Người Bình Dương
Huỳnh Hoàng Anh
I. Người Bình Dương, họ là những
ai?
Khi nói về con người của đất Bình Dương, đôi khi chúng
ta bị nhầm lẫn. Vài thí dụ đơn giản như:
Bà Hồ Thị Hoa, quê quán Bình An, vợ vua Minh Mạng,
mẹ sinh ra vua Thiệu Trị.
Ông Võ Trường Toản và ba người trong Bình Dương
Thi Xã là Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh
và Lê Quang Định.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu sinh tại làng Tân Khánh,
huyện Bình Dương.
Diễn viên điện ảnh Thẫm thúy Hằng từng nổi danh là một
“Người Đẹp Bình Dương”.
Những nhân vật kể trên có phải là người Bình
Dương?
Ba tiếng “người Bình Dương” khá đơn giản và dễ hiểu.
Thế nhưng để trả lời được thế nào là người Bình Dương
thì không dễ dàng chút nào.
Ở đây có hai việc cần làm rõ, thứ nhất, Bình
Dương mà chúng ta nói đến là Bình Dương
nào, vị trí và địa giới ra sao? Thứ hai, để xác
định một cá nhân thuộc dân tộc nào, người ta không
thể chỉ căn cứ vào sinh quán hay quốc tịch, vậy xác
định một cá nhân thuộc địa phương nào trong một nước,
chúng ta sẽ căn cứ vào những tiêu chí nào?
Trước tiên, hãy bắt đầu từ địa danh Bình Dương.
Bình Dương xuất hiện sớm nhất như một đơn vị hành chánh
cấp tổng, điều này được ghi lại trong Đại Nam Nhất Thống Chí
“Năm Canh Tuất (1790) bắt đầu đắp thành Bát Quái ở trên
gò cao thôn Tân Khai, tổng Bình Dương gọi là
dinh Gia Ðịnh Kinh”. Tổng Bình Dương sau đổi thành huyện
của phủ Tân Bình, trấn Phiên An (năm 1808), thuộc thành
phố Hồ Chí Minh ngày nay. Các danh nhân như Võ
Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu… là người
ở huyện Bình Dương vừa kể.
Như vậy Bình Dương mà chúng ta muốn nói đến ắt
nhiên không phải là huyện này, mà là
vùng đất thời xa xưa có tên là Bình An.
Bình An lúc đầu là tổng (1698) thuộc huyện Phước Long.
Địa phận tổng này khá lớn, gồm gần cả Bình Dương, Bình
Long, Phước Long và quận Thủ Đức (trước khi tách quận) ngày
nay.
Từ 1808, đổi tên tổng Bình An thành huyện Bình
An, thuộc phủ Phước Long, trấn Biên Hòa. Đến năm 1834, sau khi
vua Minh Mạng chia miền Nam ra làm sáu tỉnh, thì miền
Nam thường được gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh. Bình An lúc
này thuộc về tỉnh Biên Hòa.
Đến 1837, huyện Bình An lại chia ra làm hai huyện nhỏ hơn là
Bình An và Nghĩa An. Ông Hồ Văn Bôi, làm
đến chức Chưởng Cơ và con gái là Bà Hồ Thị Hoa
(1792) sinh ra tại Long Chiểu, thuộc huyện Nghĩa An này. Vào
năm 1841, phủ Tân Bình cũng tách ra làm hai huyện
là Bình Dương (vùng Sài Gòn) và
Bình Long (vùng Hốc Môn và Củ Chi…). Một phần
đất của huyện Bình Long (Phú Hòa, Dầu Tiếng), sau thuộc
về tỉnh Bình Dương.
Từ 1862 triều đình Huế nhượng ba tỉnh miền đông là Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp (Định Tường lúc này
thuộc miền Tây.Vậy việc phân chia đông tây chỉ có
tính tương đối, mà chia thế giới thành phương đông
và phương tây cũng vậy). Với nghị định 47 ngày 14/03/1866,
Pháp tách huyện Nghĩa An (Thủ Đức) ra khỏi huyện Bình
An. Từ đây quê hương của bà Hồ Thị Hoa không
còn liên hệ chi với tỉnh Bình Dương ngày nay.
Sự kiện này, tính đến nay đã là một thế kỷ rưởi.
