Kinh nguyệt, vầng trăng phố
thị
Hoàng Anh
(Viết xong trong sương mai ngày 8 tháng 3, 2009)
Vào năm 1777, nhà thám hiểm người Anh, thuyền trưởng
Jame Cock, đến một nơi mà ông gọi là Friendly Islands
(Những Hòn Đảo Thân Thiện, nay là Tonga). Tại đây
ông học được một từ của những đảo dân và mang về du nhập
vào kho tàng ngôn ngữ thế giới : “Taboo”, nghĩa là
những điều cấm kỵ.
Trong mọi nền văn hoá của nhân loại đều có những hành
động, ngôn ngữ, hay vật thể mà người ta không được thực
hiện hoặc nói năng công khai tại những nơi công
cộng. Nếu buộc phải nói ra, họ thường dùng đến các
từ lóng hay uyển ngữ (euphemism), Kinh Nguyệt là một từ như
thế.
Trong tiếng Anh, từ menstruation (kinh nguyệt) được thay thế bởi các
cách gọi khác như “Aunt Flo” (Cô Flo), My friend (Bạn
tôi), “On the rag” ( Đang có băng), “The curse” (Xúi
quẩy). Ở Việt Nam, nếu như các từ chỉ bộ phận sinh dục khá
đa dạng phong phú, thì chúng ta lại chỉ dùng
hai chữ kinh nguyệt, hoặc hơi giảm đi một chút: kỳ kinh, có
kinh, có tháng, đang mắc kẹt...Quảng cáo trên
TV thì bảo rằng : “Chuyện này không nói ra thì
không ai biết “
Kinh Nguyệt: vầng trăng phố thị? Người Việt tỏ ra là một dân
tộc có tâm hồn quá thơ mộng chăng khi đã dùng
vầng trăng để gọi cái chuyện rất tế nhị của chị em phụ nữ như thế
!
Thái độ của con người với chuyện ấy trong lịch sử, ở nhiều nơi khác
nhau cũng có ít nhiều khác biệt.Trong thời săn bắn hái
lượm, “chuyện ấy” được xem là thiêng liêng hay đặc biệt.
Người ta dành cho phụ nữ nhiều ưu đãi như không phải
nấu nướng hay tổ chức những lễ nghi để chúc mừng họ.
Nhưng nhìn chung, kinh nguyệt, một hiện tượng sinh lý bình
thường của phụ nữ có lẽ là taboo mà người ta ngại đụng
chạm đến nhất, trong tất cả các taboo. Tài liệu xưa đề cập
đến vấn đề “nhạy cảm” này có Kinh Thánh. Trong chương
15, phần Leviticus, kinh nguyệt được nói đến như những gì dơ
bẫn, gớm ghiếc. Chẳng những bản thân người phụ nữ đang trong giai đoạn
hành kinh bị nhiều cấm đoán, mà bất kỳ ai chạm vào
họ cũng xem là không trong sạch cho đến hết ngày đó
(New International Version). Chúng ta cũng tìm thấy thái
độ e dè, ngại ngùng hay kết án kinh nguyệt trong rất
nhiều tôn giáo, tập tục ở nhiều nơi trên thế giới. Một
số học giả tin rằng chính những quy định này đã góp
phần làm cho thái độ của xã hội đối với vấn đề tự nhiên
đó ngày càng có vẻ nghiêm khắc, lệch lạc,
tạo nên những vấn nạn tâm bệnh lý không đáng
có nơi phái nữ, và kinh nguyệt âm thầm, lặng lẽ
trở thành loại taboo đáng sợ nhất và tồn tại lâu
nhất trong các điều cấm kỵ.
Thái độ xã hội đã như thế thì không lạ
rằng trong thế giới của văn chương nghệ thuật, vốn từ xưa chỉ chuyên
ca tụng những điềâu tốt đẹp, cao quí, kinh nguyệt đã
không được nhắc đến. Trong nền văn học trung đại của chúng ta,
nữ sĩ Hồ Xuân Hương được xem là người táo bạo hơn hết
trên phương diện sáng tác. Bằng sự tài hoa của
mình, bà đã khéo léo sử dụng các
nghệ thuật tu từ để diển tả những điều mà thời đó ngay cả nam
giới cũng không ai dám đụng đến, từ việc mô tả bộ phận
sinh dục đến chuyện làm tình. Tuy nhiên cuộc cách
mạnh văn chương của bà cũng chỉ có thể đi trứơc thời đại đến
mức ấy.
