Nhớ về Trần Bình Dương

Hoàng Anh
(4-10-2010)


Trần Bình Dương (TBD), cùng với Chu Ngạn Thư, Lý Lan, Cát Du…thuộc thế hệ những người gốc Bình Dương và sáng tác từ sau 1975.

Sau khi giã từ nghề dạy học, anh chuyển qua nghiệp văn chương và gắn bó với chữ nghĩa cho đến ngày cuối của cuộc đời. Trần Bình Dương vừa làm thơ, vừa viết văn, và có khả năng ở cả hai thể loại. Với các bút hiệu khác nhau, anh viết nhiều, đăng rải rác trên báo và tạp chí địa phương, nay gia đình và bạn bè chỉ mới sưu tập được một ít: chưa tới hai chục truyện ngắn và bút ký, với vài bài thơ. Đó là một mất mát đáng tiếc, bởi như vậy khó lòng đánh giá văn nghiệp anh một cách đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên với  những gì may mắn còn lưu lại được, tạm đưa ra vài nhận xét về anh, tuy biết khó tránh khỏi sự phiến diện và thiếu sót.

Anh có bài thơ dài mang tính phong trào nói về tỉnh Sông Bé trong giai đoạn sau 1975, tựa đề “Khúc hát quê hương”, lãnh giải nhất về thơ trong một cuộc thi về văn học nghệ thuật ở địa phương. Bài thơ ấy làm theo thể lục bát, lời bình dị, nhưng giàu nhịp điệu, nhiều tứ thơ mới, dạt dào tình yêu quê hương, chuyển tải được khá đầy đủ và sinh động những nét tiêu biểu của vùng đất nơi anh đã sinh ra và sống trọn đời ở đấy:

“Thảo thơm người đến bên người
Múi sầu riêng tự bao đời ngát hương
Trái măng đỏ, chín bên vườn
Trắng trong bẻ nửa, tâm hồn trao nhau

Sông kia ai bắt nên cầu
Cho cau thắm đỏ, cho trầu biếc xanh
Tấm gỗ mà chạm thành tranh
Đất kia, ai lại nắn thành bình hoa…”

Ở thể thơ trào phúng, châm biếm, anh cũng có những bài rất độc đáo; giọng dí dỏm, hài hước nhưng ý tưởng phản kháng hết sức quyết liệt, cho thấy một tài năng đa dạng:

“Quan chỉ giả nhân, giả nghĩa thôi
Về hưu tình cảm mất đi rồi
Cho nên quan quyết ngồi thêm nữa
Tại chức xong…vào nghĩa địa chơi”
(Lục Cựa, Quan vẫn chưa già, 1989)

“Bởi thơ
không thể
thét gào hay đuổi đánh
những con quái vật
hôm qua
bỗng hóa kiếp thành người”
(Cung Tường Vỹ, Trần Thế Xương, 1997)

Lục Cựa, Cung Tường Vỹ là các bút hiệu khác của anh. Bài “Trần Tế Xương” mượn người xưa để nói chuyện mình, có tính tự trào, kín đáo dàn trải được tâm tư u ẩn của tác giả.  
Ở thể văn xuôi, dù là bút ký hay truyện ngắn vẫn thường lấy bối cảnh là Bình Dương, đầy ắp các địa danh, tên đường, cảnh trí nơi đây, thể hiện tình yêu thắm thiết của tác giả với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bút hiệu của anh đã thể hiện khá rõ khuynh hướng sáng tác đó. Hai bài ký tiêu biểu là “Đường Hàng Dương” và “Có ai đi chợ Bình Dương”. Bài sau đầy cảm xúc, độc giả, đặc biệt những người sống trên vùng đất này vài mươi năm trước khó ngăn được sự rung động và cùng với tác giả, thả hồn mình về những kỷ niệm đã mờ phai trong ký ức:

“Má tôi và tôi vẫn đi chợ Bình Dương. Bà lụm cụm, già nua đi tìm một thế hệ của riêng mình đã mất! Bà cứ ngỡ bây giờ đang vào phiên chợ tết, cái thời mà pháo nổ ì đùng quen tai. Ừ, pháo nổ hồi ấy vui lắm, thời của những đứa trẻ như bà vừa bịt tai đứng bên hè phố, vừa vui mừng la hét đến khản giọng”
(Trần Bình Dương, Có ai đi chợ Bình Dương hôn?, Kỷ yếu 20 năm Văn học nghệ thuật Bình Dương, nxb. Trẻ,2007, tr.540)

“Má ơi! Chợ Bình Dương rồi sẽ không còn đọng lại trong ký ức.  Nó sẽ tan đi nhẹ nhàng như khói, như sương theo tuổi già và cái chết của má, một bà già lụm cụm, nhặt nhạnh bao hình ảnh của quá khứ. Và rồi, con cũng sẽ như vậy. Mỗi thế hệ nhìn ngắm, ước mơ, hy vọng những gì thân quen gần gũi với mình qua lăng kính cuộc đời”
(Trần Bình Dương, Có ai đi chợ Bình Dương hôn?, Kỷ yếu 20 năm Văn học nghệ thuật Bình Dương, nxb. Trẻ,2007, tr.541)

Truyện ngắn của anh là sự tiếp nối dòng văn chương Nam Bộ đã được khai phá bởi các cây bút bậc thầy như Bình Nguyện Lộc và Sơn Nam. Kết cấu truyện vẫn theo lối cũ, thích dùng nhiều phương ngữ, lời lẽ ngắn gọn, giản dị. Trần thuật theo lối kể chuyện hơn là mô tả hay phân tích tâm lý chi li. Truyện nhiều biến cố, sự kiện, và thông qua đó tính cách, tâm hồn của các nhân vật dần dà được bộc lộ. Tác giả có tài dẫn chuyện, khéo chọn lọc những điều mới lạ, thú vị và biết sắp xếp các tình tiết để dựng nên nhiều tình huống bất ngờ, tạo được sự hấp dẩn, lôi cuốn người đọc. Truyện của anh là truyện nhân tình thế thái, mỗi truyện  thường chuyển tải cái nhìn của tác giả về con người và cuộc sống của nó trong một xã hội còn cách rất xa những gì con người mơ ước hay hứa hẹn. Đoạn kết truyện chưa đạt được tầm của nhà văn Sơn Nam, đường hướng sáng tác có vẻ như chưa được định hình rõ rệt. Khác với hai nhà văn tiền bối, anh tránh được lối viết luận đề như Bình Nguyên Lộc, pha trộn chất biên khảo như Sơn Nam, anh hạn chế đưa những diễn giải lý luận dông dài xen vào truyện, không khiên cưỡng bắt ép nhân vật hành động hay lập ngôn thay cho mình.

Trong số những sáng tác của anh, có vài truyện vượt hẳn lên, cho thấy một tài năng văn chương tiềm năng chưa phát huy hết: “Hồ Ly Tinh”, “Nhảy qua vòng lửa” và “Truyền thuyết nghề văn”…
“Hồ Ly Tinh” làm ta nhớ đến “Hát bội giữa rừng” của nhà văn Sơn Nam, diễn tả cảnh coi hát ở miền quê xa xăm, gánh hát nghèo xơ xác, đào kép đói khổ rách rưới, khán giả quê mùa, chất phác, đầy tình tiết khôi hài, buồn vui lẫn lộn. Truyện kết bất ngờ, ý truyện có hơi hướm triết lý, gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc:

“Thằng Tư Điển nó điên, nhưng có hai lần tỉnh. Lần thứ nhất, nó giết con Đắc Kỷ trên sân khấu mà cứ tưởng lầm là con Đắc Kỷ ngoài đời. Còn lần thứ hai nó tỉnh, khi cầm lựu đạn chọn lựa để hy sinh. Bởi lẽ, nó lầm lẫn chuyện giết Mỹ giống như trên sân khấu, chứ chẳng biết đó là chuyện cuộc đời…chẳng hiểu có phải đúng như vậy hay không?...”
(Trần Bình Dương, Nhảy qua vòng lửa, Kỷ yếu 20 năm Văn học nghệ thuật Bình Dương, nxb. Trẻ,2007, tr.566)