Năm 1869 tên Thủ Dầu Một thay thế cho Bình An và nhận
quản trị thêm tổng Dương Hòa Hạ (huyện Dầu Tiếng sau này)
từ trước thuộc Gia Định.
Từ ngày 20-12-1889, tiểu khu hành chánh Thủ Dầu Một
được đổi thành tỉnh. Đến 1953, địa giới bao gồm cả tổng Lộc Ninh,
Chơn Thành, Sông Bé, Bù Đốp…
Từ tháng 08 năm 1957, tỉnh Bình Dương được chính thức
thành lập. Các phần đất từ Chơn Thành trở lên
được tách ra để thành lập hai tỉnh mới là Bình
Long và Phước Long. Bù lại, Bình Dương nhận thêm
được 14 xã thuộc huyện Củ Chi. Đến ngày 15/10/1963, 6 xã
của huyện Củ Chi được tách ra để lập nên tỉnh Hậu Nghĩa. Bình
Dương còn lại 8 xã, lập thành quận Phú Hòa.
Đến tháng 07-1965, Bình Dương lại nhận thêm quận Phú
Giáo, thuộc tỉnh Phước Thành vừa bị xóa sổ.
Đến năm 1976, Bình Dương được sát nhập với Bình Long,
Phước Long làm thành tỉnh Sông Bé. Hai huyện Tân
Uyên, Dĩ An trước thuộc Biên Hòa, từ lúc này
thuộc về Sông Bé. Quận Phú Hòa nay thuộc về thành
phố Hồ Chí Minh.
Đến 01/01/1997, Tỉnh Sông Bé lại chia thành hai tỉnh
là Bình Dương và Bình Phước. Bình Phước
gồm hai tỉnh trước 1975 là Bình Long và Phước
Long. Phần đất còn lại thuộc Bình Dương.
Như vậy, ta nhận thấy rằng phần đất có tên Bình An đã
trải qua khá nhiều thay đổi từ tên gọi đến diện tích,
do vậy nếu truy nguyên các nhân vật lịch sử tại đây
là điều rất khó xác định chính xác. Chỉ
tính riêng diện tích của Thủ Dầu Một vào năm 1954
là 4.723 km2 và tỉnh Bình Dương năm 1975 là 2.031
km2, ta đã thấy sự sai lệch rất là đáng kể.
Từ những lý do đó, chúng tôi nghĩ rằng, khi đề
cập đến người Bình Dương, có lẽ chúng ta chỉ nên
giới hạn người ở vùng đất trên phạm vi từ khi có tên
gọi chính thức là Bình Dương và Bình Dương
hôm nay. Bởi lẽ nếu trở lại với vùng Thủ Dầu Một và Bình
An thì diện tích quá rộng lớn, nhiều nơi không
còn liên hệ chi với tỉnh Bình Dương nữa, việc truy tìm
gốc gác các nhân vật trên phạm vi bao la như vậy
là điều bất khả và thiết nghĩ cũng không hợp lý
khi gọi tất cả nhân vật trên vùng đất đó là
người Bình Dương.
Bình Dương hiện nay, và Bình Dương lúc ban đầu
có diện tích và ranh giới gần tương tự nhau. Hiện nay,
thêm được hai huyện là Tân Uyên và Dĩ An,
nhưng lại mất đi tám xã của Phú Hòa. Người sinh
ra và sống trên vùng đất Phú Hòa trong
khoảng thời gian 20 năm trước 75, nay tuy thuộc Sài Gòn, gốc
gác họ vẫn là Bình Dương. Tám xã ấy là:
1/ An Nhơn Tây
2/ Bình Mỹ
3/ Nhuận Đức
4/ Phú Hòa Đông
5/ Phú Mỹ Hưng
6/ Tân Hòa
7/ Tân Thạnh Đông
8/ Trung An.
Như vậy, có một người rất quen thuộc với dân Bình Dương
và thường được gọi là thầy Sáu (Hòa thượng Đạt
Phẩm), chuyên hốt thuốc trị bệnh tại chùa Thái Sơn, (cũng
chỉ thường gọi là chùa thầy Sáu), nay dù thuộc
thành phố Hồ Chí Minh nhưng khi nói về người Bình
Dương, vẫn phải kể đến tên ông.