Lịch sử văn học đã đi những bước chậm chạp, dai dẳng từ thời cổ đại,
lúc mà văn chương, nghệ thuật vốn được tôn vinh như công
cụ cao quý mà thần linh ban tặng cho con người, nên người
nghệ sĩ chỉ được dùng để truyền bá và ca tụng các
thần linh, điển tích trong kinh điển hay thần thoại. Dần dà,
người nghệ sĩ mới dùng nó để xưng tụng những bậc thượng lưu
cao quý trong xã hội như vua chúa, hay các đấng
anh hùng, hiệp sĩ. Phải gần cả ngàn năm sau, khi chủ nghĩa
hiện thực ra đời, các lớp người khác trong xã hội mới
bắt đầu bước vào thế giới nghệ thuật, ngày một đông đảo
hơn, đa dạng hơn. Tuy nhiên họ hiện diện với quần áo nghiêm
chỉnh hẳn hoi, hành vi cử chỉ của họ phải được chấp nhận nơi công
cộng. Những gì họ làm trong phòng the, nhà tắm,
cầu tiêu vẫn còn là những taboo. Nhà nghệ sĩ nào
dám cả gan chạm đến những chuyện kín đáo sẽ gặp phải
nhiều chống đối, gièm pha. Các nghệ sĩ của thời đó,
do vậy điều là những khuôn mặt khả ái, đáng kính.
Phải đến thế kỷ 20, cho đến khi có sự xuất hiện của trào lưu
hậu hiện đại, của nữ quyền luận, chuyện thầm kín cuối cùng
của phụ nữ, cũng là của nhân loại, mới được vượt qua. Với trường
phái này, đề tài sáng tác và phương
thức biểu đạt gần như mở ra vô giới hạn.
Trước 75, ở miền nam, khi tác phẩm của một số nhà văn hiện
đại xuất hiện, như Henry Miller (Hoa Kỳ), đã gây sốc không
ít cho nhiều độc giả. Dù họ đã được trân trọng
giới thiệu bởi một số học giả uy tín thời đó như Phạm Công
Thiện hay Nguyễn Hữu Hiệu ( Có thể tìm đọc “Ý thức mới
trong văn nghệ và triết học” của Phạm Công Thiện hay “Con đường
sáng tạo” của Nguyễn Hữu Hiệu, đã tái bản). Không
sốc sao được khi đã quen thuộc với dòng
văn học lãng mạn trữ tình mà sang trọng của Hồn bướm
mơ tiên từ thời tiền chiến, hay có cách tân lắm,
như nhóm Sáng Tạo, thì chuyện ở những nơi kín
ấy cũng chỉ đề cập úp úp mở mở, nói bóng nói
gió mà thôi. Người đọc cứ tha hồ mà đoán
mò, hoặc tưởng tượng thêm. Henry Miller thì không,
ông nói huỵt toẹt, đủ chuyện trên đời, không cử
kiêng, nào là tinh trùng, tinh dịch, và
những dòng máu, cứ việc trào tuôn, hình
như những gì tuôn chảy đối với ông đều tốt.
Bạn hãy nói mọi điều bạn thích nói, thích
viết, miễn là có điều gì đó thực sự đáng
nói, đáng viết, và bạn đủ sức nâng nó lên
thành nghệ thuật, thành vẻ đẹp. Khi biết được phần nào
phương châm sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng
tôi mới vơi đi cảm giác sửng sốt khi lần đầu đọc Henry Miller.
Một số nhà văn nữ nở rộ trong thập niên 70 thời đó như
Tuý Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã
Ca, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ… đã đem một luồng gió
mới vào sinh hoạt văn học với những trang viết táo bạo, nóng
bỏng và lôi cuốn của họ. Tuy nhiên tác phẩm của
họ vẫn có những điểm dừng nhất định.