Trong một xã hội mà các giá trị bị đảo lộn, thiện ác khó phân, khôn ngu khó biết, thì chuyện con người hoang mang lầm lẫn giữa sân khấu và cuộc đời, giữa thực và ảo là điều khó tránh khỏi. Huống hồ chi, hành động ngây dại của anh Tư Điển, khiến gây chết người và làm mất cả mạng sống của anh lại được xem là lúc tỉnh nhứt trong đời anh, càng làm cho ta thấy sự nhập nhằng mơ hồ giữa tỉnh và điên. Trang Chu và bướm, ai hóa thành ai?

Truyện “Nhảy qua vòng lửa” gói gọn trong ba nhân vật, người huấn luyện thú trong một đoàn xiếc và hai con gấu: một già và một trẻ. Truyện có kết cục bi thảm, con gấu già vì lòng ganh tị điên cuồng đã giết chết con gấu trẻ và cắn trọng thương người huấn luyện. Sau, nó bị nhốt vào chuồng thú trong thảo cầm viên, còn chủ nó thành một gả điên. Thông điệp của truyện khá gay gắt: những kẻ đã qua thời nhưng không chấp nhận số phận của mình, cứ nắm nuối với những hào quang trong dĩ vãng và cố tình kìm hãm những tài năng mới, thậm chí sẵn sàng tìm mọi cách tiêu diệt họ, luôn đưa đến những hậu quả tồi. Bài thơ “Quan vẫn chưa già” của cùng tác giả minh họa rõ hơn ý này:

“Quan vẫn chưa già đâu, các em!!!
Ghế quan ngồi, chớ có mon men

Mắt quan-ai bảo mơ huyền mờ
Quan nhìn chỗ kín…tỉnh như bơ
Đêm đêm quan đếm tiền trong tủ
Chẳng lộn đồng xu sót một tờ…

Quan vẫn tư duy đổi mới hoài
Trong đầu quan thành tích chẳng phai
Chữ ô, dấu mốc quan còn thuộc
Hà huống chi đâu cái chữ tài…?

Ngày nào bọn tham quyền cố vị, vì đặc quyền đặc lợi cứ tìm mọi cách nhe hàm răng xếu xáo cắn chặt cái ghế của mình, bất kể liêm sĩ, coi thường an nguy lợi ích của cộng đồng còn tồn tại, thì truyện này vẫn còn giá trị. Vở kịch “Mỗi người một vai” của Lưu Quang Vũ, với những xung đột giữa các đào kép già trẻ trong một đoàn kịch cũng cùng chủ đề, nhưng truyện “Nhảy qua vòng lửa” phê phán, chỉ trích mạnh mẽ và cay độc hơn.

 Một truyện ngắn khác của Trần Bình Dương ít được nhắc đến và ít người biết, nhưng theo tôi lại là truyện có thể nói là thành công nhất của anh, cả về phương diện nghệ thuật và tư tưởng: “Truyền thuyết nghề văn”.

“Truyền thuyết nghề văn” là câu chuyện của một anh thầy giáo bỏ nghề để đi vào nghiệp văn chương, tràn trề tâm huyết với nghệ thuật nhưng uất nghẹn vì không thể bày tỏ được đúng những gì mình thật sự muốn viết:

“Y ném bút xuống bàn. Những giọt mực bắn tung tóe trên nền giấy trắng. Nhà văn là cái đếch gì nhỉ? Bản lĩnh, nghị lực, tâm huyết, chỉ là trò hề quái gở, lố lăng giữa thời đại nầy-cái thời đại mà có người ví von là thời đại của lũ sâu bọ lên làm người. Tự dưng, y muốn sủa lên như một con chó. Thà như thế, y mới có thể phóng uế ra khỏi thân người mọi bực tức, đau khổ”.