Các danh nhân của Tân Uyên, Dĩ An trước đây
là niềm tự hào của người dân Biên Hòa, thì
nay dân Bình Dương cũng có thể kể về họ như Huỳnh Văn
Nghệ, Bình Nguyên Lộc, thi sĩ Đằng Phương … Ngược lại, một vài
người như Lê Văn Siêu, Hoàng Văn Bổn… huyện Vĩnh Cửu,
tuy cũng có nhiều gắn bó với mảnh đất Tân Uyên,
vẫn thuộc về Biên Hòa, là người Biên Hòa
thôi.Còn các vị như Hồ Văn Bôi, Hồ Thị Hoa… có
lẽ chúng ta nên “nhường” vinh quang ấy cho dân Thủ Đức
thì hợp lý hơn.
Điều thứ hai mà bài viết này muốn xác định tiếp
là khi nói “Người Bình Dương”, ta sẽ dựa vào
các tiêu chuẩn nào?
Nơi sinh là yếu tố quan trọng nhất, tuy nhiên, cũng như vấn
đề dân tộc, không phải là yếu tố duy nhất. Có những
người tình cờ sinh ra ở một nơi nào đó, sau di chuyển
đi nơi khác, vậy không thể kể họ là người dân của
vùng đất đó được. Ví dụ trường hợp một diễn viên
điện ảnh khá nổi tiếng hiện nay là Johnny Trí Nguyễn,
tuy sinh ra ở Bình Dương năm 1974, nhưng khó tin là
trong tâm tư, anh nghĩ Bình Dương là quê hương
của anh.
Lại có những người tuy sinh một nơi nào đó, nhưng sau
trở về Bình Dương nguyên quán gốc hoặc ngụ cư, làm
việc hay có những sự nghiệp tạo tiếng vang lớn, hoặc ảnh hưởng đến
vùng đất mới này, thì người đó cũng nên
liệt kê vào quyển Bình Dương nhân vật chí,
nếu có ai đó viết một quyển sách như thế. Nếu chấp nhận
quan điểm này, danh sách người Bình Dương sẽ có
những cái tên như Thẩm Thúy Hằng (kịch sĩ, minh tinh),
Lệ Thủy, Hồng Nga, Thanh Sang (nghệ sĩ cải lương), Huỳnh Phi Dũng (gốc Bình
Định, đang xây dựng khu du lịch Đại Nam), bác sĩ Trương Kế An,
tướng Nguyễn Bình… Nhất là Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh
Sư đoàn 5 của quân đội miền Nam trước đây, người đã
chiến đấu gần trọn binh nghiệp của mình và đã tự sát
chết trên chính vùng đất này, sao ta lại có
thể bỏ qua không nhắc đến?
Về phương diện …dâu rể của Bình Dương. Truyền thống gia đình
của người Việt xem dâu rể như con, hay ít nhất, cũng đối xử
ngang hàng với con. Tùy vào cách cư xử, các
mối quan hệ, đôi khi dâu rể được thương yêu, qúy
trọng hơn con ruột. Dâu rể của một địa phương, vì vậy không
nên phân biệt đối xử, mà cũng không nên thấy
người ta sang mà vội bắt quàng làm họ. Họ là
rể của mình, mà con gái mình họ đánh đập
mặt mũi bầm tím, sau lại bỏ vợ con nheo nhóc đi lấy vợ khác
mà. Nay vì họ nổi danh quá, đi đâu mình
cũng khoe khoang rằng đó là con rể của mình thì
có hơi bị kỳ. Ngược lại thì quá tốt, nếu dâu rể
làm rạng danh cho họ tộc, thì đáng xem như là
người trong gia đình, nói về người của một địa phương thiết
nghĩ ta cũng nên đối xử như thế. Vậy danh sách người Bình
Dương có thể kể thêm rất nhiều nhân vật chẳng hạn như
ông Lê Đức Anh (cựu Chủ tịch nước), bà Khúc Minh
Thơ (hoạt động xã hội hải ngoại), Nguyễn Đức Sơn (thi sĩ), Nguyễn
Hiếu Học (nhà nghiên cứu)…
Thêm một điều quan trọng nữa cần làm rõ, là vấn
đề chính trị. Do bối cảnh đặc biệt của nước ta ngày nay, nói
chuyện gì thì hình như cũng khó tránh
được lãnh vực này, một lãnh vực vô cùng
tế nhị, rối rắm. Giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi
nhận định đơn giản là con cái của anh, anh sanh ra mấy đứa,
thì anh có mấy đứa con, không thể gì thương ghét
mà có quyền thêm bớt. Nó có làm
du đảng, hay tên trùm lừa đảo, hay là một anh hùng,
thì chúng nó cũng vẫn là con của anh. Hơn nữa,
lịch sử luôn cần sự khách quan, công bằng, chính
xác, do vậy khi đã viết về Bình Dương, từ đất đai cho
đến con người, cần có sự công tâm. Vã lại lịch
sử nhân loại không thể chỉ ghi tên và công
trạng của những người anh hùng. Không thể chỉ có Trần
Hưng Đạo mà cần có cả Trần Ích Tắc, không chỉ
Quang Trung mà có cả Lê Chiêu Thống. Bỏ qua kẻ
mà bằng cái nhìn cá nhân của mình,
mình cho là xấu thì lịch sử sẽ giống như chiếc xe đạp
chỉ chạy một bánh, chắc chắn sẽ xiêu vẹo, lắc lư.
