MỐI TÌNH ĐẦU Ở VÙNG XÔI ĐẬU

Hoàng Anh
(Viết lại theo lời kể của anh Võ Minh Việt, một giáo viên kỳ cựu tỉnh Bình Dương)


    Sau khi tốt nghiệp trường Sư Phạm, anh được phân về dạy học tại một ngôi trường nằm trong vùng xa xôi mất an ninh, mà hồi đó người ta thường gọi là vùng xôi đậu. Gọi thế, vì ban ngày, lính Cộng Hòa kiểm soát tình hình. Ban đêm, họ rút vô đồn thì mấy ông Việt Cộng mò về. Thời gian đầu mới tới trường, anh nghe lòng dạ rất não nề trước quanh cảnh nơi đây. Nhà cửa nghèo nàn, thưa thớt, ngoài những cánh đồng trồng khoai, đậu… thì toàn là rừng. Con đường đất đỏ chạy ngoằn ngoèo trước ngôi trường, nắng thì bụi mù mịt, mưa thì lầy lội, những chiếc xe bò nhiều khi cũng bị lún không chạy qua được. Bên đường, lâu lâu lại thấy vài ngôi mả đá ong, cỏ lau phủ đầy trông rất quạnh hiu. Chiều xuống thì không còn thấy bóng người, nhìn ra cánh đồng, đom đóm bay đầy, tạo nên những vệt sáng chập chờn, tuy đẹp nhưng càng tăng thêm vẻ cô liêu. Lũ côn trùng, ếch nhái thì không biết bao nhiêu con mà kể, cứ hòa tấu cả đêm. Những khi ấy, anh thường lấy cây đàn ra, đàn và hát nho nhỏ một mình, lòng nhớ quắt quay ánh sánh phố thị ở khu nhà anh với bao khuôn mặt của người thân.

    Thế nhưng dạy được một thời gian thì anh dần cảm thấy yêu thích nơi này, vì ở đây anh được mọi người thương yêu, qúy mến. Mấy anh lính đề nghị buổi tối, anh nên vô trong đồn ngủ với họ cho bảo đảm hơn. Anh nghe lời, một phần vì ban đêm ở một mình, anh nghe cũng lạnh lẽo đìu hiu quá. Đêm đêm, thỉnh thoảng họ lại bày rượu thịt, mời anh cùng nhậu chung. Vài bi đông rượu đế, khui vài hộp thịt Mỹ, lâu lâu lại có mấy con chim hay thú rừng họ kiếm được ở đâu đó là đủ cho bữa nhậu xôm tụ rồi. Anh đàn Tây ban cầm cho họ hát. Giọng lính khan khan, thường sai nhịp điệu, thường là những bài nói lên nổi niềm tình anh lính chiến, thương nhớ em gái hậu phương, ước mơ ngày hòa bình giã từ vũ khí, nghe rất não lòng.


    Trong lớp, lũ học trò nhà quê cũng thương thầy lắm, thỉnh thoảng lại đem vô cho thầy trái mít hay bịt khoai, vài con chim cu chim sẻ nướng, vài trái cây rừng như trái trường, trái sim, trái gùi do chúng hái. Lúc đầu, chúng mở mắt thao láo nhìn thầy, có vẻ sợ sệt, sau quen dần, chúng lân la đến gần nói chuyện rồi từ đó quấn quít với thầy. Chúng cũng thường mời thầy tới nhà chúng chơi trong dịp giỗ quảy hay ngày nghỉ học. Hết giờ lên lớp, đứa thì chăn trâu bò, đứa thì phụ tía má việc đồng áng. Đầu tóc đứa nào cũng ươm vàng nắng, tay chân sạm mốc. Trong lớp, thằng Cò là đứa có vẻ quý mến và quyến luyến thầy nhiều nhất, và anh cũng thường lui tới nhà nó hơn nhà mấy đứa kia. Nó có người chị gái, mới gặp lần đầu anh đã thấy ưa. Chị nó cũng có vẻ có cảm tình với anh. Hai bên không có nhiều cơ hội để gặp gỡ hay tâm sự lắm đâu, nhưng tấm lòng, thì dường như đã dành cho nhau. Đến nhà, hên lắm mới gặp cô nàng vì gia đình thường nói con Hai nó đang đi làm ruộng, chạng vạng mới về, mà lúc đó thì anh đã vô đồn. Ở miền quê này, sáu giờ chiều coi như đã là buổi tối lung lắm rồi, vì khi ấy không còn ai dám đi lại nghễu ngến ngoài đường. Khi có việc cần lắm đi đâu thì phải cầm đuốc hay qươ qươ cây đèn pin. Nếu xui xẻo lỡ gặp lúc hai bên đụng độ với nhau thì chạy núp đại ở dưới gốc cây cổ thụ hay ổ gò mối nào đó, và ráng mà van vái ông bà ông vãi về phù hộ. Mà ở đây, tuy chưa có trận đánh lớn, nhưng việc chạm trán thì thường xuyên. Tối nằm ngủ, khi thì nghe tiếng súng ở nơi này, khi thì ở nơi kia. Ánh hỏa châu bay cao soi sáng vùng trời miền quê nghèo không yên ổn. Nằm ngủ mà lo lắng, chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng nghe hoài, riết rồi người ta cũng quen đi, phó mặc cho số mệnh, muốn ra thể nào thì ra.