 Không bán được tác phẩm, sống nghèo túng, anh bị cái đói hành hạ. Trong hoàn cảnh khốn cùng, tuyệt vọng, vợ anh bất ngờ báo cho anh một tin vui, tác phẩm anh đã được một nhà xuất bản mua và ấn hành, gia đình anh có tiền để sinh sống và anh có thể tiếp tục thực hiện hoài bảo sáng tác, phục vụ cho cái đẹp, cho những điều cao quý mà anh hằng mơ tưởng.

“Y ngạc nhiên nhìn những người bạn đồng nghiệp. Họ đang làm nghề, họ mang dáng dấp phong cách của nhà tư tưởng, những trí thức, những kẻ sĩ của thời đại? Liệu họ có giống như y không?Họ có nhìn thấu vào quyền lực, vào tội ác, vào cái thể đang dần mục nát, tan rã kia không? Khi chọn cho mình những đề tài để viết họ có phát hiện về số phận bíêt bao con người sống dở chết dở ấy không? Y đã đọc thấy ở họ sự hiền lành, hòa nhã, hồn nhiên trước tội ác. Họ điềm nhiên  xưng tụng, ca ngợi bao sự bất công. Họ mê đắm, say sưa trong mớ tình yêu, cây cỏ hoa lá một cách trơ trẽn và tội nghiệp vô cùng.”

Thế rồi một hôm, anh tình cờ bắt gặp cảnh ngoại tình của vợ anh với tên giám đốc nhà xuất bản. Trong cơn ghen lồng lộn, anh dùng cây bút đâm vào ngực kẻ thù. Sự thật được phơi bày, người vợ của anh đã hy sinh bản thân của cô để giúp chồng, đó là sự phản bội cao cả, do vậy xiết bao trớ trêu, cay đắng. Trong một cuộc thăm dò công luận gần đây ở Trung quốc về mức độ tín nhiệm, giới đĩ điếm được dân chúng đánh giá cao hơn giới làm chính trị. Họ thấp hèn, nhưng vì hoàn cảnh phải bán trôn nuôi miệng, so với bọn văn nô  tự nguyện bán miệng nuôi trôn thì vẫn có điều đáng để cảm thông hơn:

“Mụ ấy không có tội! Cậu thử nghĩ xem: mụ ta là người đàn bà dốt nát, đem cái thể xác bán đi để cho tôi cái vinh dự trở thành nhà văn. Xét ra, mụ ấy vẫn còn cao đẹp hơn cái lũ nhà văn trí thức, tài năng như chúng ta mà lại bán rẻ linh hồn cho quỷ…ai đã nhục hơn ai?”

Kẻ thù của anh là biểu tượng cho hạng người xấu xa trong xã hội, tuy bị đâm nhưng hắn không chết, bởi ngòi bút nhỏ nhoi của nhà văn thì làm sao mà đủ sức để giết chết được phường bất nhân giả nghĩa vừa có thế, lại lắm bạc nhiều tiền.

Lồng trong cuộc đời của anh nhà văn bất hạnh này là chủ đề có tính xã hội rộng rải hơn: đó là số phận của nghiệp cầm bút và vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Người làm nghệ thuật đích thực tất yếu phải có tác phẩm nghệ thuật đích thực, nó phải hướng đến cái đẹp; mà cái đẹp, không thể tách rời sự thật và lẽ phải. Văn học là nhân học, là lương tâm của thời đại:

“Y bằng lòng, cam chịu trước sự nghiệt ngã, bi thảm của cuộc sống. Chân lý, con người, số phận và nhân nghĩa trên cuộc đời nầy rồi có lúc phải khác đi. Y cắn răng, nhẫn nhục cầm bút. Y muốn viết thật nhiều những suy tư, dằn dặt riêng tư của chính mình, chứ không muốn viết những ngôn từ của qủy”

