MIỄU TỬ TRẬN
Hoàng Anh
(ngày 10-03-2011)
Trong bài vè chợ Thủ ngày xưa có đoạn:
“Nhìn bốn cây cột
Có bốn con rồng
Chữ đề ở trong
Là Miễu Tử Trận
Có đường đắp ngắn
Chạy thẳng Thành Quan
Có đường đắp ngang
Đi qua đầu dốc…” (1)
Ngôi Miễu Tử Trận như mô tả nằm trên một khoảng đất rộng
ở đầu đường Bạch Đằng; ngay tại ngã ba, quẹo phải lên trường
Sĩ Quan Công Binh, quẹo trái ngang qua Thành Quan, xưa
gọi thành Săn Đá (soldat), là hai di tích lịch
sử của tỉnh từ thời Tây còn lại. Miễu hình khối chữ
nhật, xa trông như một cái tháp cao; tọa lạc trên
khu đất rộng 90m2, nơi này trước đây là trung tâm
ấp Chánh, xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành,
tỉnh Bình Dương. Ở bên đường lên trường Công Binh
vào giữa thập niên 60 thế kỷ trước có một ngôi
chợ nhỏ kiểu tiền chế do người New Zealand xây dựng, dân địa
phương gọi là chợ Tân Tây Lan. Gần miễu có vài
chiếc xe ngựa đậu lưa thưa để chờ đưa đón khách.
Bọc xung quanh miễu là một hàng rào thấp bằng cọc
sắt, hình vòng tròn. Nền đắp khá cao, lát
gạch bông. Ở bốn mặt làm giống như nhau, đều có
lối đi lên bực tam cấp, hai bên có lan can chạm hình
rồng uốn khúc hướng mặt ra ngoài, nét điêu khắc
đơn giản chứ không tỉ mỉ giống hình rồng thường thấy trên
tranh vẻ. Trước cửa có tám cây cột tròn bằng xi
măng chạm hình rồng, hai bên cạnh vách tường lại có
khắc câu đối bằng chữ Hán chạy dọc từ trên xuống. Trên
bốn bức tường bên trong có hình bốn con vật linh theo
truyền thuyết Trung Hoa là long, lân, quy, phụng. Nóc
lợp bằng ngói ống, gần mái có chạm ba chữ “Miếu Tử
Trận”. Chung quanh có nhiều cây cao già cỗi tỏa bóng
mát, tạo cho không khí nơi đây vẻ trang nghiêm
và tĩnh lặng.
Chánh giữa miễu có một tấm bia cao 3m, rộng 1m5. Bia có
hai mặt: một, dùng để khắc tên các chiến sĩ người Việt
ở Thủ Dầu Một; mặt bên kia ghi tên những người Pháp trước
ở tỉnh này, sau cũng hy sinh trong Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918).
Thời đó, để đủ lực lượng đương đầu với Đức, vào tháng
11 năm 1915 Pháp đã ban hành lệnh tuyển người bản xứ
tại Đông Dương. Sang tháng Giêng năm sau, triều đình
Huế lại có dụ ban thưởng 80 đồng bạc Đông Dương cho những ai
nhập ngũ. Đến năm 1918, khi chiến tranh kết thúc thì đã
có tổng cộng 48.922 người dân Đông Dương làm lính
(30.425 người tại Âu châu hoặc bắc Phi), và làm
công nhân (ouvriers non spécialsés, viết tắt là
ONS, xưa gọi là lính thợ, hay công binh). Do bị xem
là có thể hình và thể lực nhỏ thó không
thich hợp để cầm súng như các chiến binh Phi châu giống
như người Senegal, Algeria...hầu hết người Việt Nam bị đưa vào làm
những công việc nặng nhọc vất vả như làm công nhân
cầu đường, xây đắp chiến lũy hay xưởng chế tạo đạn dược. Khi tàn
cuộc chiến, kể cả lính và thợ, có 1.548 người, trong
số này nhiều người là dân Thủ Dầu Một, đã hy
sinh cho nước Pháp. Theo các vị bô lão xưa còn
nhớ thì người Pháp cho xây cất ngôi miễu này
vào khoảng năm 1922, để tỏ lòng tri ân những người Việt
và số người Pháp ở địa phương đã chết vì đất
nước của họ.
