩ thứ thì bối tóc, đi chân
trần, con trai con gái đều mặc áo ngắn tay, bâu thẳng,
may kín hai nách, không có quần, con trai thì
dùng một miếng vải cột từ lưng thẳng đến dưới háng, quanh lên
đến rốn, gọi là cái khố, đội nón lớn, hút bình
điếu, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn
ghế…”
( Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong )
Sau khi làm việc mệt nhọc, họ có thói quen kêu
nhau ơi ới rồi tụ lại ngồi ăn uống chung. Ở ngoài ruộng thì
ngồi dưới bóng cây, đồ ăn đựng trong chén dĩa bằng sành
để trên lá chuối thay thế cho chiếc mâm; điều này
có thể ảnh hưởng bởi phong tục của người Chăm mà cha ông
họ mang theo từ Bình Định, Phú Yên, nơi luôn muốn
bày tỏ lòng biết ơn Mẹ Đất đã cho mùa màng
tươi tốt.
“ Từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, xưa kia từ giàu
đến nghèo, đều dọn ăn ở dưới đất. Có trải chiếu hay không
tuỳ cảnh ngộ. Đó là theo phong tục Chiêm Thành,
và thủ nghĩ rằng : nhờ đất mới có ăn, nên phải ăn gần
đất mới có mà ăn mãi mãi “
( Quách Tấn , Nước non Bình Định )
Khi ăn họ còn nghe được tiếng chim hót véo von, tiếng
suối rì rào…Ở nhà thì ngồi trên chiếu đệm,
nhất là những đêm trăng hai ba nhà hàng xóm
già trẻ quây quần bên rỗ khoai lang, khoai mì, đậu
phọng hay hột mít, hột sầu riêng nấu chín. Lúc
đó họ ngồi xếp bằng hoặc chồm hỗm. Vào thập niên 40, khi
có chiếc máy hát dĩa thu thanh các bản vọng cổ
do Út Trà Ôn ca, hồi đó cả xóm chỉ có
một hai nhà khá gỉa mới sắm được, bà con chòm
xóm tụ lại, vừa ngồi nhai trầu bỏm bẽm, phì phèo điếu
thuốc rê hay cắn mấy củ khoai sau một ngày làm việc mệt
nhọc, vừa nghe mấy câu vọng cổ mùi mẫn thì đời thật không
vì sảng khoái bằng. Cũng có những đêm trăng sáng,
sau mấy ngày chạy vô rừng tránh bị Tây bố, họ ngồi
quay quần, người kéo đờn cò, kẻ thổi sáo, dưới chiếu
là dĩa kẹo gừng, bình trà Huế, mấy cái chén
to, họ cười vang mà hưởng những niềm vui giản dị đầm ấm của cuộc đời
trong xóm làng. Bếp lửa hồng, ngọn đèn dầu lắt lay trước
gío và ánh trăng vàng là những người bạn
gắn bó với bữa cơm của họ ngày xưa.
Mặc dù Bình Dương có nhiều ngôi nhà cổ
xưa thuộc loại đứng nhất của cả Nam Kỳ nay vẫn còn nguyên vẹn,
nhưng xét chung với dân cư nơi đây thì số ấy là
rất hiếm. Người Bình Dương hầu hết là dân nghèo
hoặc rất nghèo. Họ thường ở nhà tranh hoặc lá dừa, vách
đất hay phên tre. Cả làng mới có một hai nhà bằng
gạch. Hồi đó chưa biết phân chia nhà cửa thành
phòng ốc hẳn hoi như ngày nay, họ quen gọi nhà có
hai nơi là nhà trên và nhà dưới. Nhà
trên là nơi họ dùng để thờ cúng ông bà,
chỉ tiếp khách vào những dịp quan trọng như giỗ ngoải, cưới
xin… Nhà sau là cách gọi chỉ nhà bếp, chái
bếp. Đó là nơi họ ăn bữa cơm gia đình hay tiếp bà
con xóm giềng gần gũi. Ngồi ghế thì họ hay ngồi bộ ghế ngựa
(lọai ghế làm bằng tấm cây dài đặt trên hai chân
ở hai đầu, ba bốn người ngồi chung), hai bộ ghế ngựa để song song hai bên
chiếc bàn cây dài đặt ở giữa. Đám giỗ, họ
hay ngồi ăn xếp bằng trên giường tre hoặc bộ ván, thường để hai
bên một cái bàn chính giữa nhà để dành
cho ông bà lớn tuổi. Ngồi ăn ở dưới đất thì đàn
ông thường ngồi chồm hỏm, trên ván thì ngồi xếp
bằng. Còn đàn bà thì luôn luôn co
một chân xếp một chân. Khi ăn hay để chân không, ở
trần hoặc mặc áo bà ba, quấn khăn rằng, guốc vông. Khi
ăn đàn ông và đàn bà có thể ngồi
riêng hoặc chung nhưng ăn một lượt chớ không phân biệt
trước sau và phân biệt vị trí theo sang hèn chi
cả.
Họ cũng không phân biệt chỗ ngồi nghiêm ngặt theo tuổi
tác và vai vế. Trường hợp ngồi bàn dài thì
người ngồi ở đầu bàn là người quan trọng nhưng cũng không
phải luôn luôn như thế vì người ta e ngại sự chú
ý hay không muốn tỏ ra mình quan trọng nên thường
ngồi lẫn lộn trong bàn. Hình ảnh này dễ nhận ra nhất
trong những đám cúng đình, đám ma… cứ miễn đủ
người trong bàn là có thể ăn vui vẻ được, người miền
khác đến đây có thể khó chịu với cách tiếp
đãi khách này. Nhưng nếu ai sống ở đây một thời
gian rồi cũng sẽ quen với cảnh người ta ăn uống ồn ào, cười ha hả thiệt
là sảng khoái. Aên thế mới gọi là ăn, ăn là
lúc vui vẻ ở đời, có cần chi phải ưu tư dè dặt qúa
mà làm lãng phí cái thời khắc hạnh phúc
hiếm hoi mà trời đất đã ban cho con người.
Mâm cơm dọn ra bao giờ cũng có đồng thời nhiều món,
nhất là đám giỗ. Cách đaĩ món chỉ mới học từ
nơi khác mấy thập niên gần đây. Ăn lấy no cho
riêng mình, nhưng bưã ăn là bưã ăn chung,
chén nước mắm dùng chung…tóm lại chỉ có
đôi đũa tre và cái chén là của riêng.
Không có sự phân chia khẩu phần riêng biệt như phương
Tây.Trẻ con cũng vậy nhưng thường ăn ở nhà sau hoặc bên
chái bếp, vị trí có khác nhưng đồ ăn thì
cũng giống như của người lớn chớ không có lệ ăn đồ thừa. Họ
cũng không phân biệt con cháu nội ngoại như ở một vài
tỉnh miền Trung như Quảng Nam. Ngoài đó đám giỗ con
cháu bên ngoại được ưu tiên, đồ ăn ngon lúc nào
cũng dành đãi hết cho bên ngoại, thành thử mấy
đứa cháu nội đã cực khổ mà nhiều khi đám tiệc
xong thì đói meo vì không còn gì
để ăn.
