OAN KHIÊN MỘT PHẬN NGƯỜI
(Tặng anh NGUYỄN HỮU LÂM, một người đã nằm xuống )
Hoàng Anh
Đúng như câu nói : “Hãy xin sẽ cho, hãy
tìm sẽ gặp”, sau những cố gắng tìm kiếm trong nhiều năm, cuối
cùng thì chúng tôi cũng tìm cách
liên lạc lại được với Lâm. Hôm đó, chuẩn bị bia và
một ít mồi, Tâm làm trưởng đoàn, chúng tôi
chất nhau cả đám lên xe đi thăm anh. Qua khỏi cầu Ông
Cộ, đến ngã tư Phú Thứ, quẹo trái, chạy vài cây
số nữa thì đến nhà anh. Căn nhà mới cất chưa bao lâu,
khá tươm tất, vén khéo, chứng tỏ chủ nhân đã
bỏ khá nhiều công chăm sóc. Trong nhà, ấn tượng
nổi bật là chiếc lư đồng sáng chói trên bàn
thờ, tạo nét trang nghiêm, và cũng báo cho khách
biết chủ nhà là những người mộ đạo, sùng kính
Tổ Tiên, Trời Phật. Đây là một vùng thôn
quê, êm đềm, thơ mộng trong vẻ mộc mạc, an phận của kiếp nhà
nông. Anh đang sống chung với mẹ và một người vợ trẻ, hiền hậu,
lui cui dưới bếp lo làm cơm cho chồng đãi khách.
Buổi trùng phùng, sau ba mươi năm xa cách, rất vui,
nhất là cụôc trùng phùng sau bao nhiêu thăng
trầm biến động kinh hoàng, người còn sống không hiểu tại
sao mình có thể còn sống, và không nghĩ
rằng có ngày còn gặp lại nhau.
Bia rượu lại làm tăng thêm cảm giác trào dâng
buổi hôm ấy. Người ta tranh nhau nói, kể, ôn lại những
gì đã xảy ra mấy mươi năm qua.
Lâm sinh năm 1952, là học sinh khoá 10 Trịnh Hoài
Đức , anh vào trường chỉ có năm cuối bậc trung học
(anh từ An Mỹ chuyển về). Ngay năm đầu tiên đó, anh đựoc bầu
làm Tổng Thư Ký Ban Chấp Hành Ban Đại Dịên Học
Sinh. Chỉ một năm học, nhưng để lại nhiều dấu ấn, hệ lụy sâu đậm trong
tâm hồn anh, mà có lẽ, anh đã mang theo xuống tuyền
đài, chưa tan.
Lâm học võ cổ truyền với thầy Năm Hí ở gần cầu Mới,
đường Nguyễn Tường Tam, xã Phú Cường, nay là đường Ngô
Chí Quốc. Ông Năm Hí là thầy võ có
tiếng, trong lò của ông có nhiều cao đồ, như anh Tám
Tiệm (đã mãn phần). Lâm cũng thuộc vào số môn
sinh thâm niên ở đây. Đồng môn thân thiết của
anh có Phạm Phước Tâm, nhà ở đường Ngô Quyền. Lâm
có thể hình lý tưởng cho con nhà võ, Tâm
người thấp nhỏ hơn anh nhưng bù lại rất nhanh nhẹn và sáng
dạ nên được thầy truyền cho nhiều độc chiêu hơn Lâm.
Mấy năm sau cả hai đều đi lính. Lâm ngành an ninh, Tâm
đi truyền tin. Lâm có qua Mỹ thời gian để tu nghiệp về khoá
Mưu Sinh Thoát Hiểm. Về nước, có lúc anh là giảng
viên cho các sĩ quan ngành không quân, có
vị cấp bậc thiếu tá, trung tá… Nhờ vậy tuy chỉ là thiếu
úy, Lâm có quan hệ khá tốt với các sĩ quan
trong binh chủng này.
Những tháng đầu năm 1975, Tâm đang ở Pleiku, có lệnh
triệt thoái. Tình hình rất căng thẳng và hỗn loạn.
Lâm tìm mọi cách huy động được một chiếc trục thăng lên
Pleiku đón bạn. Chiếc trực thăng quần thảo tìm cách liên
lạc với Tâm nhưng không được. Vì Lâm, viên
phi công đã liều mình đáp xuống ngay
căn cứ của Tâm thì mới biết anh đã theo đoàn người
tháo chạy rồi. Mấy tuần sau thì Tâm vượt thoát
được con đường địa ngục tả tơi về đến Nha Trang tìm gặp Lâm.
