VIẾT VỀ ÔNG HUỲNH VĂN CÙ

HOÀNG ANH B.D
(03-02-13)
 

Huỳnh Văn Cù là một nhân vật lịch sử của vùng đất Thủ Dầu Một. Tiếc rằng, ông mất chưa lâu, nhưng các bài viết về cuộc đời của ông đến nay vẫn chưa được đầy đủ, chính xác, nhiều điểm lại mâu thuẫn lẫn nhau. Ta thử xem qua một vài tác phẩm mà chúng tôi thu thập được; có tham khảo, đối chiếu với lời kể của hai nhân vật là bà Nguyễn Thị Nết, vợ của ông Cù và ông Lê Tấn Sĩ, một người lính cũ của ông.

I. Trước hết, xin đọc bài: “Chuyện kể về anh Ba Cù” của tác giả Phan Đức Nam:
-“Huỳnh Văn Cù sinh năm 1919 tại ấp Chánh Thành, phường Hiệp Thành, thị xã Thủ Dầu Một” (1)
Xin nói rõ thêm, địa danh phường Hiệp Thành và thị xã Thủ Dầu Một là những danh từ mới lập sau 1975. Thời của ông Cù, nơi ông sinh sống gọi là xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành. Thủ Dầu Một khi ấy là tỉnh, bao gồm cả địa giới hai huyện Bình Long và Phước Long thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay.
-“Ba Cù thường lận trong người hai khẩu K.54 nạp đạn sẵn” (2)
K.54 là loại súng lục, tiền thân của nó là khẩu TT-33 do nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng Liên xô Fedor Tokarev chế tạo. Từ thập niên 50, Liên xô mới chấp thuận cho một số quốc gia trong khối Xã hội chủ nghĩa sản xuất súng theo mẫu này. Kiểu 51, kiểu 54 (K.54) là sản phẩm biến cải lại của Trung quốc nằm trong dự án trên và được cung cấp cho quân đội Việt Nam vào khỏang thập niên 60. Thế nên cho rằng từ giữa những năm 40 mà một chiến sĩ Việt Minh đã có đến hai khẩu súng K.54 e rằng không hợp lý. Hơn nữa, ông Cù chỉ có một tay, làm sao sử dụng được tới hai cây súng!
-“Ở ngã tư Bình Chuẩn, xã Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên (một trong những nơi hoạt động của anh Cù) ngay sau khi anh mất, dân chúng đã tiếc thương lập miễu thờ anh, gọi là miễu ông Cù”(3)
Cách diễn dịch này không đúng với thực tế. Vùng miễu ông Cù xưa gọi là Bưng Cù, theo giải thích dân gian địa phương, một vùng bưng do con cù dậy mà thành hình. Cù là con linh vật huyền thoại rất phổ biến của xứ Đàng Trong. Tại đây ngày nay có một ngôi đình, gọi là đình Tân Phước Khánh. Từ “Miễu Ông Cù”, không rõ do đâu mà ra, có thể xưa ở đây cũng có ngôi miễu nhỏ, trước khi xây đình chăng? Địa bàn hoạt động chủ yếu của ông Cù, xã đội trưởng Chánh Hiệp, là Chánh Hiệp và một vài nơi chung quang khu vực chợ Thủ chớ không phải ở quận Tân Uyên (tỉnh Biên Hòa) như tác giả trên đã nói. Vì vậy cơ sở thờ tự này không dính liú chi tới ông Cù liệt sĩ cả.
-“Ngày nay, ở ấp 4 cầu Trệt vẫn còn mội nước mà xưa kia anh Ba Cù thường đến tắm giặt. Bà con nhớ thương anh gọi là mội ông Cù”
Qua thăm hỏi một vài người dân địa phương lớn tuổi, trong đó có bà sáu Nết, kẻ sống cả đời trên vùng đất cầu Trệt này, thì tại đây không có con mội nào mang tên mội ông Cù cả; hơn nữa, ở địa phương xưa nay, ít ai đặt tên cho mội nước.