Khi đaĩ khách cơm để luôn trong nồi chớ không bới ra
tô hoặc diã. Nồi thì thường là nồi đất, sang lắm
mới có nồi đồng, thường được để trong một cái rế đan bằng nan
tre để tránh lọ nghẹ làm bẩn nền nhà. Luôn để
sẵn đôi đũa tre to để bới cơm gọi là đũa bếp, thường ai ăn nấy
bới, nhưng đàn bà thường ngồi gần nồi cơm để thuận tiện chăm
sóc cho chồng hay bới cơm cho khách, xem như một cách
bày tỏ lòng qúy khách của chủ nhà. Mâm
nhỏ mà chứa đủ hết thức ăn nên tô dĩa thường cũng nhỏ,
thêm cái lợi nữa là đám giỗ phải chia ra nhiều
mâm, mà đồ ăn nhà nghèo lại ít nên
đựng trong tô dĩa nhỏ dễ coi hơn. Loại tô tai bèo, ở trên
loa rộng ra nhưng dưới đáy túm nhỏ lại là điển hình
của loại tô chén thời kỳ này, nay chỉ còn sử dụng
một ít ở trong đình chùa hoặc những vùng quê
xa như Vĩnh Tân, Vĩnh Trường…
Mời khách uống trà, nhà giàu khá giả
có bàn ghế gỗ xà cừ, loaị xa lông lùn có
cách đây trên nưã thế kỉ. Hơn nưã là
những bộ tràng kỉ gỗ gụ, khẩn ốc xà cừ , một loại sản phẩm
do ngành nghề truyền thống ở địa phương làm ra. Ở nông
thôn có bộ tràng kỉ bằng tre ngâm, bóng
màu ngà, mát rượi. Nhìn chung, thông thường
nhất chỉ là một cái bàn con, mấy cái ghế đơn
sơ bằng các loại cây thường như bằng lăng, sao, dâù…Ở
nhà quê, vì thường sinh hoạt bên chái nhà
nên tiếp khách bằng cái bàn mộc thường ngày
là chỗ ăn cơm. Mùi nước mắm, nước canh thắm vào gỗ bốc
lên mằn mặn, hôi hôi. Bình trà thường được
đựng trong vỏ làm bằng trái dừa khô, hoặc vỏ đan bằng
tre hay sợi lát, có lớp bông gòn bên trong
để giữ ấm được lâu hơn. Nhà giàu dùng vỏ bình
bằng gỗ sơn mài, có cẩn ốc xa cừ. Từ khi có cái
bình thủy ( cái phích ), việc pha trà tiện lợi
và đơn giản hơn, đồng thời nó cũng làm giảm đi cái
thú uống trà thanh nhã của các cụ ngày
xưa.
Đặc điểm của giai đọan này là đời sống còn nghèo
khổ, ăn chủ yếu lấy no để mà sống, dân nghèo thì
mắm muối, dân giàu thì chịu khó đi chợ mua thức
ăn về nấu nướng trong gia đình. Nhà giàu ở xa chợ thường
đi bằng xe ngựa, có người giúp việc đi theo để bưng gánh
thức ăn. Mỗi khi đi chợ còn là dịp để các bà các
cô chưng diện, mua sắm nữ trang, quần áo và ăn hàng.
Nhà nghèo lâu lâu mới bưng rổ hoặc gánh
gánh đi chợ. Thường họ mua những thứ hàng cần thiết như nhan
đèn, gạo, muối, khô, mắm… có thể để dành ăn lâu
ngày. Các bà cũng không quên mua ít
bánh trái về cho con trẻ reo mừng. Cảnh con trông mẹ
đi chợ về là vì lẽ ấy. Nhà giàu mua mắm khô
có khi cả ghe, lớp trong nhà ăn, lớp cho bọn thợ làm
công đến mùa thu hoạch. Nhà nghèo, có người
từ Bình Chuẫn phải cuốc bộ đến tận chợ Tân Ba, xa bảy tám
cây số để mua cả gánh mắm nêm về. Những người phụ nữ ấy
bây giờ nhiều người vẫn còn sống, tuy đã gìa yếu
lắm. Thấy con cháu ngày nay ăn sung mặc sướng mà lại
hoang phí, họ không thể không rầy rà, làm
cho con cháu bực mình cho rằng các cụ gìa lẩm
cẩm hay sinh tật.
Họ cũng không có quan niệm “một miếng giữa đàng bằng
một sàng xó bếp”. Nói chung, ăn uống trong gia đình
là chính, còn ăn uống trong những dịp lễ lạc hội hè
ở làng xã thì hiếm khi. Bữa cơm gia đình là
phần chính yếu, đó là lúc sum họp để chuyện trò,
dạy dỗ, bàn tán công việc, vui đùa. Vừa ăn vừa
có thể nghe máy hát đĩa, nhạc vọng cổ, đờn cò,
đờn bầu. Trong năm được đôi lần giỗ quảy, tiệc cưới, tết nhất là
được ăn ngon, còn lại thì ăn uống nói chung là
kham khổ. Lâu lâu có dịp ra chợ ăn món ăn Tàu,
hồi đó chưa có tiệm quán nhiều, các hàng
ăn người Việt thưa thớt tập trung khu vực nhà lồng chợ, chủ yếu là
hàng sạp, hàng gánh. Bà con anh em chòm
xóm cánh đàn ông lâu lâu mới tụ lại
nhậu một lần, mỗi khi bắt được con chồn, bắn được con chim, còn thì
chưa có thói kéo nhau ra quán để nhậu nhẹt.
Đến thời Pháp qua, bắt đầu xây dựng lỵ sở, trường học, chợ
búa, người ở nơi khác kéo đến mỗi ngày một đông,
có cả ngoại kiều, đời sống của cư dân địa phương bắt đầu có
nhiều thay đổi. Họ học tập được nhiều phong cách sinh hoạt mới từ
những nền văn hóa khác, tuy vẫn cố gắng giữ gìn khá
bền chặt những gía trị truyền thống của ông bà để lại,
và có nhiều việc họ còn lưu lại mãi đến thời nay
theo quan niệm : “ xưa bày nay vẽ” , không cần xét suy
ý nghĩa và gía trị của chúng ra sao. Đồng thời
với việc học tập và cải biên những điều mới mẻ ngoại lai áp
dụng vào đời sống thường ngày, đây là giai đoạn
họ phải chịu đựng nhiều cam go khốc liệt nhất. Những ngày tuy có
thiếu thốn, nghèo đói nhưng thanh bình đã trôi
qua, ruộng chưa kịp gặt, vườn chưa kịp hái, giờ đây họ phải
sống trong cảnh chiến tranh triền miên. Lớp bỏ ruộng vườn ra đi vô
khu kháng chiến, lớp ở lại thì thường xuyên chạy giặc,
tránh nạn Tây ruồng bố như cơm bữa. Nhiều năm đói kém,
hoa màu trồng cực khổ bán không ai mua vì không
ai có tiền để mua, hàng bánh gánh đi đầu thôn
cuối xóm rồi lại bưng gánh trở về. Có khi mới ra tới
chợ nghe tin có Tây đi bố, thế là quăng cả thúng
rổ qùa bánh mà lo chạy vô rừng mong cứu lấy thân.