Hàng năm, vào ngày lễ Các Thánh 1-11,
người Pháp tổ chức trọng thể lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong có
sự tham dự của viên quan chủ tỉnh (Chef de province, trước năm 1899
gọi là Chánh tham biện) người Pháp và 12 Hương
chức hội tề địa phương. Quân nhạc sắp thành hai hàng
hòa tấu bản nhạc truy hồn tử sĩ và kết thúc bằng nghi
thức đặt vòng hoa do đích thân chủ tỉnh hành lễ.
Năm 1964, ngôi miễu được sửa sang lại, tên tuổi các
chiến sĩ Việt-Pháp trên tấm bia bị xóa đi; ba chữ “Miễu
Tử Trận” sửa lại thành “Đài Chiến Sĩ”. Từ đó hàng
năm, cũng ngày 1-11, lúc bấy giờ gọi là ngày
Quốc Khánh, chính quyền cũng tổ chức lễ truy điệu, nhưng cho
vong hồn những chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến tranh đương thời.
Trước miễu, cũng trong giai đọan này, có đặt một cái
thùng, bên trong để một cái vô tuyến truyền hình
(tivi). Ban ngày khóa lại, chiều tối thì mở ra cho
dân xung quanh đến coi. Hồi đó truyền hình còn
rất hiếm, cả xóm chỉ vài nhà khá giả mới có,
để được vô nhà họ lại rất khó khăn nếu không phải
là bà con quen biết. Vì vậy có một cái
truyền hình công cộng cho coi tự do thì dân chúng
rất thích nên ban đêm, nơi đây trở thành
tụ điểm giải trí tập trung khá đông người. Xung quanh
miễu mát mẻ, lại rộng rãi, ban ngày trẻ con trong xóm
thường kéo đến chơi đùa uyên náo, cảnh tươi vui,
hiền hòa và cũng khá nên thơ. Mặc dù thỉnh
thoảng bọn trẻ con lại giật mình vì tiếng đại bác từ
trường Công Binh gần đó vọng lại.
Sau 1975 được vài năm, ngôi miễu bị đập bỏ, nhưng vẫn còn
chừa lại phần nền có bốn lối đi với tám con rồng chạm hai
bên như đang bò xuống tìm lối thoát. Vài
năm sau nữa thì phần nền này cũng bị phá bỏ hoàn
toàn. Nay nơi đó là một công viên, không
còn dấu vết chi của hình bóng cũ, những người mới đến
Bình Dương những năm về sau này ngơ ngác khi có
ai nhắc đến tên ngôi Miễu Tử Trận. Với những người sinh sống
lâu năm ở thị xả Thủ Dầu Một thì trái lại, Miễu Tử Trận
là một hình ảnh khá thân quen. Có lần,
nhớ đến ngôi miễu nay không còn, người viết cảm tác
mấy câu thơ:
Miếu cổ vươn cao ở cuối đường
Cây xanh toả bóng thoảng trầm hương
Bao hồn tử sĩ về nương náu
Bốn phương thân xác vùi sa trường
Miếu cổ bây giờ là công viên
Rồng vút bay rồi đất hết thiêng
Sống phải xa quê chết xa mộ
Nay biết tìm đâu một cõi riêng?
Mặc dù đã bị đổi tên từ năm 1964, nhưng dân địa
phương vẫn gọi theo tên cũ là “Miễu Tử Trận” mà không
biết đến tên mới của nó. Có phải vì vậy chăng
mà đến ngày 20-08-1973, Đại tá tỉnh trưởng là
ông Nguyễn Văn Của đã cho làm lễ đặt viên đá
đầu tiên khởi công xây dựng một Đài Tử Sĩ mới tại
ngả ba gần trường trung học Võ Minh Đức ở Phú Thọ hiện nay.
