PHIẾM
LUẬN VỀ DẾ (I)
Hoàng Anh
Những năm trước thời kỳ đổi mới đời sống của dân ta nói chung
rất nghèo nàn và thiếu thốn. Ngày ấy, thỉnh thoảng
bọn sinh viên nội trú chúng tôi phải rủ nhau đi
lượm những mẫu tàn thuốc rê vứt vương vãi đâu đó
dưới nền nhà, vấn lại thành điếu rồi năm sáu đứa
chuyền tay hút vài hơi cho vơi nỗi nhớ quê trong những
đêm mưa gió. Lượm tàn thuốc, chúng tôi nói
với nhau cho đở quê là đi “gom dế nhũi”.
Trước đây hàng thế kỉ, nhà thơ trào phúng
Tú Quì có một bài thơ cảm tác theo thể
thất ngôn bát cú giọng giễu cợt nhưng thân thương
dành cho loài dế này:
Dế duổi bên đèn
Kiến chẳng phải
kiến, voi chẳng voi,
Trời sinh dế duổi
cũng choi-choi,
Ngắn cánh
lên trời bay chẳng thấu
Co tay vạch đất
cũng khoe tài,
Mưa sa nước chảy
lên cao ở,
Lửa đỏ dầu sôi
nhảy tới chơi,
Quân-tử có
thương xin chớ phụ,
Lăm-lăm bay nhảy
để mà coi
(Trích Việt Nam thi văn hợp
tuyển, Dương Quảng Hàm)
Có lẽ không một người Việt Nam nào, nhất là ngừơi
Việt Nam ở đồng quê mà lại chưa từng nghe tiếng dế gáy.
Thế nên nhà thơ của nông thôn Việt Nam Nguyễn Khuyến
cũng không quên nhắc đến dế trong một bài thơ của ông:
Tháng tư
đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi-
ả
Tiếng dế kêu
thiết- tha
Đàn muỗi
bay tơi- tả…
(Nguyễn Khuyến, Đêm mùa
hạ)
Trong tiếng Anh, dế được gọi là cricket, trùng với tên
một môn thể thao. Có thời , “no cricket”(không có
dế), được dùng để ám chỉ những kẻ chơi không đẹp, không
sòng phẳng với nhau. Ở Việt Nam hôm nay, lạ thay, “Dế” lại là
tiếng lóng giới trẻ dùng để gọi điện thoại di động, một phương
tiện liên lạc siêu hiện đại, siêu thời trang đối với mọi
lứa tuổi. Từ lóng này phổ biến đến nỗi giới kinh doanh đã
khai thác khá nhiều trên mục quảng cáo của báo
chí. Điều gì đã khiến cho người ta kết nối hai thực
thể khác biệt này lại với nhau như thế? Tôi cho chính
là yếu tố âm thanh. Thế nhưng ví von tiếng bip bip chói
tay rất khó chịu của điện thoại với tiếng gáy trong trẻo thanh
tao của dế liệu có phải là sự so sánh khiếm nhã
và bất công với loài côn trùng bé
nhỏ này hay chăng?
Từ thủa xa xưa, ve cùng với dế đã là hai bạn lòng
tri âm thân thiết của con người. Có thể nói không
ngoa rằng chúng là một sáng tạo tuyệt vời mà
hoá công đã dâng tặng cho cõi trần gian
ô trược này. Hãy tưởng tượng một mùa hè
thiếu tiếng ve, tiếng dế! Hãy nhớ đến những ngày trời nóng
như thiêu như đốt, cây cối trơ cành xương xẩu, cỏ cháy
vàng úa, rệu rã, mọi người há hốc như sắp gục
ngã vì sự trừng phạt của trời đất vì tội lỗi của
tổ tông, thì bỗng nhiên gánh hát rong ấy
lại xuất hiện, như những chàng lãng tử trở về mái nhà
xưa sau một năm dài ly biệt. Từ đây, chúng thay phiên
nhau suốt ngày đêm để tấu nên bao nhiêu là
giai điệu du dương, ru con người ngủ êm trong cái nóng
oi nồng của buổi ban trưa, khiến họ chịu đựng cực hình mà lòng
vẫn ngân lên những niềm hân hoan.