Vậy nói đến những người Bình Dương về chính trị và
quân sự, ta có nhiều tên tuổi để kể như Hồ Văn Mên,
Nguyễn Văn Bé, Lê Quang Lưỡng, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Quốc
Phú, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Ngọc Huy, Lâm Hòa Hiệp,
Nguyễn Văn Hào, Lâm Phương…(những tên tuổi này
nhớ đâu kể đó, không theo một trật tự và dụng ý
nào. Xin thứ lỗi)
II. Người Bình Dương xưa:
Đã xác định được phạm vi trình bày, tức ranh
giới, dù tương đối, của địa danh Bình Dương và các
tiêu chí để có thể tạm gọi một người nào đó
là người Bình Dương, thế thì người Bình Dương
xưa và nay có điều gì đáng nói không?
Bây giờ xin nói về người Bình Dương xưa. Gọi là
xưa, những người sanh trước thế kỷ 20, từng có mặt, để lại công
trình, sự nghiệp trên mãnh đất này..
Trước hết xin bắt đầu từ lịch sử. Người xưa nhất là ông Trần
Thượng Xuyên, mà nay mộ phần còn ở huyện Tân Uyên.
Công trạng của ông với miền Nam là điều đã được
khẳng định, tuy nhiên thân thế của ông có vài
điều không được rõ ràng nhưng xưa nay giới nghiên
cứu sử ít quan tâm. Ông sang Việt Nam vào năm 1679,
sau khi nhà Minh đã bị mất ngôi bởi Mãn Thanh vào
năm 1644, tức gần 35 năm sau. Ông mất vào năm 1720, so với khi
nhà Minh mất nước là 76 năm, vậy với chức vụ tổng trấn của
nhà Minh, khi đó ông bao nhiêu tuổi? Sử ta lại
ghi vào năm 1699 ông còn cầm quân ra biên
giới. Một người già như thế, chúng ta không hiểu ông
còn đủ sức lực ra đi chiến đấu hay không? Có lẽ chính
vì những nghi vấn trên, sử gia Tạ Chí Đại Trường cho
rằng có thể nhóm người này chỉ là một nhóm
hải tặc mà thôi.
Người thứ hai vẫn còn mộ phần ở phường Hiệp Thành, Thủ Dầu
Một là Đỗ Hiệp Trấn. Thân thế ông không biết rõ,
nhưng suy luận từ chức vụ của ông, có thể đoán ông
sinh ra khoảng hậu bán thế kỷ 18, khi đơn vị Trấn bắt đầu được thành
lập, và chức Hiệp Trấn được đặt ra để phụ việc cai quản cho Tổng trấn
là võ quan, dưới triều Quang Trung, hoặc nhà Nguyễn.
Bá hộ Quới (Hạ Quang Quới), ngôi mộ rất xưa nằm trong khuôn
viên ủy ban tỉnh, đã bị khai quật (khởi sự từ ngày 27-12-1985
đến 13-01-1986). Dù không biết chi về ông, có thể
đoán là người rất giàu có của thời xưa. Xin lưu
ý thêm, dòng họ Hạ ở tỉnh BD còn có Hạ
Quang Biện, tức Đốc phủ Biện, giàu có nổi tiếng ở chợ Thủ (ông
là nhạc gia của luật sư tiến sĩ Trần Văn Trai).
Nếu căn cứ vào mộ, còn có vài vị khác:
1.Trương Công Cẩn, tương truyền là vị tướng tài ba thời
nhà Nguyễn. Mộ nằm trong khuôn viên đình Bình
An, huyện Dĩ An.