Đồ án xây cất do Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam và Nguyễn
Văn Minh thiết kế. Đài có hình một bát nhang
đường kính 4m55, với ba cây nhang cao 15m75 tỏa hình
trên nền trời. Đây là biểu tượng của lòng biết
ơn đối với những người đã nằm xuống, vừa có thể hiểu là
dấu hiệu của tam tài (thiên, địa, nhân), hay ba yếu tố
thiên thời, địa lợi, nhân hòa; hoặc ba đức tính
cần có của người quân tử là nhân, trí, dũng…tùy
theo ý thích hay sự suy diễn của mỗi người. Ngã ba này
từ đó được dân chúng gọi là ngã ba Cây
Nhang. Công trình được khánh thành vào
ngày 02-11 năm 1973 và cũng chung số phận với Đài Tử
Sĩ cũ, nó đã bị đập bỏ và san bằng sau 1975 không
bao lâu.
Điều đáng nói thêm là có một ngôi
miễu tương tự với Miễu Tử Trận, nhưng không phải ở Việt Nam mà
nằm ở tận Paris, nước Pháp.Thời xưa, nó được gọi là
Hoài Nam Nghĩa Sĩ Miếu.
Ngôi miễu này nằm ở khu vực vành đai Paris (đường 45bis,
đại lộ Belle-Gabrielle, ở Nogent-sur-Marne), trong một vườn hoa rộng 4,5
mẫu, nơi được ví là buồng phổi của Paris (Le jardin tropical
du Bois de Vincennes).
Vài tài liệu ở Việt Nam có đề cập đến công trình
này:
_Trong bài “Hành cung Tây cống” của bác sĩ Dương
Đình Hùng, đăng trên số báo xuân Tuổi Trẻ
năm Kỷ Mão, 1999, trang 31, có những đoạn như sau:
“Trong thời kỳ lệ thuộc chắc không có ông vua nào
tỏ lòng “trung hiếu” bằng vua Khải Định. Để được Tây tin mình
hơn và thương đứa con duy nhất của mình…như con nuôi
của Tây, năm 1922 Đông Cung Thái Tử Bảo Đại được gửi đi
Pháp để nhờ cha cố Tây uốn nắn, lo cho phần hồn. Độc đáo
hơn, để tham dự hội chợ các nước thuộc địa tại thành phố cảng
Marselle, miền Nam nước Pháp cũng vào năm ấy, ông vua
Khải Định có ý tưởng độc đáo, muốn chơi trội hơn
các anh bạn châu Phi, Trung Đông, Hải Đảo…ông cho
chở nguyên cả một hành cung cùng theo với mình,
trước là tham dự sau là “Cống Tây”
“Đó là một hành cung lộng lẫy, một kiến trúc
lớn được nghiên cứu và thực hiện cực kỳ tỉ mỉ hơn bất cứ kiến
trúc cung điện nào ở Huế, một cung điện lớn bằng nhà
hát lớn Sài Gòn về bề ngang cũng như chiều dọc, tưởng
như cao gấp cả hai lần những kiến trúc cùng loại trong nội
thành Huế. Muốn có được một công trình như vậy
chắc chắn vua Khải Định đã tuyển chọn những nghệ nhân xuất sắc
nhất cả nước từ mấy năm trước ngày đêm đục đẽo chạm trổ. Gỗ
quí thì khỏi nói rồi, phải đẹp và trường thọ
với thời gian.
Tất cả công trình ấy được tháo rời, cùng với
các nghệ nhân, cùng một êkíp thợ nề, thêm
các tay khắc họa…xuống tàu đi Tây dự hội chợ các
chư hầu đế quốc Pháp, khai mạc ngày 22-05-1922. Triển lãm
xong, như dự định, vua Khải Định biếu hành cung cho Tây. Đương
nhiên Tây thích lắm, khen sáng kiến của vua An Nam,
phục trí thông minh và bàn tay khéo léo
của nghệ nhân xứ Việt.