Nghe tin Tây rút rồi, trở về lượm lại từng cái bánh
ú bánh bò lăn lóc đầu này một cái,
đầu kia một cái gom vô rổ thúng mà thui thủi đi
về nha.ø Xưa có câu thành ngữ rằng : “ Ở đất Thủ
không nhờ củ cũng nhờ khoai”, củ để ăn trong giai đoạn này là
củ chuối ( Musa ), củ nần…mọc hoang khắp nơi, cứ đào lên mà
ăn, nhưng phải biết cách chế biến khá công phu.
Để cứu đói, năm 1932, chính quyền thực dân bày
ra quán cơm thất nghiệp bán giá 7 xu mỗi xuất, sáng
cháo, chiều cơm. Những ai thất nghiệp lang thang bước vào quán
cơm này ở Lái Thiêu, chợ Thủ cũng như mọi nơi khác
đều phải trình giấy thuế thân. Vậy là chẳng ai ăn được
đến đôi ba lần và cũng chẳng bao lâu nó sập tiệm
vì chẳng ai buồn ăn…Các quán này có thể
coi là tiền thân của các quán cơm xã hội
về sau này ở chợ Búng và chợ Bình Dương.
Một số gia đình giàu có ở chợ, phần lớn là những
thành phần chịu cộng tác với Tây bắt đầu cũng tập nấu
nướng theo kiểu “ trưởng gỉa học làm sang” và bữa cơm
gia đình hoặc những khi giỗ ngoải tiếp khách là dịp hệ
trọng. Bà Đốc Phủ Biện có tài nấu nướng, món độc
chiêu nhất của bà là tôm hấp, khi dọn lên
cho khách tôm vẫn ngo ngoe râu và màu sắc
vẫn tươi xanh như khi còn sống, bà dấu nghề nên khi chết
thì món này cũng thất truyền. Bà Nguyễn Thị Bạch,
dân Phú Hòa, người có tên và hình
ảnh trong quyển Dân Ca Sông Bé hồi còn sinh tiền
kể rằng ngày xưa bà là người giúp việc trong nhà,
được bà Phủ thương yêu và tận tình chỉ dạy cho
nghề nấu nướng nhưng riêng món tôm này thì
bà nhất định không. Trước năm 75, bà Đốc Phủ Biện
thường được chính quyền mời làm giám khảo trong các
cuộc thi Nữ công gia chánh của thời ấy.
Nấu cơm thường bằng nồi đồng hoặc nồi đất, sau đổi nồi nhôm, thường
nấu củi, có thời cũng nấu bằng bột cưa, hay than, vì BD là
xứ gần rừng, nhiều củi, nhiều trại cưa, mua mạt cưa rất rẻ. Muốn nấu bằng
mạt cưa phải có cái nồi là thùng tròn bằng
sắt hay thiếc, người ta bỏ một cái chay vô giưã thùng,
đổ mạt cưa vào và nén cho thật chặt, sau đó rút
cái chay ra để tạo khoảng trống thoáng khí ở giưã
và mồi lửa đốt từ một cái lổ tròn của cái nồi
thiết đã khoét sẵn, lưả cháy âm ỉ rất lâu
và rất nóng. Cái nồi mạt cưa này giúp
cho các lò bánh bèo bánh ướt rất nhiều,
vì lửa cháy ổn định và kéo dài, không
phải tốn công chụm củi, mà giá lại rẻ. Ngày nay
nấu nồi cơm điện hoặc bếp ga, tiện lợi nhanh chóng nhưng không
bao giờ ngon bằng nấu cơm than hoặc củi hay mạt cưa như hồi trước.
Như vậy có thể hình dung lại toàn cảnh bức tranh ẩm
thực của người Bình Dương từ thời khai hoang lập ấp đến đây có
những nét chung như sau.Thời khẩn hoang, buổi đầu đến vùng đất
xa lạ nhiều gò rừng, thú dữ, không có nhiều tôm
cá và đất đai mầu mỡ như miền Tây, mọi người chắc phải
chăm lo làm lụng và cần kiệm. Chưa được bao lâu thì
giặc Pháp sang, nhiều năm loạn lạc, đời sống đại bộ phận dân
cư nói chung nghèo khổ nên cái ăn cái uống
chỉ cầu sao đủ sống. Ngoại trừ một số dân khá gỉa, những người
làm việc cho Tây, dân thị tứ là có món
ngon ở hàng quán do người Hoa nấu, còn lại thì
khô mắm mặn mòi, bữa cơm bữa khoai, rau đọt …là thức
ăn chủ yếu.
THỜI CHIẾN TRANH ( 1954_1975 )
Từ 54, BD bắt đầu có nhiều thay đổi. Sự xuất hiện của người Mỹ làm
cho không khí chung của xã hội có vẻ sôi
động, mới mẻ và cho dù là cảnh phồn hoa gỉa tạo, phải
thừa nhận rằng đời sống của mọi người vẫn có phần sung túc hơn.
Một số người nhờ chiến tranh bỗng phất lên giàu nhanh chóng,
số khác thì trắng tay vì cửa nát nhà tan.
Lại gặp thời chiến tranh, nông dân nhiều người phải bỏ ruộng vườn
về sống tạm bợ nơi đô thị, làm nhiều ngành nghề khác
nhau sống lây lắt qua ngày. Giới làm công, xe ôm
ăn uống ngòai đường, trên vỉa hè, lấy vài tờø
báo nhật trình lót thế cho chiếc mâm, cơm và
thức ăn đựng trong gà mên hoặc lon sữa gizgouz. Đồng thời với
sự xuất hiện của người Mỹ là tủ lạnh, máy xay sinh tố, đồ hộp,
ly giấy dùng một lần rồi bỏ, ống hút nhựa ( thế cho gáo
dừa ), bom, nho, kem, ya ua ….Trước đây người ta chỉ biết có
đậu đỏ bánh lọt, nước đá nhận ( nước đá bào nhuyễn
nén chặt trong cái ly con như một cái khuôn rồi
lấy ra, nước đá có hình chiếc ly, được rưới lên
ít xirô có màu xanh xanh đo đỏ trẻ con rất mê),
hay sâm bửu lượng của mấy ông các chú, giờ lại
có thêm món sinh tố nhiều màu sắc hấp dẫn. Các
xe cà rem với tiếng chuông leng keng dạo cùng thôn
xóm vẫn là hình ảnh và âm thanh vô
cùng hấp dẫn với trẻ con, nhưng lúc này chúng
còn ăn thêm kem hay ya ou. Các xe kẹo kéo,
kẹo ú kẹo gừng đã tồn tại trên mảnh đất này hàng
thế kỷ, đâu thể ngờ rằng sẽ bị biến mất không bao lâu nữa
bởi sự xuất hiện của các hộp bánh kẹo, sing gum xa lạ trên
thị trường. Qủa vậy ,theo gót giày đinh của người lính
viễn chinh Pháp rồi đến Mỹ, bao nhiêu điều mới lạ cũng theo
đến đây, tạo ra nhiều đổi thay, làm mất đi biết bao điều đã
bám cội rễ sâu xa ngỡ sẽ tồn tại mãi ngàn năm
trên đất đai này.