Dế thường trình diễn điệu nghệ nhất vào lúc bình
minh và vào ban đêm dịu mát, buổi trưa oi ả là
show diễn của loài ve. Mỗi chú ve là một nhạc công
trong dàn giao hưởng chuyên hoà tấu những giai điệu trầm
buồn như khúc ru nôi. Dế, trái lại là những nghệ
sĩ độc tấu tài năng, mỗi khi chàng gãy đàn, các
giai điệu không ngừng chuyển hoá tạo nên bao nổi niềm,
khi hùng tráng, khi dịu êm như những lời tình
tự nỉ non.
Ve chỉ biết chơi nhạc và nằm ngủ, có thể nói chúng
là những nhạc sĩ lười biếng nhất thế gian. Thi hào La Fontaine
đã từng đem ve ra làm hình tượng chế giễu trong
bài thơ ngụ ngôn nhiều người biết “ la Cigale et la Fourmi”.
Dế, trái lại, chàng nghệ sĩ ấy còn là một kiếm
sĩ nữa, một kiếm sĩ tay đàn tay kiếm ngao du hiên ngang
mà lãng tử giữa đất trời. Thế nên thời tiền chiến, dế
đã được nhà văn Tô Hoài xây dựng thành
nhân vậy chính trong tác phẩm “Dế mèn phiêu
lưu ký” làm say sưa biết bao tâm hồn trẻ thơ ở Việt Nam.
Trong loại phim hoạt hình của Walt Disney, con dế Jiminy cùng
với chú chuột Mickey, vịt Donald đã lôi cuốn hàng
triệu khán giả nhỏ của màn ảnh trên toàn thế giới
cả trăm năm qua.
Ve và dế đều đã là đề tài được đưa vào
văn chương nghệ thuật tự thời xa xưa lắm. Thế nhưng ve như những nàng
ca kỉ luôn ở nơi gác tía lầu son,
người ta thưởng thức tiếng nhạc của nàng nhưng hiếm khi có
dịp chiêm ngưỡng dung nhan. Dế là kẻ du ca phiêu
bạt đầu đường xó chợ, bốn phương đâu cũng là nhà.
Từ những bụi cỏ ướt đẫm sương đêm bên vệ đường, đến lầu
vàng điện ngọc hay nơi thâm sơn cùng cốc, đâu đâu
người ta cũng có thể nghe tiếng dế và nhìn thấy loài
côn trùng nhỏ nhoi ấy. Có lẽ vì vậy, người ta
yêu ve như yêu một nàng con gái đẹp, mà
thương dế như thương những người bạn từ thưở hàn vi.
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ
lá
Hoà đàn sẵn có
dế bên tường
( Hàn Mặc Tử, Cửa sổ đêm khuya)
Dế được trẻ con say mê nhờ đôi càng dũng mãnh như
hai thanh đồ long đao, thế nhưng để được con người yêu mến và đưa dế vào
văn chương nghệ thuật, thì chính là nhờ tiếng hát
những đêm trường không ngủ của chúng. Kẻ sĩ phương Đông
thường chuộng cuộc sống ẩn dật xa lánh phù trần. Những buổi
sớm trời se lạnh trong sương mai tinh khiết, khói trầm lan toả hương
trong thư phòng u nhã và tịch tĩnh, ngoài hè
có tiếng dế gáy râm ran, tha thiết như góp phần
dìu tâm hồn con người tan loãng vào cõi
mộng xa xôi. Thế nên kẻ sĩ đã yêu thiên nhiên,
thời không thể không yêu dế:
“Người ta yêu cây thì yêu cả tiếng chim hót
trên cây, yêu đá thì yêu cả tiếng dế
gáy bên đá, vì có cây thì
có chim hót, có đá thì có tiếng
dế gáy. Người Trung Hoa thích nghe tiếng ếch, nhái,
tiếng dế, tiếng ve hơn là yêu mèo, chó và
các loài gia súc khác”
Lâm Ngữ Đường (Sống đẹp)
“Pet” của người Anh người Mỹ là chó với mèo, nhưng với
người phương Đông, ve, và dế mới là những con vật cưng
của họ. Cách nhìn đời và cảm nhận cuộc sống của Tây
và Đông, quả là luôn có nhiều khác
biệt.