2.Huỳnh Công Nhẫn, lăng nằm trong khuôn viên chùa
Thiên Phước, Lái Thiêu. Nhân dân phong tặng
ông là “Thành Hoàng bổn cảnh”
3.Hồ Văn Vui, Trung võ tướng quân, danh tướng triều Nguyễn,
lăng được xây từ năm 1818, thuộc ấp Bình Phước, xã Bình
Nhâm, Lái Thiêu. Hồ Văn Vui này, và Hồ Văn
Bôi, Hồ Thị Hoa, rất có thể có liên hệ huyết thống
với nhau.
4.Trần Văn Lân, mộ ông gọi là Mã ông Lân,
nằm tại phường Hiệp Thành, Thủ Dầu Một, khoảng trăm năm nay. Ông
là cha của ông Trần Văn Hổ, thường gọi đốc phủ Đẩu. Các
ngôi nhà cổ của Phú Cường đều có chủ nhân
là người họ Trần và một số người giàu hay nổi tiếng
khác: Trần Văn Hổ, Trần Công Vàng, Trần Văn Tề, Trần
Thị Liên (Bà bảy Lìn), Trần Công Vị (bác
sĩ), Trần Văn Trai (tiến sĩ)…Ở Bình Dương gọi là múa
cù mà không nói múa lân như những
nơi khác, có nhiều người cho rằng vì xưa kỵ húy
tên của ông Lân này.
5.Mộ công chúa chùa Ông Mõ: hai ngôi
mộ này nằm trong khuôn viên chùa Long Sơn, xã
Tân Mỹ, huyện Tân Uyên. Tương truyền vào khoảng
năm 1867, một vị quan họ Dư phò công chúa nhà
Nguyễn cùng người cháu ruột là Dư Quốc Đống (1869-1941,
ghi rõ để tránh hiểu lầm với tướng Dư Quốc Đống của quân
đội miền Nam vì sự trùng hợp tên khá kỳ lạ này)
chạy lánh nạn tại ngôi chùa Long Sơn. Họ xuất gia và
khi chết được mai táng tại đây. Năm 1977, hai ngôi mộ
của vị đại thần họ Dư và công chúa được khai quật. Ngôi
mộ của nhà sư có một xâu chuỗi. Ngôi mộ của công
chúa còn lưu lại bộ đồ tẩn liệm của triều đình và
thanh kiếm có chạm rồng. Các cổ vật này nay được giữ
tại viện bảo tàng thành phố HCM.
Dòng dõi quan lại triều Nguyễn lưu lạc vào Bình
Dương còn có câu chuyện đuợc kể bởi Huỳnh Văn Nghệ, trong
bài “Mất đồn Mỹ Lộc”. Tổng đốc Hoàng Lễ, cùng với vợ
là Huyền Cơ và con là Hoàng Hồ chỉ huy nghĩa
quân trấn thủ đồn Mỹ Lộc, giữa rừng, thuộc Mỹ Lộc, Tân Tịch,
cách không xa thị trấn Tân Uyên, xưa gọi Thủ Đồn
Sứ. Hoàng Lễ có ý hàng giặc bỏ đồn ra đi, vợ
can ngăn không được nên quyên sinh. Hoàng Hồ ở lại
đồn cầm quân kháng giặc Pháp cho đến lúc tử trận
cùng 100 nghĩa quân anh hùng. Hoàng Lễ đi giữa
đường thì bị bệnh chết trên lưng ngựa. Dân địa phương
có lập một cái miếu thờ chung hai ông bà, gọi
là miếu Bà Cơ, theo tác giả nay thuộc xã Tân
Định, đúng tại bến đò Thường Lang cũ.
Một vị làm quan lớn khác nữa có con cháu ở Bình
Dương là cụ Nguyễn Văn Hội, từng giữ chức Thượng Biện tỉnh An Giang
rồi Án Sát tỉnh Vĩnh Long với hàm Hàn Lâm
Viện Thị Giảng. Con cháu ông còn lưu giữ tờ sắc của vua
Tự Đức ban cho ông (1866) tại ngôi nhà cổ ở xã
Tân An, Thủ Dầu Một.