Con đường Phú Lợi, nhờ gần khu căn cứ Mỹ mọc lên san
sát hàng quán càfe, snackbar, lính tráng
và những cô gái mặt đầy son phấn qua lại nhan nhãn
ngoài đường, hình ảnh thiệt lạ mắt BD trước đây chưa
từng có. Sự tĩnh lặng, nề nếp của thời xưa đang dần trôi qua.
Dân tộc Việt Nam ta nói chung đã quen với cảnh chiến
tranh từ lâu. Thế nhưng thời Tây, ở đây lâu lâu
mới nghe tiếng nổ xa xa, nhiều lắm là cảnh Tây đi bắt bớ, đốt
nhà, bắn vài phát súng chỉ thiên để thị
uy hoặc rượt bắt người nào đó. Thời nay thì khác
hẳn, tiếng bom đạn là âm thanh quen thuộc mỗi ngày, và
trên các con đường là hình ảnh những đoàn
xe chở quân lính, súng ống đạn dược đi về ầm ĩ không
kể ngày đêm. Mọi người đều có tâm trạng bất an,
sống nay không biết đến ngày mai. Thế nhưng cuộc sống vẫn không
ngừng trôi đi, như từ thưở xa xưa đến giờ, dòng đời có
bao giờ ngưng nghĩ, và mọi người vẫn làm việc, vẫn ăn uống
cười vui hể hả, đúng là :
“Ta cứ vui chơi cho tới sáng,
Ngày mai ra sao rồi sẽ hay”
( Nguyễn Bính, Hành phương Nam )
Trong gia đình, khi ăn mỗi người đã ngồi ghế riêng xung
quanh cái bàn tròn ( nếp sống cá nhân đã
bắt đầu hình thành, nền văn hóa Tây phương dần
dà xâm nhập ), tuy vẫn dùng chung chén nước chấm,
bát sành đũa tre. Đàn ông đã quen với mang
dép nhựa hoặc da, phụ nữ mang guốc cao gót. Dù là
lúc ăn, việc mặc áo quần cũng được chú ý hơn xưa.
Nguyên liệu nấu nướng chủ yếu vẫn là củi, than vì xứ
này là xứ rừng, cây củi nhiều nên rẻ tiền, một số
gia đình nấu bằng mạt cưa, vỏ cây gọi là dăm, thứ này
BD có nhiều, và rất rẻ. Tuy nhiên nhiều người đã
biết sài bếp dầu, bếp điện, và tủ lạnh thay cho cái củi
mèo mộc mạc xiêu vẹo. Kiểu ăn trên bộ ván, ngồi
xếp bằng gần như chẳng còn thấy ở gia đình trung lưu miền quê.
Ngồi trên bộ ván thì phải theo tư thế xếp bằng, không
hợp với quần Tây chật chội hay mini jíup củn cởn. Hơn
nữa bộ ván gỏ ngày nay đắt tiền, đi-văn thì quá
chật, vả lại thời đô thị hoá, nhà cưả chật chôị,
không còn chỗ để kê bộ ván nưã.
Không thích dùng niã, ngoại trừ dùng niã
để ghim những miếng trái cây như dưa hấu, xoài gọt sẵn.
Gần như tuyệt đối không dùng cây dao để xắt thịt. Aûnh
hưởng của Tây phương chỉ thấy trong trường hơp ăn cơm tấm, cơm bì
vào buổi sáng. Theo ông Sơn Nam, dùng điã
trẹt và to với muỗng và niã là kiểu trình
bày gọn do người Hải Nam bày ra từ trước năm 1945, gọi cơm xào.
Người Hải Nam hồi thế kỷ 19 vì ở hải đảo gần Hương cảng đã
chọn nghề nấu bếp cho tàu buôn Tây phương, đi theo tàu
biển.
Người Hoa rất kị dùng cái muỗng cong cong, tha hồ thọc đuã
cuả nhiều người trong tô canh. “Người Pháp , người Aâu,
phép lịch sự của họ là ăn uống thật vén khéo,
ăn không cho hở môi, không cho có tiếng nhai trong
miệng, uống rượu, uống trà đều hớp miếng nhỏ, rượu nồng thế nào,
cũng nín hơi, nuốt nhẹ, vưà thanh vưà khéo, ăn
cá giấu xương…
Trái lại ta ăn sừng sực, nuốt nghe ừng ực và như vậy mới cho
là khoái khẩu, phải khè như rắn, càng nghe lớn
tiếng, không khéo lơiø khen kẻ nấu, người bán đều
khen; uống ồng ộc uống tu tu, không là thô lỗ, và
kể là mạnh uống như con nhà tướng.” Về điểm này, ta nhận
thấy người Hà Nội có cách ăn gần giống Tây, yên
tĩnh mà thanh lịch, quí phái. Người Bình Dương
mang đậm phong cách trong Nam, ồn ào, tự nhiên và
dân dã.
Năm 1810, cách dọn ăn theo kiểu Nga ra đời, học theo kiểu dọn nỗi
tiếng của Sa Hoàng Alexandre đệ nhất, theo đó trình tự
theo thực đơn, mỗi lần một món ăn được dọn ra cho tất cả thực khách.
Ngày nay ta gọi là đaĩ món.( Lê Hà, theo
Edj , SGGP 16-1-1996)
Đây là thời hòang kim của món càri gà
nấu theo kiểu Ấn Độ, trong đám giỗ nào cũng có mặt như
là món ăn chính, tương tự cái lẩu ngày
nay. Một số món ăn nấu theo lối Tây Mỹ như bò bít
tết, bò lagu, khoai lang tây xuất hiện ngày càng
nhiều. Trên chiếc mâm thiếc ở gia đình trung lưu hoặc gìau
có là tô, chén , dĩa kiểu. Khi ăn uống, người
ta bắt đầu nghe radio, cassette hoặc từ khoảng 1965, lại thêm thú
ghiền xem truyền hình, thưở ấy rất hiếm, cả làng chỉ có
một vài nhà giàu có mới mua nổi, cũng giống hệt
như cảnh ngày xưa cha ông họ mê mệt cái máy
hát dĩa. Hát bội đã hết thời, cải lương và nhạc
“vàng” rất thịnh hành. Vẫn còn người ăn trầu hút
thuốc rê, nhưng BD ít ai hút thuốc lào. Một số
người bập ống điếu, hút thuốc lá Mĩ. Thuốc lá Mĩ như
Pallmall, Salem… bán đầy trong các tủ thuốc trên đường
phố. Trẻ con nhiều đứa cũng lén cha mẹ tập hút các loại
thuốc có mùi bạc hà the the như Salem. Việc trẻ con chạy
theo những người lính Mỹ để xin đồ hộp trở thành hình
ảnh đau lòng cho những người có lòng ái quốc.