Chàng thi sĩ tài hoa và bất hạnh Hàn Mặc Tử còn
có đôi câu thơ ca tụng tiếng dế nghe rất não nùng:
Khóc giùm thân thế
hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế
dạo đàn
Trỗi dậy nôm na vài điệu
cũ
Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
( Thức khuya)
Nhắc đến ve, là nhắc nhớ đến nổi buồn của tuổi hoa niên thơ
mộng. Nhớ đến dế, tâm hồn con người lại rung động lên biết bao
cung bậc sắc màu khác nhau, bởi bao thế hệ khác nhau.
Thế nên dế bước vào cõi văn chương với khá nhiều
hình ảnh, ý nghĩa bất ngờ mà bình thường ta không
thể nào ngờ tới.
Đôi khi, dế chỉ là biểu tượng của sự hèn mạt, tầm thường:
Tiến thân
thì tiến bằng đầu
Tiến bằng hai gối công
hầu mà chi
Mai sau bãi cỏ xanh
rì
Làm thân giun
dế oán gì khóc đêm?
(Khoa Nguyên Chương)
Có lúc, dế biến
thành nghệ sĩ, một nghệ sỉ nghèo kiết xác như gã
hát xẩm trong bản nhạc thiếu nhi rất dễ thương của Lê Thương:
…Có con dế mèn
Suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền
Nên nghèo xác xơ
Đền công cho dế nỉ non
Trời cho sao chiếu ngàn muôn…
(Thằng cuội)
Trời cho sao chiếu ngàn muôn lấp lánh đêm đêm
trên bầu thời cao rộng kia như thế không phải cho người, vì
người, mà là cho dế, để đền công dế hát nỉ non.
Khi nghĩ đến đời nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ nghèo, loại người
đáng yêu nhất trên thế gian này, các thi
nhân thường liên tưởng đến dế. Trong một bài thơ của Nguyễn
Đức Sơn, dế làm ta nhớ đến nổi cô độc, bi thảm và rất
hắt hiu phận người giữa chốn hư vô:
Có một con
dế què
Cánh mòn đập
rè rè
Không ai nghe
Kiến bu trần trụi cuối hè
Một mình trên
trái đất mầu mè
Nằm chết trong lùm
tre
(Nguyễn Đức Sơn, Tịnh Khẩu
, Cảnh đời)
Trong bài thơ “Bông
hồng cài áo” của thiền sư Nhất Hạnh đã được phổ
nhạc và nhiều người ưa thích, dế bất ngờ lại được ví
như biểu tượng của tình mẹ.
Mẹ, Mẹ là
lọn mía ngọt ngào
Mẹ, Mẹ là nải chuối
buồng cau
Là tiếng dế đêm
thâu
Là nắng ấm nương dâu
Là vốn liếng yêu
thương cho cuộc đời
Lão thi sĩ Bùi
Giáng, kẻ rong chơi mõi mòn giữa phố thị đặt ngẹt khói
xăng và bóng đèn ngọn xanh ngọn đỏ cảm nhận loài
dế ở những chiều kích còn sâu thẳm và bi thiết
hơn. Với nhà thơ, dế không đàn, không hát,
mà dế kêu, dế gọi. Tiếng gọi để lại dư vang suốt cả không
gian và thời gian :
“ Dâu biển
ơi! Phong tình cổ lục ơi! Sự tình như thế nào như thế.
Còn đâu nữa một vần tái tạo, một khúc tái
tân thanh. Chỉ còn tịch mịch hư không…Đêm
Con dế kêu
Buồn đêm vắng
Buồn đêm mưa…
Nhưng làm sao dừng
lại
Nhưng làm sao dừng
lại. Dư vang con dế gọi vẫn kéo dài suốt kiếp chúng
ta. Kéo dài suốt giang sơn nước Việt.
Bùi Giáng (Đường
vào thi ca)
Dế, không còn là
những sinh vật tầm thường nữa mà đã được nâng lên
một tầm cao mới. Nó gợi nhớ đến quê hương. Đến thân phận
của giống nòi. Nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng từng
suy tưởng như thế :
-”Ông nội cười khà, day qua xoa đầu cháu và nói
một mình, mắt nhìn ở đâu xa lắm:
-Bắt dế! Ừ, nếu không bao giờ được hưởng cái thú bắt
dế thì con người như...như mất đi hết phân nửa con người.”
( Phân nửa con người)
Mất hết phân nửa con người, thì người không
còn là người nữa. Nói đúng hơn, không còn
là người Việt Nam nữa. Chết thật! Quên đi loài dế, là
quên cả quê hương, chuyện ai mà ngờ nỗi.