Thế thì kinh nguyệt, trong văn chương nước ta
ngày nay có gì mới hơn trước chăng? Vùi
đầu mãi trong dòng chữ nghĩa, dường như ta cũng bị cuốn đi,
chìm trong lãng quên. Đến khi nhìn lại, chợt nhận
ra quả đã có nhiều khác biệt. Giờ đây, nam giới
có thể lắng nghe người phụ nữ kể về những trải nghiệm của họ khi lần
đầu trải qua biến cố lạ lẫm ấy:
“Những ký ức chắp vá, đứt đoạn được chúng tôi
kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng
cách giao tiếp bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng
tôi phải dừng câu chuyện lại, vì thấy nhói ở đâu
đó hay đợi chị thôi khóc. Thí dụ như cái
đoạn kể về kỳ kinh nguyệt đầu tiên của tôi. Máu chảy giữa
hai đùi không tạn được, tôi thụp
xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẻ tay, tôi thấy mình
rỗng ra, tái nhột, chết dần. Thằng Điền với bứt đọt chuối, tọng vào
miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy bã rịt lại chỗ máu.
Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua.
Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi
mộ của mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước… Chị mếu máo
vít đầu tôi vào lòng, “Trời ơi, tội hôn.
Lúc đó cha mấy cưng ở đâu?”. Tôi ngơ ngác,
không biết, nhưng dù cha có ở gần ngay đấy thì
chúng tôi cũng chẳng thể cầu cứu.”
( Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, tr.199, nxb Trẻ 2005)
Một số cuộc khảo sát cho biết rằng hầu hết phụ nữ không thể
nói chuyện riêng biệt đó của mình với cha. Người
mà các thiếu nữ đến tuổi dậy thì có thể
thổ lộ là mẹ, kẻ mà nhân vật nữ trong truyện không
có. Đó là một mất mát rất lớn của những đứa con
mồ côi. Cô gái nhà quê chưa thể hiểu được
rằng những em bé với đôi mắt đen láy ngây thơ xinh
đẹp như những thiên thần đã chào đời trong máu
chảy láng lai của bà mẹ. Cô chưa thể biết rằng thời con
gái rực rỡ huy hoàng đã bắt đầu bằng những dòng
máu chảy xối xã mà cỏ daị không
thể nào ngăn chặn. Cô thảng thốt, bàng
hoàng, và người phụ nữ giang hồ đã bật khóc vì
thương xót. “Lúc đó cha mấy cưng ở đâu?”. Câu
hỏi của nàng làm ta xúc động và trào dâng
niềm cảm thương cho những phận người bất hạnh. Đoạn văn đầy tính nhân
bản, hay và đẹp, khêu gợi những xúc cảm mà khi
đọc những trang văn viết về mùa thu mùa xuân về quê
hương chốn cũ đấy ắp trên báo chí ngày nay ta
không còn có được..
Xin thưởng thức thêm đoạn văn khác, cũng từ một nhà văn
nữ:
“Cái thân tôi ngày một hư. Sau một năm trời
tưởng mãn kinh rồi bổng nhiên đang đi phất phơ trên bãi
biển thì một con nhỏ bán hàng rong chạy theo nói
nhỏ:” Quần của bà…!” Tôi vặn eo, xoay nửa thân trên,
ngoẹo tréo cần cổ mới thấy một vết đỏ loang dưới đáy mông
chiếc quần sóoc trắng. Chắc là con nhỏ hàng rong bình
luận với mấy đồng nghiệp tụ tập trên bãi: “Bà già
còn ngựa, có kinh mà mặc quần trắng, quần sóoc
trắng nữa chứ!” Cái cảm giác thơ thới mới có đó
chợt tiêu tan.”