Xung quanh các địa điểm đóng quân hay doanh trại của lính
tráng Mỹ Việt thường có các tụ điểm gái làng
chơi, và cùng với nó là hàng quán
mọc lên san sát bán đủ các loại thức ăn, vùng
Lồ Ồ nổi tiếng với món phá lấu mà ông Vũ Bằng
có kể đến trong quyển Món lạ miền Nam,vùng Gò
Cầy, thành Quan có quán Cô Đơn nổi tiếng với món
cá nướng nhưng nổi tiếng nhất chắc nhờ cô chủ quán xinh
đẹp mà chưa có chồng…
Bữa cơm gia đình vẫn là bữa ăn chủ yếu, nhưng nhu cầu ăn sáng
cấp bách cho kịp giờ làm cũng dần hình thành.
Lúc này có thêm gạo Mỹ, nghe nói nhập từ
Thái Lan, gạo dẽo, bị chê nên nhà nghèo mới
ăn vì giá rẻ. Lại có thêm gạo sấy, bỏ trong bịt
nylon, chỉ cần đổ nước sôi vào gạo, đợi dăm phút là
có thể ăn được, đây là loại lương khô dành
cho lính, loại hàng Quân Tiếp Vụ bị tuồn bán ra
thị trường. Thập niên 60 cũng là lúc trong nấu nướng
bắt đầu có bột ngọt để nêm nếm. Học sinh tiểu học được cho uống
sữa bột của Mỹ mỗi tuần một đôi lần, lại phát thêm ổ bánh
mì Mỹ to tướng mà rất ngon. Giới học sinh trung học thì
nhập bọn với các anh xe ôm bốc vác kéo vào
quán cơm Xã Hội buổi trưa. Giới công chức, giáo
viên có thêm thú vui thưởng thức việc ăn uống ở
tiệm quán, nhất là vào những ngày cuối tuần hay
ngày lễ… Dân công chức, dân thày cô
giáo ngày xưa có phong cách ăn uống khá
thận trọng. Họ giữ gìn cách ăn mặc, đi đứng nói năng
sao cho phải phép, chứ không bạ đâu ăn đấy được. Thầy
giáo thì không bao giờ ngồi quán cóc lề
đường nhậu nhẹt say sưa rồi la lối om sòm đi đứng ngả nghiêng
như hình ảnh thường thấy ngày nay. Ngày thường từ thứ
hai tới thứ sáu thì không ai ăn nhậu.Trưa thứ bảy bạn
bè chọn quán thanh lịch lai rai với nhau vài chay bia
con cọp, còn gọi bia trâu. Sáng chủ nhật có mode
lái xe về Sài Gòn ăn thịt bò bít tết, bánh
patêsô ở nhà hàng như Thanh Thế, Thanh bạch, Chí
Tài, Đồng Khánh…Xong vô nhà sách Khai Trí
đường Lê Lợi tìm mua vài quyển sách mới ra. Thú
vui số một thời đó là vô rạp xem phim, thường là
hai phim chiếu chung và luân phiên nhau chiếu suốt ngày,
chỉ cần mua một cái vé là có thể ngồi suốt ngày
đêm trong rạp hát, tha hồ cho bồ bịch hẹn hò tình
tự, người nhàn rỗi thì tiêu phí bớt thì
giờ. Giàu thì vô rạp Rex, Đaị Nam… có máy
lạnh, nghèo thì vô Eden, Lê Lợi…Ai có lòng
hoài cổ thì tìm đến Casino, rạp hát từ thời Tây.
Trên trang sau các nhật báo lúc nào cũng
đầy hình ảnh quảng cáo các phim màu màn
ảnh đaị vĩ tuyền sắp chiếu. Buổi chiều, vãn tuồng cải lương hoặc phim
tan, trên đường về không quên mua vài ổ bánh
mì Sài Gòn hoặc con vịt quay đường Tôn Thọ Tường
hay ngã ba Hàng Xanh làm qùa cho người ở nhà.
Nếu không đi Sài Gòn, muốn đi quán tiệm nào
người ta phải lựa chọn cẩn thận, không khéo bị họa lây.
Người BD vẫn quen thói buôn gánh bán bưng, thích
đi dạo bán khắp nơi hơn ngồi yên một chỗ. Con đường Ngô
Quyền ở Phú Cường gần như là con đường chính đông
đúc nhất tỉnh lỵ vì nơi đây có cư xá sĩ
quan, trại lính, gần nhà thờ trường học và là
đường để lên trường Sĩ quan công binh…Vậy mà cả con đường
này không có một tiệm quán bán đồ ăn nào
ngoại trừ khu vực lề đường gần ngã ba đường Nguyễn Tường Tam ( nay
là Ngô Chí Quốc ) có hai chiếc xe bánh mì
của bà Năm Sịa và ông Sáu Láo, gánh
bánh bèo bánh ướt của bà Hai Hoa, thêm
một gánh xôi, gánh bánh canh, mỗi buổi sáng
những hàng gánh này bị vây quanh đông đúc
bán không kịp, thế nhưng chừng 8, 9 giờ thì quang cảnh
trở nên im vắng, ai bán không hết thì sớm liệu
mà lo gánh đi bán dạo.
Tuy nhiên một số người học tập cách buôn bán của
người Hoa, dần dà cũng mở tiệm. Ngoài các quán
ăn Tàu luôn chiếm vị trí chủ yếu ở phố chợ, trên
các nẻo đường chính bắt đầu có vài quán
ăn của người Việt. Quán cơm Thái Bình Dương ở chợ, quán
Chiêu Anh ở Lò Chén, tiệm phở Huỳnh Mai đường ĐoànTrần
Nghiệp, phở Minh Yến ở gần ngã tư piscine, và quán Lai
Rai gần đó…đã góp phần tạo sự rộn rịp cho quang cảnh
ẩm thực ở địa phương vốn im lìm lắng đọng mấy trăm năm nay. Tuy nhiên
thời chiến tranh, ít ai dám mở quán lớn qúa, nên
năm ba cái bàn, vài chục khách vào quán
một lượt là đã kể là đông đúc lắm rồi.
Trong các quán ăn Tàu, bồi bàn không chú
ý dung mạo và chuyện ăn mặc, chỉ cần họ nhanh chân, to
miệng là đủ, nên ngồi trong quán tiếng gọi thức ăn đồ
uống rất ồn ào, mấy anh chị phục vụ qua lại thoăn thoắt , nhưng
an tâm không có cảnh giành gái rồi đánh
lộn hay quăng lựu đạn như đôi khi xảy ra ở quán của người Việt.