Anh ở đây ít hôm thì Lâm lại bảo phải chuẩn
bị lên máy bay về Sài Gòn. Đây là
chuyến bay cuối cùng, Lâm đã cố gắng dàn
xếp để Tâm và một số bạn cũ, trong đó có chị Nguyễn
Hữu Hiệp, chạy về từ Đà Lạt được trở lại Bình Dương.
Vào những ngày cuối của tháng tư, một buổi vừa mờ sáng
Lâm bước vào căn nhà Tâm ở đường Ngô Quyền
thúc giục Tâm nhanh chóng ra đi. Cầm cái túi
xách nhỏ, Tâm từ giã mọi người rồi bước lên
chiếc xe jeep đậu sẵn bên lề, chiếc xe lao vút đi. Lâm
chở Tâm xuống phi trường, đưa Tâm đi qua cổng, xong anh
quay trở lại vì còn phải giúp vài người khác.
Khi xong việc, quay vào thì cửa phi trường đã đóng
hoàn toàn, không còn ai có thể ra vô.
Số phận hai người bạn từ đây lạc vào những nẻo đường khác
nhau.
Do biết đôi chút về tướng pháp, quan sát sắc
diện trên khuôn mặt của Lâm, tôi lo âu nói,
nhìn khí sắc của anh, thì lục phủ ngũ tạng của anh đang
bị tổn thương nghiêm trọng lắm rồi, anh có chạy chữa gì
không. Đang vui, anh bổng buôn tiếng thở dài, nói,
có chứ, tôi đang điều trị thuốc Bắc với một thầy ở Chợ
Lớn. Rồi anh chậm rải kể cho chúng tôi nghe khoảng thời gian
dài mười lăm năm mà bạn bè không ai nhìn
thấy anh. Anh đã nếm trải tất cả những gì kinh hoàng
nhất, mà kể ra, nay có người chắc vẫn không tin nổi rằng
đó là sự thực, rằng trong cỏi người ta sao lại có những
điều như vậy, rằng ai cũng biết kiếp người phù du, mong manh, nhưng
sao những năm tháng được làm ngừơi ngắn ngủi, con người lại
đối xử với nhau khắc nghiệt như thế. Tôi hỏi nếu vậy thì làm
sao anh có thể còn sống được, anh đáp, trong những giây
phút cận kề với cái chết, lòng ham sống bỗng bùng
dậy mạnh mẽ trong tôi, và tôi nổi lên ý nghĩ
rằng bằng mọi giá mình phải sống, mình không thể
chết đựoc. Chính nhờ ý chí ấy mà tôi tồn
tại tới ngày hôm nay. Lời nói của anh làm tôi
nhớ ngay tới một người, anh Thái Phi Kích, vì sự trùng
hợp đến kỳ lạ giữa hai hoàn cảnh và hai câu nói
ấy.
Thái Phi Kích quê ở Phan Thiết, cấp bậc đại úy,
là bạn khá thân với nhà văn Y Uyên, ngày
Y Uyên chết, chính anh là người đã đến ngọn núi
định mệnh ấy để lãnh xác Y Uyên về. Thời điểm 75, khi
chuẩn bị bước xuống tàu để ra đi, anh nhớ đến người vợ trẻ, đến đứa
con thơ, đến đứa con còn nằm trong bụng mẹ, anh quyết định ở lại. Sau
đó anh chịu đựng tất cả những gì xảy đến cho anh, gần 22 năm
sau anh mới trở về. Khi anh vào Bình Dương để thăm Nguyễn Hiếu
Học và tôi, tôi hỏi làm sao anh có thể sống,
anh cũng nói giống một câu, gần nguyên văn như Lâm
đã nói. Một điều giống nhau nữa ở hai người, đó
là sự thâm trầm, bao dung, không hằn học hay cay cú,
ngựoc lại họ rất yêu đời, tha thiết, dù tất cả những nghiệt
ngã mà cụôc đời đã trùm phủ lên thân
phận của họ. Ít năm sau thì anh Kích chết. Điều an ủi
lớn nhất đời anh là người vợ chung thủy, đảm đương. Là hai
đứa con giờ đây đều thành đạt, nên người, và anh
có thể gặp lại một ít bạn bè ngày xưa.
Lâm thì không như thế, thử thách của số phận không
dừng lại khi anh trở về. Anh tiếp tục phấn đấu nhiều để xây dựng lại
tất cả, trên những đổ vỡ, chia lìa. Đáng khâm phục
là anh đã thành công, và có được
cụôc sống hạnh phúc bình dị, gỉan đơn trong lặng lẽ, như
chúng tôi đang thấy.