(Lý Lan, Hồi xuân, tr. 59, tạp chí Tia Sáng số
2+3, 2009)
Kinh nghiệm đầu tiên và kinh nghiệm cuối cùng, đều đã
đựơc trình bày, bằng chính những nhà văn nữ,
một cách đạm nhiên, trong sáng và gây nên
nơi người đọc lòng thương cảm xót xa hay sự chia xẻ đầy thông
hiểu. Không có chút dấu vết nhờm tởm sợ hãi hay
phản cảm nào. Bóng dáng nữ quyền luận, có lẽ
đã âm thầm đến nước ta, lan toả ảnh hưởng trong sáng
tác văn học từ lúc nào, ta chưa kịp ghi ngày
tháng đó thôi. Ở hải ngoại, phóng khoáng
hơn, chuyện này cũng không còn mới nữa:
“Dĩ nhiên kinh nguyệt không còn là vấn đề kín
của các cô các bà xì xào với nhau
trong một góc phòng nữa, và trong văn chương nữ giới,
kinh nguyệt xuất hiện một cách tự nhiên như trời xanh mây
trắng…
…Trong truyện rừng Na Uy của tác giả lớp mới Nhật bản Haruki Murakami,
cô nữ sinh viên Midori dẫn bạn trai mới quen trở lại thăm trường
trung học cũ, cô chỉ khói trắng bốc lên từ một ống khói
trắng trong trường, cho biết khói đó đốt những băng kinh nguyệt
của nữ sinh. Cô còn góp ý như đùa là
giả thử như Tokyo ra lệnh bắt phụ nữ phải đội nón kết đỏ trong những
ngày có kinh, hẳn quang cảnh thành phố sẽ vui tươi hơn
nhiều… Trước những phát ngôn như vậy ông bạn trai hậu
duệ của các kiếm sĩ đạo samurai chỉ biết ú ớ thôi…”
(Thế Uyên, Tình dục và các nhà văn nữ di
dân Việt Nam)
Đã tới thời, người ta nói ra những gì muốn nói,
không cần chi uyển ngữ, hay ẩn ngữ:
11.
Á A huyền nghĩa huyết thi
Đâu cần chi ẩn ngữ
Đâu cần chi sấm vang
Huyết em mỗi tháng rỡ ràng
Huyền lâm cứ thế ca xang...
12.
Á A nguyệt khuyết nhiều khi
Là ta ngóng em rong huyết
Biết đâu sinh diệt diệu kỳ
Lá em mủm mỉm điều chi
Âm vỡ trứng nở thống thiết!!!...
(Nguyễn Lương Vỵ, Huyết âm)
Thực ra, chỉ nói riêng trở lại chuyện taboo này, thi
ca, nhờ đặc trưng ngôn ngữ biểu hiện của mình, đã đi
những bước khá sớm. Trong một bài viết về Bùi Giáng
của Thượng Toạ Tuệ Sỹ, có đoạn :
“Phong vận đó, một lúc nào đó, trở nên
dồn dập, vì Lời với Lời quấn quít nhau, Tình Tự nằm
ngay trong Tình Tự, cái Phơi Mở hiện hình trong sự Phơi
Mở…; hoàn toàn là cách điệu song trùng
của Thi ca:
Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân toan
Từ xứ sở đắng cay thu dầu chết
Bước đã mau sầu xé lá gieo vàng
….
( Tuệ Sỹ, Thi ca và tư tưởng, tr.23, giai phẩm Văn, 1973)
Khi đọc bản thảo bài viết nay, một người bạn thắc mắc: “Quần sẽ đỏ,
nói chuyện ấy của phụ nữ mà nói thế thì trắng
trợn và thô thiển quá chăng? ”. Thực ra thì không
phải thế. Quần sẽ đỏ, tức hồng quần, hai từ trong Kiều của Nguyễn Du được
Bùi thi sĩ vận dụng nhiều lần trong sáng tác của ông:”
Hồng quần rất mực phong lưu”, “Gái bán quần ra đứng ngó
trời”…Bài thơ nói “chuyện ấy” mà như đang tả cảnh một
mùa thu trong rừng thu đầy lá vàng hiu hắt, ảm đạm,
phải nói quá siêu.
Trịnh Công Sơn, bài Nguyệt Ca, cũng có những ca từ thơ
mộng và đầy hương vị Thiền tông, như :
“ Từ khi trăng là nguyệt
Vườn xưa lá xanh tươi
Đàn chim non lần hạt
Cho câu kinh bước tới
Từ khi trăng là nguyệt
Tôi nghe đời vỗ về tôi
Từ khi em là nguyệt
Câu kinh đã bước vào đời”
Các từ Kinh và Nguyệt được tác giả lập lại nhiều lần,
nhất là câu “Từ khi trăng là nguyệt” cho thấy có
sự gần gũi về ý tưởng với những vần thơ của Bùi Giáng.
Mãi say sưa hát nhạc Trịnh, chắc không mấy ai quan
tâm dụng ý của ông.