Quán Chiêu Anh ở Lò Chén, quán bún
thịt nướng Ngọc Hương ở Búng, quán phở Huỳnh Mai chợ Thủ là
nạn nhân của tình trạng này.
TỪ 1975 ĐẾN 1985 :
Ngày 30 tháng 04 là một biến cố lịch sử trọng đại của
nước Việt Nam, nhưng từng người lại có những tâm trạng buồn vui
lẫn lộn khác nhau. Kẻ chiến thắng vui mừng như muốn bay lên mây
xanh, người chiến bại lo âu sợ sệt như sắp gieo mình xuống vực
sâu. Nhìn chung, đây vẫn là một ngày đại
hội lớn của cảnh đoàn viên. Những kẻ từ chiến trường trở về,
dù thắng hay bại vẫn vui mừng khôn xiết vì thoát
được cảnh binh đao chết chóc và còn gặp lại được những
người thân yêu. Có những cuộc tao phùng sau mấy
mươi năm ly biệt, có những cái bắt tay mừng rỡ của những
kẻ mới hôm qua còn rình rập bắn giết nhau trên các
chiến hào. Tiệc tùng đủ cở mở ra ngày đêm, có
khi chỉ là bữa cơm ngon trong gia đình, có khi là
buổi liên hoan ly cốc chạm nhau của những người từng là đồng
chí cùng chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ trong chốn
rừng sâu núi thẳm…
Niềm vui tràn bờ của buổi giao thời rồi cũng mau chóng trôi
qua. Sau cơn biến động của lịch sử làm xúc động sâu xa
đến tâm tư của mọi người, dân chúng lại quay về với đời
sống thường nhật của họ hơn là chuyện quốc gia đại sự. Giai đoạn này
đời sống khó khăn, gần như nhà nào cũng phải ăn độn,
cơm nấu với khoai mì, khoai lang hay bắp, có lúc phải
ăn cao lương, loại lương thực nhập của nước ngoài để chống đói.
Gạo là loại lương thực qúy, được phân phối theo tiêu
chuẩn, phần nhiều ẩm mục và nhiều sâu bọ nhưng phải chờ đợi có
khi cả ngày mới mua được. Mọi người lo trồng khoai củ, trĩa đậu…nhất
là khoai mì. Có nơi vì đói phải ăn cả
lá mì luộc bị ngộ độc. Những năm ấy sâu rầy phá
hại mùa màng xuất hiện nhiều nơi, nông dân đi phun
thuốc trừ sâu, do thiếu kinh nghiệm và hiểu biết bị ngộ độc thuốc
rất nhiều. Thực phẩm phân phối không đều nên có năm
đi đâu cũng thấy bán ghẹ, gía rẻ rề, có lúc
là bí rợ, cá biển… chất đống cao như núi. Giới
sinh viên, bộ đội phải ăn cao lương là chính, nhiều người
than nóng và bị bón, bị trĩ.
Người ta kêu gọi và khuyên bảo nhau phải hết sức cần
kiệm. Thuốc rê không có đủ hút, nên hút
xong phải để dành tàn, gọi vui là dế nhủi, khi ghiền
lấy ra vấn lại hút, giống hệt cảnh mấy ông gìa miệt U
Minh thời xưa. Thuốc lá mà cũng qúy hiếm như vậy nên
người ta bắt đầu có thói quen mời nhau điếu thuốc, “điếu thuốc
là đầu câu chuyện”, nhất là khi quan hệ với các
nhân viên giới chức chính quyền, chuyện nhỏ thì
một điếu, chuyện lớn tặng nhau gói thuốc là chuyện phải làm
trước tiên nếu muốn được việc. Trước 75 chưa có lệ mời thuốc
nhau vì hồi đó người ta mua thuốc gói để hút,
và thuốc tầm thường qúa, chẳng ai có thể lấy lòng
nhau bằng một điếu thuốc cả. Lúc này gần như người ta ăn và
uống mọi thứ tìm được, không tha gì cả. Người ta đi soi
ếch, nhái, bù tọt, mò cua, bắt ốc, rắn…Hết tát
cá, họ chuyển qua chích điện, quăng chất nổ xuống ao hồ …chỉ
một thời gian ngắn, các con rạch, mương ngày xưa cá lội
nhởn nhơ từng đàn giờ không còn con gì sống được.
Dế cơm ngày xưa bay đầy các cột đèn hay nơi có
ánh sáng, giờ bị tiêu diệt không còn một
con nào, cũng không còn cảnh chim bay từng đàn
về tổ vào lúc chiều buông, để người ta nhìn mà
biết rằng “ chim bay về tổ tối rồi”, sức hủy diệt môi sinh của con người
thật là đáng sợ!
Đám cưới, lúc ấy hay gọi đám “tuyên bố”, “tuyên
hôn” có chỗø chỉ đãi bánh ngọt, nước trà,
nhà khá hơn thì co ùđãi mặn nhưng đám
gio ãđám cưới cũng đều đãi rượu đế, sang hơn có
các loại rượu công nghiệp như rượu tiêu thực nấu bằng cồn
do các nhà máy đường sản xuất, nồng độ rất cao nên
những tay ghiền rượu uống vào cũng nhăn mặt. Rượu đế dạo này
thường pha cồn, lại nấu bằng khoai mì, rượu gạo rượu nếp chánh
gốc là hàng hiếm. Để rượu được trong, nghe đồn người nấu rượu
phải bỏ vào ít giọt thuốc rầy, rượu đã độc càng
thêm độc, nhưng biết vậy mà người ta vẫn uống va øngày
càng uống nhiều hơn, có thể vì buồn qúa, không
còn thú vì vui.
Xuất hiện cụm từ “Cửa hàng ăn uống quốc doanh”. Muốn ăn ly chè,
tô mì phải sắp hàng và nhân viên phục
vụ có quyền nạt nộ la mắng khách nếu khách lở dại làm
cho họ phật ý, mà họ thì dễ phật ý lắm! Người
sắp hàng nhiều, người bán lại chậm, nên muốn ăn được ly
chè có khi phải mất cả buổi. Người ta cũng thường chen lấn và
gây gỗ nhau, thiệt đúng cảnh “miếng ăn là miếng tồi tàn”
, đi mua mà còn tệ hơn đi xin. Tình hình lúc
đầu rất tệ hại nhưng về sau có đở hơn. Thời này quán
tiệm rất ít, các cơ sở ăn uống quốc doanh thức ăn khá
nghèo nàn và thường là chẳng ra gì. Ở
Miểu Tử Trận có quán nhậu bán các món
lòng nướng là đông khách, nhưng như đã
nói, người Bình Dương chưa có đầu óc kinh doanh,
quen buôn bán nhỏ, phục vụ không tốt nên về sau
điểm này thưa thớt dần, hiện nay còn bán nhưng vắng
khách . Các tiệm quán bình dân như thịt
vịt khu chợ Cây Dừa bắt đầu nổi lên, quán phá lấu
lòng nướng đường Hai Bà Trưng, đối diện tiệm vàng Nhật
Hưng tuy nhỏ nhưng luôn có khách và vẫn duy trì
mãi đến hôm nay.