    Vào những ngày cuối của năm đó, thằng Cò bỗng kề tai nói nhỏ với thầy là tối nay tía má nó đi ăn giỗ xa, còn có mấy chị em ở nhà, chị hai nó muốn  thầy tới nhà cho chị em nó đở sợ ma. Cơ hội chờ đợi bấy lâu nay mới tới, thầy nhận lời liền. Đêm đó, trong lúc thằng Cò và mấy đứa nhỏ anh chị em nó lo học bài hay đùa giỡn dưới ánh ngọn đèn dầu leo lét, anh với cô gái ngồi dưới gốc dừa ở bờ ao sau nhà thầm thì chuyện trò. Ánh trăng cuối năm đã nhạt dần, nhưng vẫn còn nằm vắt vẻo trên tàu lá dừa, tỏa ra ánh sánh mờ nhạt nhưng rất đẹp và đủ cho hai người còn thấy được nét mặt của nhau. Chàng mạnh dạn cầm tay nàng và bày tỏ tình yêu, cô nàng bẻn lẽn cúi đầu và co rúm người lại khi chàng khẻ hôn lên gò má của cô.


    Ngay vào lúc tình yêu như đang bùng vỡ trong lòng chàng thì có tiếng súng vang rền từ xa vọng lại. Anh biết ngay, chết rồi, đồn đã bị tấn công! Hai người chạy vội vô nhà, cô gái đưa anh chui xuống hầm ngồi chung với mấy đứa nhỏ, còn cô ta chạy thiệt lẹ ra nhà sau. Ở nhà quê, nhà nào cũng đào một hai cái hầm trong nhà hay ngoài vườn để chung xuống núp khi có đụng độ.


    Sáng sớm hôm sau, anh vội vã rời khỏi ngôi nhà. Không thấy cô gái đâu, thằng Cò tiễn thầy ra ngỏ, nó nói, từ nay thầy không gặp lại chị em nữa đâu, chị ấy là nữ du kích, kỳ này chị ấy nói bị động rồi, chị vô rừng luôn rồi, chắc không dám về sau vụ đánh đồn này nữa đâu. Tối qua, sợ thầy ở trong đồn nguy hiểm tính mạng nên tía má em đã bày ra cách ấy để cứu thầy, mong thầy thông cảm bỏ qua cho. Chị còn nói thầy ở lại mạnh giỏi, sau này nếu có dịp sẽ gặp lại.


    Về đến trường, anh vội vã thu dọn đồ đạc từ giã ngôi làng này về quê ăn tết và tình thế khi ấy khiến anh không trở lại nữa. Anh bùi ngùi chia tay với lũ học trò nhà quê cứ nhìn thầy rơm rớm nước mắt. Anh nhìn lại chúng, đứa thì mang guốc, đứa đi chân không, những bộ đồ cũ vá víu, đứa bận bà ba, đứa quần xà lỏn, phơi ra hai cái chân còm cõi đầy vết sẹo... Anh mới nói được vài câu chúc Tết rồi nghẹn ngào không nói được nữa.  Anh đi ngang ngôi đồn đã bị sụp đổ và cháy đen, khói vẫn còn bốc lên khét lẹt, mấy lớp kẽm gai bị đứt cuộn lại thành những hình thể kỳ dị. Một số người lính đã chết đêm qua, trong đó, có những người đã lo lắng và che chở cho anh, những người thường hát những khúc hát ước mơ ngày hòa bình, cả dân tộc này sẽ qua cơn mê. Xa xa trong xóm, nghe vọng lại vài tiếng pháo nổ lác đác.


    Trở về vùng bình yên, theo dõi tin tức chiến sự, anh luôn lo lắng không biết số phận cô gái mà anh đã trao tình yêu đầu đời đang ra sao, có đặng mạnh giỏi hôn. Anh mơ một ngày gặp lại, nhưng biết bao giờ! Ngày hòa bình, anh chăm chú nhìn trong số đoàn quân trở về mong gặp lại hình bóng xưa, nhưng tìm hoài mà không khi nào gặp nữa. Anh cũng hy vọng mong manh lúc nào đó có thể gặp lại thằng Cò hay những đứa học trò ngày ấy. Bây giờ tụi nó chắc lớn lắm rồi, chúng có nhận ra anh hay không thôi, chứ anh thì chắc không còn nhìn ra chúng nữa.


    Kỷ niệm ngắn ngủi nhưng lắng sâu trong lòng anh, cũng có lẽ vì những tình cảm này, anh đã gắn bó mãi với nghề dạy học. Thỉnh thoảng có dịp, anh lại kể cho bạn bè nghe câu chuyện của anh thời chiến tranh xa xưa ấy. Nay đã ngoài sáu mươi, mà anh vẫn chưa chia tay với ngành giáo dục. Nghề nào cũng có vui có buồn, nhưng chính những niềm vui nho nhỏ trong nghề, đôi khi lại giúp cho người ta yêu lấy nghề nghiệp của mình thắm thiết hơn hết thảy.


(09-12-2012)