Những điều này, lại thường đi ngược lại với mong muốn của các thế lực đen tối nhưng có quyền lực dẫy đầy nhung nhúc trong xã hội loài người, xưa cũng như nay. Nhà văn, đứng trước sự lựa chọn khắc nghiệt: Một, chống đối đến cùng cái ác để giữ thơm cho ngòi bút, đồng nghĩa với việc có thể bị trù dập, tiêu diệt; hai, thỏa hiệp với cái xấu xa độc ác để tồn tại hay trục lợi cá nhân, bất chấp tác hại mà tác phẩm của mình gây ra cho đồng loại, mỗi giọt mực là một giọt máu tanh hôi chảy thắm những tờ giấy bạc nhơ bẩn; ba, gác bút, để mặc cho điều xấu ác hoành hành, áp bức và khống chế con người.

“Nếu là nhà văn, cậu sẽ chọn mẩu con người nào để khắc họa? Xưa và nay vẫn thế! Nhà văn sẽ đồng đẳng với sâu bọ, nếu như anh ta chỉ biết ca ngợi, tâng bốc kẻ ăn cướp và lũ bán nước. Chúng vẫn là con người, nhưng đó là mẫu người của thứ văn học vị thực, giá áo, túi cơm…bọn ăn cướp và lũ bán nước sẽ có nhiều tiền để cho ai đó viết về chúng, và chúng sẽ đọc những thứ đấy! Ngược lại, còn cả khối con người mà số phận đen tối của họ, cần để chúng ta thể hiện…”

Những số phận mà nhà văn cần thể hiện, cất lên tiếng nói thay cho họ, đang ngày đêm câm lặng chịu đựng nổi bất hạnh cay đắng, lại có quá nhiều xung quanh:

“Văn học là nhân học, là lương tâm của thời đại. Y đang sống giữa một thời đại mà hàng ngày được chứng kiến biết bao cảnh đời bịp bợm ngang trái. Số phận những nhân vật của y hoàn toàn bị vây bủa bởi bóng tối. Có lúc y nhận ra, tuy còn mơ hồ, đó là thứ bóng tối của tội ác nhơ nhớp, ghê tởm. Con người quanh y phải bán mình đổi lấy từng đồng xu để được sống. Cái xã hội mà y đang hoà nhập giống như một cái tổ qủy. Bạn y-một luật sư, một nhà trí thức tên tuổi là một kẻ đầu cơ chính trị, kiêm nghề dắt gái. Học trò của y-một nữ sinh viên sống thòi lòi hai mặt, ngày đi học, đêm đến làm điếm.”

Trần Bình Dương là người cầm bút, sống bằng ngòi bút, những vấn đề nêu trên dĩ nhiên cũng là những vấn đề của chính anh, cho anh. Có thể thấy rằng, phải nghiền ngẫm lắm, trăn trở thao thức lắm anh mới có thể viết nên một câu truyện chua chát như thế.

Và chính câu truyện này đã làm cho tôi bổng nhiên suy nghĩ nhiều về anh, nhớ đến anh, với nhiều tiếc nuối, bởi vì nay thì vĩnh viễn không còn có dịp gặp anh để nói với nhau đôi điều, như xưa, những điều đáng ra phải nói.

Tôi biết đến cái tên TBD thời mở cửa, lúc văn nghệ sĩ được cởi trói. Lúc đó giới văn học xôn xao bàn tán các truyện “Tướng về hưu”, của Nguyễn Huy Thiệp, “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, “Đã đến lúc đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu…Trong bối cảnh đó, có người giới thiệu tôi cái tên TBD, một nhà văn địa phương. Khi gặp bài của anh trên báo, tôi bèn đọc một vài truyện cho biết, thấy cũng “thường thường bậc trung” thôi, chưa có gì ấn tượng lắm. Nhưng nhờ thế, tôi biết tên anh, biết anh, rồi quen nhau, vài năm sau. So với nhiều thân hữu của anh, thì mối quan hệ giữa tôi và anh không sâu sắc bằng, cho nên hiểu anh, thì chắc là nhiều người biết rõ hơn tôi.