Tình cảnh chung có vẻ ảm đạm, nhưng vì ai cũng giống
ai nên mọi người không buồn lắm. Lâu lâu có
được ít thịt cá, họ đã thấy ngon và diễm phúc
lắm rồi.
THỜI CÔNG NGHIỆP ( Từ 85 đến nay )
Từ thời kỳ Đổi Mới, đời sống dần có chuyển biến theo hướng tốt hơn,
người ta lại bắt đầu chú ý đến chuyện ăn chuyện mặc cho ngon
và đẹp hơn. Bia lên men xuất hiện, sau một thời gian qúa
dài uống rượu đế nóng cháy cổ, dân nhậu được dịp
uống bia lạnh cho đã thèm. Kèm với nó là
các món nhắm như khô, sò nướng, củ kiệu, hột vịt
bắp thảo, sau đó là thịt rừng. Bình Dương từ thưở xa
xưa đã nổi tiếng là vùng rừng rú nhưng họ ít
khi ăn thịt thú, giờ thì không chừa con gì : cheo,
nhím, heo rừng, chồn, thỏ, nai…Các quán bia lên
men với tiếp viên nữ phục vụ, hình thức bia ôm hay mại
dâm trá hình nổi lên như nấm, tập trung nhiều nhất
ở đường Thích Quảng Đức, khu tỉnh đội phường Phú Hòa.
Uống bia trái cây mà họ hay gọi vui là “bia lên
cơn” một thời gian, dân nhậu phát hoảng vì biết nó
chế biến mất vệ sinh, uống rất độc, may thay loại bia hơi cũng bắt đầu có
mặt để thay thế và bia chay cũng bắt đầu xuất hiện trở lại sau nhiều
năm vắng bóng. Đám cưới, đám giỗ, bia chay thay thế dần
cho rượu đế và ngày nay bia đã trở thành
thức uống thông dụng, dân giàu có quyền tước lại
chuyễn qua sính thứ cao cấp hơn, đó là rượu ngoại, một
chay có thể lên đến bạc triệu, bằng mấy tháng lương của
y tá hay giáoviên.
Các khu công nghiệp hình thành, đa số tổ chức
căn tin lo việc ăn uống cho công nhân viên tại nơi làm
việc, vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc và năng xuất lao động. Một số
lo khá chu đáo, nhà ăn sạch sẽ vệ sinh không thua
nhà hàng như công ty Zayaki, Spartnic, American Standard…;
số còn lại thì bữa ăn khá đạm bạc do tiền ăn chu cấp
ít ỏi như Nankang, Sinchovina…. Tội nhất là những nơi công
nhân phải ăn uống tự túc như công ty Textion, giờ cơm
trưa mạnh ai nấy tìm chỗ có bóng mát ngồi tụm
năm tụm ba mà ăn cơm đem theo, có người chỉ ăn gối xôi
hay bịch chè lót dạ. Quần tụ xung quanh các công
ty bao giờ cũng có nhiều hàng quán phục vụ bán
từ xà bông giày dép đến cà phê và
quán cơm bình dân, hàng gánh, xe đạp bán
thức ăn rất tiện di chuyển và chạy trốn mỗi khi có lực lượng
trật tự đi dọn dẹp. Phức tạp và gây cản trở lưu thông
nhiều như khu vực gần công an thị xả, trước khu công ty Hòang
Gia Cát Tường, khu công nghiệp Tân Định…
Giới công nhân nhiều nơi phải làm việc ca đêm theo
chế độ ba ca, chợ đêm nhờ vậy cũng nhộn nhịp sung túc sáng
đêm. Tập trung trươc khu vực chợ là khu ăn uống do các
xe đẩy bán đồ ăn đảm nhận. Mỗi chiếc xe bán đủ thứ thức ăn ba
miền từ phở, bún bò Huế, bún riêu đến mì
hủ tíu. Đời sống công nhân trong các khu nhà
trọ tuy đủ ăn nhưng kham khổ, phần vì không có nhiều tiền,
phần vì không có thời gian và qúa mệt nhọc
do công việc trong nhà máy nên họ ăn uống nói
chung là qua loa. Vài anh chị em chung phòng bày
thức ăn trên nền gạch, ngồi liến thoắng chuyện công ty bạn bè,vừa
nuốt vội cho qua bữa ăn.
Lực lượng công nhân viên chức đi làm có
nhu cầu ăn sáng gia tăng đã góp phần làm phát
triển các dạng quán bình dân và ăn điểm
tâm như cơm tấm, cháo lòng….Các gánh hàng
rong vào thôn xóm vẫn còn nhưng nay thêm
các xe đạp, xe ba gác chất đầy trái cây hột vịt
lộn của bà con từ phương xa đến làm ăn. Giờ đây người
ta không còn rao hàng nữa nhưng dùng máy
cassette mở nhạc inh ỏi, xe cà rem không còn bán,
thế vào là các xe kem hoặc càrem cây chớ
không còn loại càrem thẻ phải xắt ra như thời trước.
Do phải đáp ứng với yêu cầu của công việc là đảm
bảo ngày giờ công, nên người ta cần phải ăn vội, ăn nhanh,
và ăn ngon nữa, bởi bây giờ đời sống mọi người đã khá
hơn xưa, người ta thường phải ăn tiệm quán và bỏ dần bữa cơm
gia đình truyền thống. Việc học hành của học sinh thời nay cũng
rất nặng nề, ngòai giờ học ở trường, chúng phải nuốt vội bữa
cơm để lao vào các lớp học thêm. Người phụ nữ ngày
nay cũng phải làm kiếm tiền như nam giới, có khi còn
mệt hơn qúi ông vì phải đảm đương qúa nhiều công
việc, do vậy cũng không thể dành thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi
cho việc sữa soạn bữa ăn qúa công phu như trước. Việc mọi người
trong gia đình quây quần bên mâm cơm đã trở
nên thưa thớt dần. Hơn nữa, thời nay người ta còn xem bàn
ăn hay bàn nhậu là nơi để tạo mối quan hệ, bàn chuyện
làm ăn nên cũng góp phần giúp cho tiệm quán,
nhà hàng phát triển.
Nhà cửa sang trọng đẹp đẻ xây dựng khắp nơi, trong nhà
phòng ốc phân chia có thứ tự ngăn nắp đâu vào
đấy. Tiếp khách phải nơi phòng khách, ăn ở phòng
ăn, không còn cảnh tiếp khách ở nhà sau, uống nước
trà trên những cái bàn thoang thoảng mùi
thức ăn mắm muối của thời xưa. Phòng khách thường được trưng
bày rất sang trọng, có tủ kiếng, có bộ sa lông,
quạt máy… là nơi vừa mời khách uống trà, ăn nhậu
lai rai hoặc đôi khi dùng cơm. Hội chứng “ nực” là cơn
bệnh của thời đại này, nhiều người lệ thuộc vào quạt máy,
máy lạnh, khăn lạnh. Phòng làm việc phải có máy
lạnh, phòng ngủ phải có máy lạnh, toilet cũng phải lạnh.