II. Huỳnh Văn Cù, có biệt danh là “anh Ba Cù cụt tay”, nguyên nhân vì sao ông bị cụt tay thì có các cách giải thích như sau:

-“Đầu năm 1946, Huỳnh Văn Cù chỉ huy du kích phường Chánh Hiệp chặn đánh đoàn thiết vận xa của Pháp trên đường 13-khu vực Bưng Cầu (Định Hòa ngày nay). Vào trận, Ba Cù độp liền một phát giữa trán tên xạ thủ đại liên đang thập thò trên nóc xe tăng đi đầu. Bọn địch chưa kịp kéo xác tên Pháp xuống thì Ba Cù đã lanh lẹ luồn tới leo lên xe, thảy luôn trái lựu đạn vô lòng thiết giáp. Trái nổ làm bọn địch chết kẹt trong xe.
Lính thiết giáp đi sau quá sợ tài bắn tỉa của quân du kích-nhất là tay thiện xạ Ba Cù, nên không dám ngông nghênh ló mặt ra khỏi xe nữa, mà lầm lì cho xe tiến tới…Ba Cù ném lựu đạn phá tung xích xe tăng, hô anh em bắn yểm trợ cho mình rồi nhanh chóng leo lên chiếc xe tăng thứ hai…
Lần này, do giằng co gấp với địch (phía trong xe-khi anh cố mở nắp xe thiết giáp), Ba Cù đã không kịp ném…Trái lựu đạn nổ khiến bàn tay anh tơi tả!
Sau trận đó, Ba Cù phải cắt đi bàn tay phải” (4)
Đoạn văn hào hùng và sinh động như một khúc phim xi nê, nhưng cũng gợi vài suy nghĩ. Để có thể tường thuật được tỉ mỉ như trên, phải là người chứng kiến tận mắt trận đánh. Do tác giả không trưng nguồn trích dẩn, và những gì trình bày thì các nhà viết lịch sử kháng chiến ở Bình Dương đều chưa thấy nhắc đến, chúng ta không biết được nhà văn dựa vào đâu để kể như thế. Chi tiết trái lựu đạn có thể “phá tung xích xe tăng” là điều cũng cần phải xem lại.
 
Việc chặn đánh cả đoàn chiến xa của Tây, vào lúc lực lượng Việt Minh còn sơ khai, vũ khí trang bị khá thô sơ, thiếu thốn, lại diễn ra có vẻ quá dễ dàng, như thể quân đội Tây là những người không biết chiến đấu. Hơn nữa, nếu do vì giằng co với nhau, lựu đạn đã phát nổ khi chưa kịp ném vào trong lòng xe tăng thì e rằng thân xác của ông Cù đã không còn nguyên vẹn chứ không phải chỉ mất có mỗi bàn tay.
Về trận đánh ở Bưng Cầu, vào khoảng cuối năm 1948, lịch sử địa phương ghi chép như sau:
“Xã đội trưởng Chánh Hiệp Huỳnh Văn Cù trực tiếp chỉ huy du kích phối hợp với nội ứng diệt đồn nhà thờ Ông Thưởng giữa ban ngày. Đại đội 2 phối hợp với du kích xã Định Hòa đánh bót Bưng Cầu; sau đó phục kích diệt hàng chục tên địch đi ứng cứu” (5)
Căn cứ vào đoạn trích dẩn trên, ông Cù không tham gia trận đánh tại Bưng Cầu, và tại trận đánh này, chỉ đánh bót và phục kích quân cứu viện, theo lối “công đồn đã viện” sở trường mà không đụng độ với xe tăng của Pháp.
-“Ngày 2-4-1948, Huỳnh Văn Cù chỉ huy đội du kích tấn công đồn giếng máy (nay ở đường Phạm Ngũ Lão) gây cho địch thiệt hại nặng. Khi đó đại đội 2 Châu Thành và du kích xã Phú Mỹ đánh đoàn xe lửa. Trận này Huỳnh Văn Cù bị thương cụt một bàn tay vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị đánh địch đến khi kết thúc và chiến thắng” (6)
Việc một người bị thương cụt mất một bàn tay trong lúc đụng trận, máu đương nhiên ra rất nhiều mà vẫn có thể tiếp tục chỉ huy trận đánh đồn cho tới cùng là sự kiện gợi nhiều nghi vấn. Theo bà sáu Nết tay ông bị cụt là do đánh đồn Giếng Máy, trong lúc quăng lựu đạn, bị trở ngại sao đó thì bà không rõ.