Tuy không thâm giao, nhưng những lần gặp gỡ, chuyện trò bên tách cà phê hay ly rượu, anh có vẻ dành cho tôi nhiều mỹ cảm, và nói năng có vẻ thật tình. Những lời anh tâm sự, khi ấy tôi cảm nhận là những lời chân thật. Bây giờ anh mất, nhớ lại, tôi thầy rằng quả tình anh đã rất thật, khi ấy.

Con người anh có vẻ trầm cảm, u uất, lúc nào cũng như đang dấu kín nhiều nỗi niềm trong lòng, kể cả khi anh cười, cũng hiếm khi thấy được sự thanh thản, vô ưu. Tôi hỏi, anh bảo rằng thực ra tôi cũng muốn sống như ông, nhưng bây giờ thì chưa được, vì tôi còn mấy đứa con, tôi phải lo cho chúng nó xong. Tôi bảo rằng những người già thường nghĩ rằng mình sắp chết, kẻ trẻ tuổi lại nghĩ mình còn sống lâu, đều là những ý nghĩ sai lầm, người già có thể vẫn còn sống nhưng người trẻ lại có thể chết ngay. Đời vốn vô thường mà! Anh trầm ngâm. Lần khác, anh lại nói, tôi tiếc rằng tôi bất tài, không thể làm điều gì khác để nuôi vợ con như mấy ông nên phải đeo dính cái nghề chữ nghĩa này, cái nghề mà tôi đã quá ngán ngẩm, chán chường…
Lại nhớ một đọan văn khác của anh:

“Có thằng nhà văn nào mà không muốn được in? Nhưng in ra tác phẩm làm gì nếu như đó là những món nợ mà suốt đời không trả được? Người ta thường bảo, nhà văn là nhà tư tưởng, nhà giáo dục, mà viết lên những điều sai sự thật thì chẳng kém chi những kẻ phá hoại. Nếu tài sức hèn mọn thì nên viết dăm ba chuyện cảnh giác, hình sự, xe cán chó để sống. Còn không thì nên chọn nghề khác…”
(Truyền thuyết nghề văn)

Bây giờ anh mất rồi, mới hiểu hết được tâm trạng của anh, và những gì anh nói lúc đó. Dù cố công sưu tập, chúng tôi chỉ tìm được một phần nhỏ trong sự nghiệp sáng tác của anh. Dường như anh không muốn gìn giữ hay lưu lại điều gì. Cái nghiệp văn chương mà anh đeo đuổi từ thời thanh xuân về sau đã gây cho anh nhiều nỗi sầu dai dẳng, cay đắng, anh đã từ bỏ nó, như nhân vật trong sáng tác của anh, để giữ lại chút lương tri, khí phách kẻ sĩ, phẩm giá làm người của mình. Giọng nói anh thường chậm rải, trầm buồn, và nụ cười lúc nào cũng có vẻ héo hắt, đó là cái giá mà anh phải chịu đựng để đi trọn hành trình của một con người lương thiện, trong xã hội có quá nhiều người không lương thiện.

Đó là điều khá đáng tiếc, bởi nếu tiếp tục sáng tác, và nếu may mắn được thắp thêm lửa để thổi bùng sự say mê tìm tòi, sáng tạo, tin rằng anh sẽ viết được nhiều tác phẩm giá trị để dâng tặng cuộc đời, tặng quê nhà yêu dấu của anh, và tặng cho những phận người thầm lặng chất ngất đau thương.

Đọc lại những gì còn lưu giữ hôm nay của anh, giúp tôi tin điều đó.

Những lời này, lẽ ra ngày đó tôi phải nói với anh, anh Châu à! Sự muộn màng, là những gì chúng ta thường gặp phải trên cõi đời này, còn biết sao hơn…Thôi thì, như anh đã nói:

“Chỉ mong
những câu thơ còn lại
nhỏ nhoi
đủ làm
nhói đau
nhân thế!!!”
(Cung Tường Vỹ, Trần Tế Xương, 1997)