Uống cà phê, rồi gội đầu, hớt tóc cũng phải có
máy lạnh. Thời tiết thì vẫn như bao đời nay, không chịu
ảnh hưởng của các hiệu ứng Nino bao nhiêu, nhưng quái
lạ là sao bây giờ họ nực, gìa nực, trẻ con cũng nực, phụ
nữ nực ( nên họ ăn mặc ngắn củn cỡn và trống trãi đến
không còn có thể trống trãi hơn ). Không
có cái quạt máy, cái tủ lạnh, ly trà đá,
ly bia ướp lạnh, còn gọi là Látse, thì dường như
họ sẽ chết hết.
Nhà tắm phải có bồn, không chỉ để tắm nhưng còn
để nằm ngăm trong đó như Tây mới gọi là sang, rồi lại
phải có hai vòi nước nóng lạnh khác nhau. Nhà
bếp sạch sẽ ngăn nắp, có bếp ga, nồi cơm điện, tủ lạnh, bếp lò
gạch tráng men đắt tiền. Trang bị đến vậy rồi nhưng người ta vẫn chưa
chịu tự gội cái đầu cho mình, phải đi ra tiệm. So lại với cảnh
nhà cửa chỉ mới vài năm trước đây, giờ đã khác
xa một trời một vực. Ôi còn đâu nữa hình ảnh những
cô thôn nữ múc ánh trăng vàng đổ đi, còn
đâu bếp lửa hồng con thức đêm cùng mẹ chờ đón mùa
xuân sang…
Phụ nữ không còn ai ăn trầu cau nữa ( mặc dù không
thể thiếu trầu cau trong lễ cưới), kể cả ở nông thôn. Các
vườn cau thưa thớt dần, thuốc rê cũng thay từ từ bằng thuốc điếu. Không
ai hút ống vố, thuốc lào nữa. Mà hút thuốc phải
có gạt tàn đàng hoàng, nền gạch bông tráng
men bóng nhoáng, không thể bạ đâu gạt đó
như khi xưa ở nền đất.
Trong tiệc tùng đã bắt đầu dùng chén nước chấm
riêng, muỗng nĩa riêng cho từng người. Đãi khách
khứa thì phải đãi món chớ không dọn cả mâm
như thời trước nữa.Trong cơ quan chánh quyền đãi tiệc đứng theo
kiểu buffle hay coctail của châu Âu. Thức ăn đủ loại. Khi ăn
tiếng điện thọai di động réo liên hồi. Trong đám cưới
nhạc điếc tai như tra tấn khách. Cải lương vọng cổ hết thời, bây
giờ đến những lọai nhạc gào rú kiều ráp hay hiphop
cuồng lọan của giới trẻ Mỹ. Người ta mang giày, quần áo
sang trọng tề chỉnh, ướp cả nước hoa khi ăn. Nhiều món ăn sang trọng
bỗng xuống đường chấp nhận làm thứ bình dân như món
súp cua, lại có những món lên đời từ chốn bưng
biền bước chễm chệ vào nhà hàng làm cuộc
cách mạng của những món ăn dân dã, và biến
thành những món đặc sản, đáng chú ý nhất
là những món rau, bầu luột chấm nước mắm kho quẹt…Có
lẻ khi giàu rồi, ăn thịt cá không còn thiếu món
gì đã phát ngán, lại thêm bụng phệ, người
ta chợt nhớ tới những món ăn quê hương giản dị, thanh đạm,vừa
giúp giảm cân. Các khu công nghiệp phát triển,
thu hút dân của mọi miền đất nước đến đây đã đem
theo các đặc sản quê hương của họ nên món ăn đồ
uống phát triển đa dạng phong phú...
Đám ma đám giỗ đãi to như đám cưới ngày
xưa, có khi còn to hơn. Đám cưới thường làm lễ
ở nhà xong kéo ra nhà hàng mới chiêu đãi,
ở đây người ta làm thêm buổi lễ theo cách phương
Tây, có khui rượu sâm banh, khiêu vũ, có
nhạc sống giúp vui, phần nhiều âm thanh đinh tai nhức óc,
gần như không ai nói chuyện với nhau được. Đám cưới thường
mời rất đông, trung bình cũng phải hai ba trăm người, đi đám
cưới thành một cái nạn, nhất là người thu nhập thấp như
giới giáoviên, lương ít mà lại quen biết giao thiệp
nhiều. Các nhà hàng phục vụ cho việc đãi cưới
mở ra nhiều ở khắp nơi, lớn nhất phải kể đến nhà hàng Thắng
Lợi đường Thích Quảng Đức, các điểm khác như vũ
trường Dream, Ngọc Dung, nhà hàng Bông Sen, Như Ý…
Từ 1985, đây là thời kỳ mà ẩm thực BD phát triển
rầm rộ nhất. Sau một thời gian lắng đọng khỏang chục năm, cùng với
việc đất nước đổi mới, BD bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,
quy tụ lao động từ mọi miền đất nước và chào đón khách
đầu tư từ mọi quốc gia khác nhau. Bối cảnh đó tạo điều kiện
để phát triển và đa dạng hóa, phong phú hóa
ẩm thực của BD. Giờ đây dường như đã có đủ mặt thức ăn
đặc sản hay truyền thống của cả ba miền đất nước. Có bún bì
chả, thì cũng có bún riêu và bún
bò Huế, có hủ tíu mì hoành thánh,
cũng có phở và hủ tiếu Nam Vang. Có bánh bèo
bánh ướt, thì cũng có bánh cuốn bánh canh.
Có đặc sản đồng quê như cơm thố cá kho tộ, có cả
hải sản tươi sống, giờ lại thêm thịt chó thịt mèo. Các
nhà hàng sang trọng cở vài sao như nhà hàng
Như Ý, Tân Lạc Viên, Vũ Gia hay Tây Hồ, có
nhà hàng chiếm diện tích cở khu vườn như Bách
Hương Viên, Lương Sơn Quán…Có mô hình kết
hợp giữa sự xa hoa và tính bình dân như quán
nướng Tây Hồ, quán 18…Thời đô thị , người ta lại có
khuynh hướng hoài cổ, trở về đời sống thôn dã thưở xưa,
có thể tìm đến quán Cầu Ông Cộ, quán đình
Bến Thế để thưởng thức thịt chuột đồng, thịt rắn, chim…Chưa bao giờ mà
quán tiệm ăn nhậu, nhà hàng, cà phê xuất
hiện đủ loại hình, tính chất, quy mô như ngày nay
và chúng ta cũng chưa thể hình dung hay dự đoán
được trong tương lai,với chiều hướng kinh tế phát triển như hiện nay,
chúng sẽ còn phát triển tới đâu, ra sao…
(2005)