III. Về trường hợp bị bắt và cái chết của ông Cù, cũng có nhiều thông tin khác biệt. Nhà văn Phan Đức Nam tường thuật như sau:
- “Ba Cù cùng hai đồng chí là Năm Khoa và Bảy Minh về Phú Cường công tác. Không may họ bị chỉ điểm, ba người đã chống trả quyết liệt, Năm Khoa và Bảy Minh hy sinh, còn một mình Ba Cù vừa chạy vừa bắn hạ được 6 tên lính Tây thì hết đạn. Bọn chúng không biết vậy, chỉ bao vây rồi gọi thêm tiếp viện. Anh Ba Cù quăng súng núp sau một vựa cá, tính trà trộn vào các ghe lưới rồi bơi qua sông, thoát vô căn cứ Củ Chi…Bỗng một tên lính Tây đen vô tình tiến thẳng tới chổ anh…Anh sợ ra tay gây tiếng động tụi kia sẽ quay lại…Biết tụi lính đánh thuê tham tiền chỉ muốn bắt anh để lĩnh thưởng, Ba Cù nhanh trí trút cả số tiền mang theo để hối lộ tên Tây đen. Tên này định tha anh vì chưa nhận ra sát thủ Ba Cù. Không may có thêm hai tên lính nữa tới, một tên nhận ra anh liền hô lớn. Ba Cù đành phải dùng một tay không chống trả bọn Pháp đông đặc. Anh bị bắt lôi ra giữa chợ cá. Tụi Pháp bị Ba Cù bắn chết nhiều nên tức giận đánh anh rất dã man. Do Ba Cù không còn tay phải, nên bọn Pháp cột cổ tay trái anh quặt ngược ra sau quấn chặt vào cổ. Ba Cù vẫn hiên ngang giơ cánh tay cụt chào đồng bào vây quanh đang xót thương anh, hô to: “Bà con đừng lo. Cù này có chết thì còn hàng ngàn Cù khác đứng lên đánh Pháp”.
Tụi Pháp cột cứng Ba Cù lại rồi cho xe tăng lôi anh xềnh xệch quanh chợ Thủ. Mục đích chúng là dằn mặt dân chúng: “Trùm Cộng sản Ba Cù đã bị bắt, coi như rắn đã mất đầu”.
Biết không thể tra tấn khai thác gì được Ba Cù, và để tránh sự căm hận bừng bừng của dân chúng, ba hôm sau, bọn Pháp bí mật thủ tiêu Huỳnh Văn Cù sau chùa Cô Hồn (gần Bệnh Viện Y Học dân Tộc cũ, sau đó quăng xác anh xuống sông Sài Gòn.” (7)
Thêm một địa danh cần nói lại cho rõ hơn. Chùa Cô Hồn được nói đến trong bài viết là tên gọi dân gian của ngôi chùa thời trước có trường trung học tư thục Bồ Đề, hiện nay là khu vực trường trung học cơ sở Phú Cường, phường Phú Cường. Nơi này cách khá xa với bệnh viện Y Học Dân Tộc nằm cạnh đường Yersin.
Theo một tài liệu khác:
“Cuối năm 1948, nhằm củng cố lòng tin cho ngụy, gây thế lực cho bọn tay sai và ổn định vùng chiếm đóng: Thực dân Pháp huy động lực lượng thủy, lục, không quân mở cuộc tổng càn quét thị xã Thủ Dầu Một và các vùng lân cận. Ngày 13 tháng 2 năm 1949, Pháp bao vây khu vực từ lò heo đến đình Bà Lụa sang Mỹ Bình cướp của đốt nhà gây nhiều thiệt hại cho nhân dân. Trong đợt càn quét này đồng chí Huỳnh Văn Cù phó bí thư, thị đội trưởng Thị xã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và bị địch bắt, đồng chí Nguyễn thị Bình Minh (bảy Minh) phó đoàn trưởng phụ nữ thị xã cũng hy sinh.