Một thời gian sau, tất cả “hành cung cống Tây” ấy được chuyển
về dựng lại tại khu rừng Vincennes ở Paris.”
Thế nhưng những mô tả về ngôi hành cung chỉ là
những gì tác giả được nghe nói lại, bởi khi ông
đến nơi thì nó đã bị cháy rụi vài năm
trước đó:
“Khi tôi đến đây thì hành cung đã thành
tro bụi…
Hành cung cống Tây không còn nữa, chỉ còn
chơ vơ mấy cổng tam quan dẫn lối vào cung. Còn lại bức bình
phong cô đơn buồn ngó ngôi chùa gần đó,
ngôi chùa có ông Phật lai Tây!”
Không lâu sau bài viết này, có bài
phản hồi đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay của tác
giả Nguyễn Đình Đầu (?), đưa ra nhiều ý kiến khác,
tiếc rằng nay chúng tôi không có trong tay để
đối chiếu.
_Một tài liệu khác ở địa phương, lại đưa ra những dữ kiện
mới:
“Với lối kiến trúc độc đáo của chùa Hội Khánh
đã làm cho người Pháp chú ý, nên
vào năm 1920 nước Pháp có mở cuộc triển lãm
hội chợ tại Marseille, người Pháp đã mang mô hình
chùa Hội Khánh và những bộ tượng La Hán, Thập
điện sang triển lãm và cũng trong dịp này Toàn
quyền Đông Dương Pháp thỉnh cầu Hòa thượng Từ Văn sang
làm chủ lễ cầu siêu cho những người đi lính thuê
cho Pháp.” (2)
Ở đây có một điểm cần lưu ý, là vào năm
1920 Pháp không tổ chức kỳ triển lãm thuộc địa nào
cả. Những cuộc triển lãm loại này bắt đầu từ năm 1866, đến
lần cuối cùng là vào năm 1948. Trong khoảng thời gian
này có một vài năm không tổ chức, và năm
1920 là một trong những lần cách khoảng đó. Hội chợ,
hay cuộc Đấu Xảo tại Marseille như được đề cập trong đoạn văn trên
đây, thực ra diễn ra vào năm 1922.
Theo sự tìm hiểu riêng của chúng tôi, căn cứ
vào các tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp,
trong công viên vùng ngoại ô Paris có một
ngôi đền nhưng không giống với những điều đã được hai
tác giả trên nói đến:
Vào năm 1905, quan chủ tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey
đã ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa
theo kiểu thức của ngôi đình Bà Lụa, sau đó chuyên
chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lãm
Colonial Exhibition ở Marseille tổ chức vào năm 1906.
Năm 1907, chính quyền Pháp lại đem ngôi nhà
xưa của Annam này lên triển lãm tại vùng ngoại
vi Paris (at the Jardin colonial of Nogent-sur-Marne).
(L’ancien temple du jardin tropical)
Đến năm 1917, ngôi nhà này được chọn làm ngôi
đền tưởng niệm những người lính Đông Dương đã chết trong
cuộc chiến tranh thế giới Đệ nhất (the Temple du Souvenir Indochinois).
Vào tháng giêng năm 1918, người thành lập hội
“Đông Pháp kỷ niệm” (Le Souvernir Indochinois) cho biết mục
tiêu của tổ chức là: “Thiết lập trên đất Pháp,
và nếu có thể, ở Đông Dương, một hoặc nhiều ngôi
chùa tưởng niệm, giống như một Pantheons Đông Dương, nơi có
những tấm bảng khắc ghi tên họ của những người bản xứ đã chết
cho nước Pháp và nơi đó việc thờ cúng sẽ được
tổ chức mỗi năm với sự phụ giúp của chính người An Nam”
(to establish in France, and if possible in Indochina, one or several
pagodas of memory, sort of Indochnese Pantheons, where tablets would be
kept registering the names of the natives who died for France and where
the funerary cult would be celebrated each year…with the help of Annamites
themselves)
(Dịch lại từ tài liệu trên internet)
Chính nhờ chủ trương này mà ngôi Miễu Tử Trận
của Thủ Dầu Một đã được thành hình vài năm sau
đó.