Khi nhớ bài thơ này và có ý định viết
về đề tài này, tôi nhớ ngay đến Sơn Núi, tức thi
sĩ Nguyễn Đức Sơn, ngừơi cùng thời với Bùi Giáng. Ông
nổi tiếng với những bài thơ nói chuyện không ai dám
nói hoặc không thể nói thành thơ được, như chuyện
tiểu tiện của phụ nữ chẳng hạn, và nhiều chuyện khác nữa, đương
nhiên. Tôi gởi tin nhắn cho ông, hỏi:
“Đại ca nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất vậy còn
chuyện kinh nguyệt phụ nữ đại ca có dám nói không
và có làm được bài thơ nào không,
gởi thử, coi !”
Ông gởi tin trả lời, vào một ngày cuối tháng 12
năm 2008, vẫn theo cái khẩu khí quen thuộc của ông:
“Hoàng Anh làm sao đủ tư cách dính tới kinh nguyệt,
mò mẫm tới kinh Pháp Hoa, qườ quạng đụng…Kinh Cong bá
láp gì đó của điện ảnh thì được!”
Tôi nghĩ thầm, vậy là ông Sơn Núi cũng có
chỗ phải chừa ra chứ! Chuyện ấy xem như bỏ qua. Thế nhưng thời gian sau,
có lần ông bệnh nặng, tôi cùng nhà thơ Nam
Chu vượt đường xa tới thăm. Tôi ngồi bên cạnh ông trên
giường bệnh, ông thều thào đọc ngay cho tôi nghe một bài
thơ, nói: “Bữa hổm ông hỏi tôi đó”
“Trăng
Chợt rạng rở bất tuyệt
Bởi
Cùng ta đang ngồi trên bãi cát vàng
Có một nàng
Vừa ướt nguyệt”
Các bộ phận trên cơ thể con người vốn bình đẳng và
mầu nhiệm như nhau. Xấu đẹp, thiện ác, có tội tình chi
ở chúng là do sự tạo tác đầy sai lạc và điên
đảo của tâm thức ý niệm con người. Tất cả đều nằm trong cõi
hình tướng vô thường, vốn vô tự tính. Trong cái
ngỡ tầm thường ấy vẫn hằng chứa nhiều huyền nhiệm, và nhận ra vẻ đẹp
và những huyền nhiệm ẩn tàng là nhiệm vụ của những người
nghệ sĩ, kẻ sáng tạo, phải thế chăng?
Gần đây, đọc thơ văn trên mạng, nhất là các trang
văn hải ngoại, ta thấy xuất hiện ngày càng nhiều những bài
viết mà nội tựa đề thôi cũng đủ làm ta rùng mình.
Tuy nhiên cảm giác sượng sùng thì nhiều, hiếm
khi ta có những cảm xúc bay bổng hay bâng khuâng
vì những sáng tác ấy. Có vẻ như muốn để chứng
minh rằng mình mới, mình đang sáng tạo, người ta cần
phải soi mói những gì bên trong chiếc quần của phụ nữ
chăng? Nhà nghệ sĩ đích thực có cần phải thế? Người
đọc có cần phải đọc những điều như thế?
Một thế kỷ rực rỡ của lý thuyết văn chương đã khép lại,
quá nhiều thử nghiệm để hôm nay những gì gọi là
taboo nhất đã đựơc khai thác đến cạn kiệt và nhàm
chán. Tìm tòi soi mói những gì bên
trong chiếc quần đã trở thành chuyện cũ rích. Đâu
không là nghệ thuật trong cõi đời não nùng
diễm lệ và bi thương này, nhìn mọi mơi và
mọi hướng, đâu không là vẻ đẹp, chỉ e ta không có
đôi mắt đẹp để nhìn đó thôi.
Ai cũng từng nhìn thấy bụi, nhưng không ai hỏi như Trịnh: “Hạt
bụi nào hoá kiếp thân tôi, để ngày mai tôi
về làm cát bụi?”. Ai không từng dẫm chân trên
sỏi đá dưới chân mình, nhưng ít ai nghĩ như Trịnh:
“ Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Ai không
nhớ người yêu và có lần nhìn thấy bia đá,
nhưng cũng chỉ Trịnh mới biết hỏi người yêu: “Làm sao em biết
bia đá không đau?”
Có lẽ nhờ biết hỏi, biết nghĩ những điều giản dị gần gũi như thế mà
Trịnh sống mãi trong lòng người yêu âm nhạc Việt
Nam đó chăng?.