Sa vào tay giặt, đồng chí Cù vẫn 1 lòng trung thành với cách mạng-bị Pháp đánh đập tàn nhẫn, hăm dọa sẽ tìm giết vợ con, đồng chí vẫn giữ vững khí tiết người cộng sản không đầu hàng giặc. Bắt được đồng chí Cù, một cán bộ lãnh đạo của thị xã, người đã làm cho chúng mất ăn, mất ngủ mấy năm qua, thực dân Pháp và tay sai dùng thiết vận xa chở “trùm cộng sản” của vùng này đi vòng quanh chợ Thủ Dầu Một tuyên truyền, rắn đã mất đầu để lung lạc ý chí của nhân dân; đồng bào thị xã chứng kiến cảnh đồng chí bị còng tay, thân mình bê bết máu vô cùng căm giận. Đồng chí Huỳnh Văn Cù vẫn lạc quan nói: “Bà con đừng lo, Cù này chết đi còn hàng ngàn Cù khác đứng lên”. Ngày 16 tháng 2 năm 1949 địch thủ tiêu đồng chí.” (8)
-“Khi bắn hết đạn, đồng chí bị địch bắt. Chúng mua chuộc, dụ dỗ, tra tấn man rợ, đồng chí vẫn nêu cao khí tiết của người cộng sản. Bọn giặc dã man còng hai tay đồng chí vào xe thiết giáp rồi chạy quanh thị xã” (9)
-‘Chúng đưa đồng chí về trại giam đặc biệt. Sau vài ngày dụ dỗ, tra tấn dã man, không lấy được tin tức mật và cơ sở mật chúng chuyển sang cách khác.
Chúng công khai đưa đồng chí ngồi lên xe thiết giáp, cột một cánh tay còn nguyên vào nòng súng, xe chạy quanh chợ qua các đường phố. Mục đích thâm độc là cho đồng bào biết “trùm cộng sản” đã bị bắt, để uy hiếp tinh thần.
Khi ấy mọi người đều nhìn thấy rõ một tay cụt của đồng chí Huỳnh Văn Cù đưa lên vẫy chào…
Sau này có người trong ngành công an địch đưa tin ra là ngày 16-2-1949, theo lệnh của quận trưởng Châu Thành chúng đã đem thủ tiêu đồng chí Huỳnh Văn Cù bằng cách không nổ súng mà bỏ vào bao bố thả xuống sông Sài Gòn mà chúng gọi là “mò tôm”, rất dã man
Một số đồng chí đồng bào ta nghe được tin đó liền bí mật cho người đi chài lưới để tìm xác anh Ba Cù nhưng không kết quả” (10)
-“Năm 1950, lãnh đạo thị xã Thủ Dầu Một ở xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi (đối diện với cảng Bà Lụa), Pháp phát hiện được và hành quân bao vây tiêu diệt cán bộ Việt Minh. Trận ấy, một số cán bộ bị hy sinh, trong đó có chị Bình Minh (Tư Minh) và anh Ba Cù thì bị chúng bắt được. Chúng cột một tay anh vào súng máy gắn phía trước xe thiết giáp, chở nhiều vòng, quanh chợ Thủ Dầu Một để khoe rằng đã bắt được “Việt minh cỡ bự”. Anh vẫn hiên ngang đưa cánh tay cụt lên chào đồng bào. Sau đó chúng đưa anh về bót Séc-tơ, rồi đưa đi thủ tiêu ở sông Sài Gòn” (11)
So sánh các đoạn văn trên, ta nhận thấy có khá nhiều sai biệt. Về địa điểm và thời gian:
-Theo nhà văn Phan Đức Nam, Ba Cù bị bắt ở chợ Thủ Dầu Một khi đi công tác và bị chỉ điểm, lọt ổ phục kích, hai người đi theo ông bị giết chết là Năm Khoa và  Bảy Minh.
-Theo sử địa phương, địa điểm ông rơi vào tay giặc Pháp là khu vực từ Lò Heo đến đình Bà Lụa (nay thuộc phường Chánh Nghĩa), trong một đợt chống càn vào ngày 13-02-1949. Ba ngày sau, ông bị giết, đó là vào ngày 16-2-1949. Chiến đấu với ông và chết trong trận này có đồng chí Nguyễn thị Bình Minh (Bảy Minh) phó đoàn trưởng phụ nữ thị xã.
-Theo Nguyễn Văn Phước, ông Cù bị bắt ở xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, phía bên kia sông Sài Gòn, đọan đối diện với cảng Bà Lụa. Thời gian là năm 1950, cách một năm so với các niên đại trên. Người chết trong trận đánh là chị Tư Minh, chớ không phải Bảy Minh.