Người phụ nữ xưa mà đến nay được nhiều người biết tên nhất là
bà Trà. Nhà thờ tại xã Bình Chuẩn được
gọi là nhà thờ bà Trà, do cha Robert Keller xây
dựng năm 1941. Tương truyền bà là người đã truyền môn
võ có tên là võ Tân Khánh Bà
Trà nổi danh ở điạ phương. Thân thế bà không được
ghi chép trong sách sử, giai thoại thì kể rằng bà
là con gái nuôi của hai vợ chồng danh tiếng của quân
Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân.
Tháng giêng năm Tân Dậu (1861), Pháp tiến quân
đánh chiếm đồn Kỳ Hòa ở Gia Định. Phá được đồn rồi,
họ liền cho tàu theo dòng sông Sài Gòn
về tấn công đồn Thủ Dầu Một. Tại đây, dân quân ta
chiến đấu rất quyết liệt nhưng cũng như nhiều nơi khác, vũ khí
thô sơ không thể kháng cự lại địch. Báo Trắng Đen
trước năm 1975 có loạt bài viết về Bình Dương, kể rằng
vị quan chỉ huy là Bố Chánh Đức tử trận, nhiều binh sĩ khác
hy sinh. Vị võ quan này là ai không biết rõ,
và trận đánh đó ngày nay gần như không
mấy ai nhắc đến hay cố công tìm hiểu. Một trang sử oai hùng
và bi thương của quê hương đã bị đời sau hờ hững. Như
vậy đồn Thủ Dầu Một đã mất vào tay Pháp trước huyện
Bình An và tỉnh Biên Hòa gần cả năm trời.
Cũng nên đọc lại ít dòng sử cũ, trong cuộc thương lượng
giữa triều đình ta và Pháp để chuộc lại ba tỉnh miền
đông Nam kỳ : “Ông Aubaret đưa bản thảo tờ hòa ước, đại
lược nói rằng: nước Pháp trả lại ba tỉnh Gia Định, Biên
Hòa và Định Tường cho nước Nam, chỉ giữ Sài Gòn,
Mỹ Tho và Thủ Dầu Một để đóng quân.” (Trần Trọng Kim,Việt
Nam Sử Lược, nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968, tr.498)
Điều này cho thấy ngay từ buổi đầu người pháp đã nhận
ra vị thế chiến lược quan trọng của Thủ Dầu Một, như vậy cuộc chiến để giành
giựt phần đất này giữa ta và địch diễn ra ắt là phải
vô cùng quyết liệt.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, trong quyển “Mười
một tháng ở một huyện tại Nam kỳ”, dày gần 500 trang, của Lucien
Grammont, là một viên đại úy đã tham gia đánh
phá đồn Chí Hòa, sau làm Tham biện ở Thủ Dầu
Một, có bản ghi chép điều tra khẩu cung của những nhân
vật kiệt xuất kháng Pháp. Những người anh hùng này
là ai, tiếc rằng mãi cho đến hôm nay, tài liệu
đó, lạ thay, vẫn là một cổ thư quý hiếm
khó tìm gặp, nên chúng ta không trả lời
được câu hỏi này. Chúng ta tự cảm thấy có lỗi
với người xưa quá nhiều vậy.
Những nhân vật của Bình Dương trong lịch sử nay còn lưu
tên tuổi có lẽ chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ 19.
Tác giả Huỳnh Ngọc Đáng, tiến sĩ Sử Học, trong bài viết
:
“ Những người Bình Dương thi cử đỗ đạt cao dưới triều Nguyễn”,
có nêu danh sách 12 người thi đỗ cao mà ông
cho là người Bình Dương. Đọc kỹ, ta nhận thấy hầu hết họ là
người ở thôn Linh Chiểu, huyện Nghĩa An, đã thuộc về Thủ Đức
cách nay khỏang 150 năm. Tác giả lý luận: “Thôn
Linh Chiểu xưa, qua địa bạ lập thời Minh Mạng cho thấy phần lớn diện tích
thuộc xã Đông Hòa ngày nay chứ không thuộc
Thủ Đức.” ( tạp san Khoa Học Lịch Sử Bình Dương số một). Xem
lại địa bạ trên cũng như so sánh với vị trí của phường
Linh Chiểu ngày nay ở chợ Thủ Đức, cách rất xa Bình Dương,
ta thấy lập luận của tác giả chưa thuyết phục lắm. Đặc biệt, khi đối
chiếu với công trình của một tác giả khác, Phan
Đình Dũng, trong tác phẩm “Các nhà khoa bảng
xứ Biên Hòa-Đồng Nai”, ta nhận thấy các vị khoa bảng
mà Huỳnh Ngọc Đáng nêu ra đều có mặt. Trong đó
có vài vị cả hai tác giả trùng hợp nhau khi xác
định là người thuộc Bình Dương ngày nay. Chúng
tôi xin nêu tên các vị này :
1.Huỳnh Văn Tú, thôn Tân Hội, Tân Uyên, làm
quan đến chức Bố Chánh đứng đầu tỉnh Cao Bằng.