Năm 1919, vua Khải Định hạ chiếu chỉ chính thức nhận ngôi
đình Bà Lụa này để thờ người An Nam trên đất
Pháp.
Sắc chỉ của vua Khải Định
Vào ngày 9 tháng 6 năm 1920, tổ chức trọng thể lễ
khánh thành ngôi đền với sự tham dự của nhiều quan chức
cao cấp Pháp như Albert Sarraut, Maréchal Joffre...
Lễ khánh thành đền tử sĩ
Vào ngày thứ hai, 26 tháng 5 năm 1922, vua Khải Định,
con trai là Hoàng Tử Bảo Đại, cùng với quan Thượng
thư Thuộc địa Albert Sarraut (chữ dùng theo Phạm Quỳnh) đến thăm
ngôi đền khi nhà vua lần đầu tiên công du sang
Pháp. Ông Phạm Quỳnh có ghi lại trong nhật ký
của mình sự kiện đó.
“Thứ hai, 26 tháng 6 năm 1922
Hôm nay Hoàng thượng cùng quan Sauraut đến thăm nghĩa
sĩ tử ở Nogent sur Marne. Sẳn có ô tô, anh em cũng đánh
bộ “gia két”, đội mũ “mơ long” chạy xe về Nogent xem lễ. Quan nguyên
học chính Gourdon làm hội trưởng hội “Đông Pháp
Kỷ Niệm” (Le Souvernir Indochinois), diễn thuyết chúc mừng, Hoàng
thượng đáp lại mấy câu, chắc là những lời hùng
biện cả, nhưng đứng xa chẳng nghe thấy chi hết. Xong rồi Hoàng thượng
vào thắp hương trong đền, ra đặt vòng hoa sắt ở cái
đài Kỷ niệm những chiến sĩ theo đạo Thiên Chúa ở ngoài
vườn, dạo quanh vườn một lượt, rồi lên xe, vua quan trẩy về Paris hết.”
.(3)
Điều vô cùng đáng tiếc là ngày 21 tháng
4 năm 1984, một trận hỏa hoạn, bị tình nghi là do hành
động phá hoại, đã thiêu rụi ngôi đền. Người ta
có cho xây dựng lại tại nền cũ một kiến trúc khác,
có người gọi là phương đình, nhỏ và đơn sơ hơn
trước nhiều. Vết tích cũ, nay chỉ còn lại cái nền và
lối đi tam cấp có tạc hình rồng bằng đá. Tượng rồng
này, có hình dáng và tư thế tương tự như
hình rồng tại Miễu Tử Trận ở Bình Dương.
Đây chỉ là nói phớt qua vài nét chính,
câu chuyện về số phận ngôi Đền Tử Sĩ trên đất Pháp
với nhiều tình tiết thú vị sẽ được trình bày
cặn kẽ trong một bài viết khác dài hơn.
Trở lại với ngôi Miễu Tử Trận ở Bình Dương, ngày nay
là một công viên nho nhỏ với nhiều cây xanh, hồ
nước. Dân địa phương chiều chiều ra ngồi hóng mát, hưởng
những làn gió hiền hòa của thưở thanh bình, ít
ai còn nhớ đến một dĩ vãng chiến tranh xa xăm trên quê
hương điêu linh có quá nhiều mất mát và
nước mắt..
CHÚ THÍCH:
1/ Nhiều tác giả, Dân ca Sông Bé, tr. 47, nxb.
Tổng Hợp Sông Bé, 1991
2/Thích Huệ Thông, Sơ Thảo Phật Giáo Bình Dương,
nxb. Mũi Cà Mau, 2000, tr.64,
3/Phạm Quỳnh, Hoàng đế Khải Định trước con mắt của thần dân
Phạm Quỳnh
4/ Tài liệu tham khảo: Điạ phương chí 1975, tỉnh Bình
Dương, Sở Học Chánh tỉnh Bình Dương.