-Theo bà Sáu Nết, đêm 19-01 âm lịch năm 1949, ông Cù bị Tây bắt, khi bị bắt, ông đang nằm trốn một mình dưới đám lục bình trong một con rạch bên Mỹ Bình (Bình Mỹ, ngày nay), một phụ nữ, có thể là một đồng chí phản bội, đã điềm chỉ cho Tây đến bắt ông.
Khi ông Cù bị bắt, có hai câu nói được các tác giả ghi lại cho là của ông Cù, nhưng nay thì không biết câu nào mới đúng là câu của ông, ai đã thực sự nghe được:
-“Bà con đừng lo, Cù này chết đi còn hàng ngàn Cù khác đứng lên” (12)
-“Khi bị bắt Pháp hỏi: Bao giờ hết Việt Minh? Anh trả lời: Khi nào đất hết cỏ thì hết Việt Minh. Ông Tư Ru cũng nghe kể Việt Minh đòi thả ông Cù thì Việt Minh sẽ thả 3 sĩ quan Pháp bị ta bắt. Nhưng Pháp không chịu và thủ tiêu anh không chút do dự.” (13)
Về việc ông bị cột trên xe, có các cách mô tả như sau:
-Theo nhà văn Phan Đức Nam:
- “Do Ba Cù không còn cánh tay phải, nên bọn Pháp cột cổ tay trái anh quặt ngược ra sau quấn chặt vào cổ. Ba Cù vẫn hiên ngang giơ cánh tay cụt chào đồng bào vây quanh”
-Theo lịch sử chiến tranh nhân dân:
 “Bọn giặc dã man còng hai tay đồng chí vào xe thiết giáp rồi chạy quanh thị xã”
- Theo ông Nguyễn Minh Đức, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo tỉnh ủy Sông Bé: “Chúng công khai đưa đồng chí ngồi lên xe thiết giáp, cột một cánh tay còn nguyên vào nòng súng, xe chạy quanh chợ qua các đường phố. Mục đích thâm độc là cho đồng bào biết “trùm cộng sản” đã bị bắt, để uy hiếp tinh thần.
Khi ấy mọi người đều nhìn thấy rõ một tay cụt của đồng chí Huỳnh Văn Cù đưa lên vẫy chào…”
Người thì nói ông bị cột quặt một cánh tay ra sau gáy. Người thì nói ông bị còng hai tay vào xe thiết giáp, vậy ông còn tay nào để chào? Người thì nói ông được ngồi lên xe thiết giáp, tay thì cột vào nòng súng, như vậy làm sao kéo lê ông trên đường phố được?
Theo lời kể của những người cao niên từng tận mắt chứng kiến cảnh ông Cù bị cột trên xe bọc thép, những gì mà họ nhìn thấy, giản dị hơn:
- Ba Cù bị cột chặt tay và thân mình vào phía sau xe bọc thép, hai chân còn kéo lê trên đường. Loại thiết vận xa dùng để kéo ông đi còn xài bánh cao su, dân chúng thường gọi là xe bọc thép. Mặt ông đầy máu, có thể là hậu quả của những trận đòn của Tây, khi ấy dường như ông đã ngất xỉu.
Có tác giả nói rằng vài ngày sau ông bị thủ tiêu bằng cách bỏ bao bố thả xuống sông. Nhiều ngừơi lại cho rằng ông bị Tây bắn chết ở khu đất trống gần phía sau chùa Cô Hồn.
Bà Sáu Nết, thời gian này đang lẩn trốn ở nhà người chị ruột thứ tư ở Sài Gòn, những gì xảy ra đối với chồng, bà chỉ nghe người ta nói lại. Rằng sau khi bị bắt một đôi ngày, Tây cột ông trên xe chở vòng quanh chợ Thủ, ông bị trói tay trái, tay mặt bị cụt vẫn còn giơ lên vẩy, và ông gào thét chửi Tây rất dữ, chửi gì thì bà không biết. Sau đó Tây thủ tiêu ông, ở đâu, lúc nào bà không biết, cũng nghe nói là giết ông ở chùa Cô Hồn, nhưng thực ra như thế nào thì không ai biết chính xác. Vì vậy hàng năm bà chọn ngày nghe tin ông bị bắt (ngày thứ tư 19-01 năm Kỷ Sữu, 16-02-1949) làm đám giổ cho ông.