2.Phạm Tuấn, xã Bạch Đằng, Tân Uyên, đỗ năm 1821.
3.Nguyễn Duy Doãn, thôn Tân An, nay là Tân
An, làm quan tới chức Biện lý bộ Hộ.
4.Nguyễn Khiêm Hanh, thôn Tân Uyên, làm quan
Án Sát.
5.Nguyễn Khiêm Trinh, thôn Tân Uyên, đỗ cùng
khoa với anh ruột là Nguyễn Khiêm Hanh, làm Đốc học.
Trong bảng liệt kê của tác giả Phan Đình Dũng, có
thêm nhân vật mà trong bảng của Huỳnh Ngọc đáng
không có, chúng tôi cũng xin nêu ra đây
để tiện việc tham khảo cho những ai quan tâm:
-Tống Đức Hưng, người thôn Long Đức, huyện Bình An, đỗ khoa
thi Tân Tỵ, năm 1812, có lẽ là người thi đỗ đầu tiên
ở Bình Dương.
Những nhân vật mà hai tác giả xác định nguyên
quán gốc so với ngày nay không thống nhất với nhau gồm
có:
1.Nguyễn Văn Trị, thôn Linh Chiểu.
2.Nguyễn Văn Toại, thôn Linh Chiểu Đông.
3.Nguyễn Quang Khuê, thôn Bình Phú.
4.Phạm Văn Trung, thôn Linh Chiểu.
5.Trần Văn Học, thôn Linh Chiểu.
6.Võ Xuân, thôn Tân Thuận.
7.Hồ Văn Phong, thi đỗ năm Đinh Mùi (1847), Thiệu Trị năm thứ 07,
làm quan tới chức Tri Phủ (không ghi rõ điạ phương làm
quan).
Những vị chưa có sự thống nhất, sẽ cần phải tiếp tục nghiên
cứu
Trong công trình nghiên cứu về Bình Dương do Sở
Học Chánh Bình Dương chủ trì trước 75, có liệt
kê 10 danh nhân. Hầu hết gốc người Bình An, nhưng có
nhiều vị không ghi thôn, do đó chưa thể xác định
chắc chắn có phải là người Bình Dương hay không.
Danh sách đó bao gồm:
1.Hồ Văn Bôi, chức Chưởng Cơ, cha của Hồ Thị Hoa.
2.Lê Văn Tú, Chưởng Cơ.
3.Nguyễn Văn Quyền, Thống Chế.
4.Hai Chánh tổng Chinh và Lai, đóng quân kháng
Pháp tại An Thạnh, sau ông Chinh tự sát vì mộng
lớn không thành.
5.Linh mục Phêrô Đoàn Công Quý, sinh tại
Búng, tử vì đạo, được phong Thánh.
6.Phan Văn Hùm, người xã An Thạnh, Lái Thiêu,
nhà trí thức yêu nước.
7.Trần Văn Sĩ, sanh 1907 tại Phú Cường, hoạt động cách mạng
chống Pháp, chết trong nhà giam Côn Đảo.
8.Nguyễn Hòa Hiệp, sinh 1904, tại xã Phú Long, Lái
Thiêu, từng tranh cử Tổng Thống.
9.Nguyễn Văn Khôi, Nguyễn Hoàng Hạo, ông Hội Đồng Khôi
và con là Hạo người Tương Bình Hiệp, tham gia chống
Pháp. Ông Khôi bị giặc bắt và mất tích.
Ông Hạo chết vì bom Pháp tại Quéo Ba (1947).
Nếu như các nhân vật chính trị, văn hóa có
tên tuổi đã không được ghi chép đầy đủ thì
về tôn giáo, chúng ta còn biết được khá
nhiều, như, bên Phật giáo, một vài vị nổi bật có:
1.Thiền sư Khánh Long, xây cất chùa Hội Sơn trên
núi Châu Thới khoảng giữa thế kỷ 17, một trong những ngôi
chùa xưa nhất Nam bộ.