Từ giã anh ra về, trứơc khi chia tay tôi hẹn ngày sẽ
sớm gặp lại. Thế nhưng sau đó năm lần bảy lượt, tôi đã
không thể lên nhà anh, kể cả ngày đám tang
của anh. Tối hôm đó khi gặp nhau, nhà thơ Chu Ngạn Thư
nói tôi vừa mới đi đám ma thằng Lâm về. Tôi
sững sờ. Ngay lúc đó tôi lập tức gọi điện báo tin
cho gia đình của Tâm biết để sáng mai đi cúng đám
ma. Tâm hiện sống ở Mỹ, khá thành đạt, hiện đang làm
chủ một biệt thự rộng lớn, nguy nga. Nghe tin này, tôi biết
anh buồn lắm, nỗi buồn chắc không thể diễn tả bằng lời.
Phần tôi, tôi cứ nhớ Lâm mãi. Tôi hối tiếc
vì đã biết anh không thể sống lâu, vậy mà
cứ lần lửa mãi, cứ như mọi chuyện sẽ tồn tại y nguyên
để chờ đợi tôi. Đời sống vô thường, điều gì anh muốn làm
thì phải làm ngay đi, kẻo không kịp. Ngày mai hay
đời sau, không ai biết được cái nào sẽ tới trước. Những
lời khuyên ấy tôi thuộc nằm lòng, vậy mà làm
theo thì qúa ít. Tôi nhớ anh, hình ảnh
buổi sáng trời còn mờ tối, trong bộ quân phục gọn gàng,
trông rất oai hùng, vẻ mặt khẩn trương, ít nói,
lặng lẽ bước lên chiếc xe jeep. Tôi nhớ anh, buổi trùng
phùng ba mươi mấy năm sau. Anh vui mừng, nụ cừơi hồn nhiên như
tuổi thơ. Anh kể chuyện, giọng nói hiền hoà, đầy vẻ nhân
từ, chứa chan bao nổi niềm không thể nói hết. Giọng nói
và cách nói ấy, kết tinh của cả một một cụôc đời.
Nghe giọng nói ấy, tôi như nghe lại từng khúc phim của
đời anh. Anh cũng có một thờ trai trẻ hiếu thắng, nông nổi.
Có một thời yêu đương nồng nàn, lãng mạn, có
những lúc phụ tình và bị tình phụ. Có
những năm tháng hào hùng, mã thượng, hy sinh
lo lắng hết cho bạn bè quên cả thân mình. Có
những năm bất khuất, kiên cường, chịu đựng tất cả oan khiên để
tồn tại. Có những ngày an vui với những hạnh phúc nhỏ
nhoi, nhưng cũng vội tàn.
Vào những ngày cuối trứơc khi lìa đời, anh lại nhớ
đến mái trường Trịnh Hoài Đức, thiết
tha mong gặp một người bạn cũ, nhưng vậy mà cũng không thành.
Anh nhắm mắt trong vòng tay của H., người bạn đã học chung với
anh năm lớp 12, hy vọng cũng ấm áp lòng anh đưộc
đôi chút. Đó là đêm mùng 4 tết năm
2007.
Người Việt ta hay nói, nghĩa tử là nghĩa tận. Càng
sống, càng nhận thấy câu nói ấy quá hay. Sự bao
dung, tha thứ cần thiết cho cụôc sống của con ngừơi hơn những điều
khác. Tôi còn nhớ hai câu thơ: “Ta già đâu
để bụng. Lỗi lầm thời xa xưa.” Bài thơ diển tả cảnh một người lính
Mỹ về thăm lại địa đạo Củ Chi, gặp một người du kích già ở
chiến trường xưa, họ uống rượu đế với nhau, cười đùa vui vẻ, quên
hết hận thù.
Tôi có làm bài thơ, chép ra đây,
thay cho nén nhang thắp cho anh. Tựa bài, tạm đặt : “Sao anh
vội ra đi?”. Trích đoạn:
Rồi một hôm anh về
Với tấm thân tàn phế
Nắng vàng trên lối quê
Chim vui mừng kể lể
Ba mươi năm biền biệt
Thầm thì nói nhau nghe
Tha thứ phường gian dối
Nâng ly mừng bạn bè
Ba mươi năm biền biệt
Anh kể như chuyện chơi
Qua đêm dài tăm tối
Lại nghe lòng thảnh thơi
Tình chưa vơi nhung nhớ
Cửa nhà ai vừa mở
Cửa trần gian khép liền
Hay là anh hết nợ?
Ba mươi năm xa cách
Không làm ai chết đi
Nay ngày vui mới gọi
Anh đã vội chia ly
Vợ con anh đang khóc
Bạn bè đêm uống say
Cùng nhắc bao nhiêu ngày
Kỷ niệm nằm lăn lóc
Mùa xuân lại vừa về
Mộ anh đà xanh cỏ
Đứa con bị ruồng bỏ
Nằm giữa đồng nhớ quê.
(2008)