 
Hình ảnh xe bọc thép của Tây trong một buổi lễ diễu hành tại chợ Thủ Dầu Một, khoảng những năm giữa thế kỷ 20.

CHÚ THÍCH:
 
1. Phan Đức Nam, Chuyện kể về anh Ba Cù, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005, tr.11
2. Phan Đức Nam, Chuyện kể về anh Ba Cù, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005, tr.13
3. Phan Đức Nam, Chuyện kể về anh Ba Cù, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005, tr.14
4. Phan Đức Nam, Chuyện kể về anh Ba Cù, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005, tr.12
5. Sông Bé, lịch sử chiến tranh nhân dân, nxb. Tổng Hợp Sông Bé, 1990, tr.111
6. Nguyễn Minh Đức, Lược sử tên đường thị xã Thủ Dầu Một, 2008, tr. 80
7. Phan Đức Nam, Chuyện kể về anh Ba Cù, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005, tr.14
8. Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ dầu Một, 1988, tr.52-53
9. Sông Bé, lịch sử chiến tranh nhân dân, nxb. Tổng Hợp Sông Bé, 1990, tr.113
10. Nguyễn Minh Đức, Lược sử tên đường thị xã Thủ Dầu Một, 2008, tr. 83)
11. Huỳnh Văn Cù - Người chỉ huy du kích ''Tả xung hữu đột'' / Nguyễn Văn Phước // Sông Bé. - 2004. - Ngày 25 tháng 5 (theo Thư viện tỉnh Bình Dương)
12. Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ dầu Một, 1988, tr.53
13. Huỳnh Văn Cù - Người chỉ huy du kích ''Tả xung hữu đột'' / Nguyễn Văn Phước // Sông Bé. - 2004.

THAM KHẢO:

1.    Phan Đức Nam, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005
2. Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ dầu Một, 1988
3. Nguyễn Minh Đức, Lược sử tên đường thị xã Thủ Dầu Một, 2008.
4. Sông Bé, lịch sử chiến tranh nhân dân, nxb. Tổng Hợp Sông Bé, 1990.
5. http://www.sugia.vn/portfolio/detail/560/huynh-van-cu-nguoi-chi-huy-du-kich.html
6. Nguyễn Mậu Tùng, Lịch thế kỷ XX, nxb. Khoa Học và Kỹ Thuật, 1983