2.Thiền sư Đại Ngạn (1667-1742) xây chùa Hội Khánh (1741)
3.Hòa thượng Từ Văn (1877-1931) năm 1920 được thỉnh sang Pháp
làm lễ cầu siêu cho người Việt bị bắt đi lính cho Pháp
tử trận…
4.Nhẫn Tế thiền sư (1888-1951), sanh tại làng An Thạnh, Lái
Thiêu, người Việt Nam đầu tiên đến và tu tập tại Tây
Tạng.
Ngoài ra Bình Dương còn rất nhiều ngôi chùa
cổ như Thiên Tôn, Long Thọ, Long Hưng, Đức Sơn, Hội Sơn… được
xây dựng trong thế kỷ 18, mà tên tuổi của vị sáng
lập và các đời kế tiếp nay vẫn còn ghi chép đầy
đủ.
Một vài nhân vật khác bên đạo Công
Giáo hiện diện tại địa phương khá sớm và có nhiều
hoạt động nơi đây như:
1. Cha Pigneau de Be’haine (Bá Đa Lộc), thụ phong Giám mục
năm 1774 tại Madras, xây dựng nhà thờ đầu tiên của tổng
Bình An tại chợ Cây Me, Bình Nhâm.
2. Cha Jean Taberd cử làm cha sở Lái Thiêu từ năm 1821.
3. Cha sở Henri Aze’ma, năm 1894, khởi công xây dựng nhà
thờ Lái Thiêu. Ông cũng là người đã sáng
lập ra trường Câm Điếc Lái Thiêu (1886).
4. Thánh Quý. Cha Phêrô Đoàn Công
Quý sinh năm 1826, tại ấp Hưng Thọ, xã Hưng Định, Lái
Thiêu. Tử vì đạo và được phong Thánh.
5. Lê Bá Đảnh, nhà văn Sơn Nam kể về nhân vật này
như sau: “Từ năm 1879, tên phiêu lưu chính trị Lê
Bá Đảnh đã ngấm ngầm đóng vai con bài để cho
bọn thực dân Anh đánh sau lưng thực dân Pháp. Lê
Bá Đảnh quê ở Nghệ An, vào Thủ Dầu Một làm ăn
trở thành thầy dòng Thiên Chúa, xưng dòng
dõi nhà Lê, lúc đầu hắn được thực dân Pháp
tin cậy phong chức huyện hàm, xưng là huyện Thi hoặc Po-lux
Thi.” (Sơn Nam, Đất Gia Định, Bến Nghé Xưa, và Người Sài
Gòn, tr.366, nxb Trẻ, 2007)
Ngoài ra, một số người Pháp đã có mặt tại Bình
Dương, giữ chức vụ cao, có nhiều tội lỗi hay công trình
đóng góp cho sự phát triển của tỉnh như xây cất
chợ búa, đường xá, trường học, trung tâm giáo
dục, cũng nên ghi nhận để có thể có cái nhìn
đầy đủ về những nhân vật lịch sử trên đất Bình Dương.
Như ông Lucien Grammont, lưu lại một quyển hồi ký là
tư liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu về
Bình Dương thời người Pháp mới đặt chân qua đây.
Chúng tôi vừa trình bày một cách khái
quát và sơ lược về các nhân vật Bình Dương
thưở xưa nay còn lưu danh, hy vọng sẽ là cơ sở cho những công
trình nghiên cứu toàn diện và chi tiết hơn nhằm
phục dựng lại bức chân dung lịch sử của đất và người Bình
Dương-một bức tranh nay đã mờ phai theo lớp bụi phủ của thời gian và
có thể mất hẵn, nếu thiếu sự quan tâm của chúng ta, thế
hệ cháu con của những người đi mở cõi trên vùng
đất này.
Chủ đề Người Bình Dương viết như thế chắc là chưa làm
thỏa mãn quan điểm riêng của nhiều người. Một công trình
về người Bình Dương đầy đủ, khoa học, cần nhiều nỗ lực hơn nữa, với
sự công tâm, với quan điểm sử luận đúng đắn của người
thực hiện và một tinh thần rộng mở, bao dung về phía người
đọc./.
(8/2009)