Bởi những ai đã quên đi tuổi thơ, quên hương đồng cỏ nội,
thì hình bóng quê hương trong lòng họ chắc
là cũng đã bay đi ít nhiều rồi. Chuyện bắt dế, như vậy
nào phải đâu chỉ là chuyện của trẻ con!
PHIẾM LUẬN VỀ DẾ (II)
Kể từ thời cổ đại, các trang sử của nhân loại khắp nơi trên
hành tinh này luôn đầy cảnh binh đao khói lửa.
Con người có lẽ là loài động vật nhân từ vui vẻ
nhất, mà lại cũng hiếu sát nhất. Thế nên trong cảnh thái
bình, không thể tự cầm vũ khí chém giết lẫn nhau
thì con người cũng bày ra bao nhiêu là trò
đánh đấm để mà tiêu khiển, để làm nóng
lại cái hào khí của những ngày trận mạt đã
qua. Chọi trâu, chọi gà, đá cá lia thia… Họ luôn
mồm kêu gọi hoà bình và tình nhân
loại, nhưng những môn thể thao càng nhiều máu me và
dã man, càng thu hút được nhiều người xem với sự đam
mê và cổ võ cuồng nhiệt nhất.
Trong các trò chơi này, đá dế có lẽ là
môn ít tàn bạo hơn cả, bởi một cụôc đá dế
dù dữ dội cách mấy cũng không thấy có chút
máu nào đổ ra, cũng không có vận động viên
nào ngã chết lăn quay trên sàn đấu. Đá
dế có vẻ thích hợp với trẻ con chính vì tính
chất tương đối hiền lành của trò chơi này.
Trò chơi đá dế ở Việt Nam có lẽ đã bắt nguồn
từ Trung Quốc tự thời xưa. Trong một văn bản được viết năm 742 sau Công
nguyên cho biết rằng hồi đó các công nương từng
rất yêu thích dế nên nuôi chúng trong những
chiếc hộp nhỏ nạm vàng. Với các cung nữ trong cấm thành,
lạnh lẽo, cô đơn có khi suốt kiếp, thì dế chính
là những người bạn gần gũi và quí giá mà
họ có. Đêm đêm, nghe chúng tấu lên những
ngâm khúc, chắc họ cũng vơi đi được ít nhiều nổi sầu
cung oán bi ai.
Ninh Dương được coi là quê hương của môn đá dế.
Điều kiện sinh thái của vùng đất này đã tạo ra
một loài dế thuộc loại siêu đẳng, thân to, răng cứng và
rất sắc, bản tính lại hung hăng, xưa nay từng được mệnh danh là
“Dế cồ đất Sơn Đông”. Mỗi lần giáp mặt với dế Sơn Đông,
thấy dáng vẻ hùng hổ của những chàng “Mãi võ Sơn Đông” này, chưa kịp
so càng dế nơi khác có khi đã kinh hãi
quay đầu bỏ chạy.
Đầu tháng 8, khi dế đến độ trưởng thành, nông dân
các địa phương Ninh Dương, Duyên Châu, Tuân Thành,
Khúc Phụ của tỉnh Sơn Đông không kể trẻ già gái
trai đều đổ nhau ra đồng bắt dế. Bọn thanh niên trai tráng còn
chịu khó thuê xe lặn lội hàng trăm cây số để săn
lùng dế quý. Họ thường đặt cho các chú dế những
cái tên mang đậm màu sắc võ hiệp như “ Minh chủ
võ lâm”, “ Đại kiếm khách”, “Anh hùng cái
thế”… Có những con dế giá chỉ chừng 5 hào, nhưng cũng
có con bán gần ba bốn ngàn nhân dân tệ.
Để đặt cuộc cho một lần đá dế, số tiền có thể lên đến
hàng trăm đô la.
Năm mười năm trước khi nền kinh tế Trung quốc chưa được phát triển
như ngày nay, chính nhờ nghề bắt và bán đặc sản
trời cho này đã cứu cho nhân dân vùng Ninh
Dương và Duyên Châu thoát được cảnh đói
nghèo.
Ở Việt Nam, mùa dế bắt đầu vào khoảng cuối tháng 4,
khi trời rơi những giọt mưa đầu mùa và kéo dài
cho đến tháng 7, tháng 8. Trước những ngày trời mưa,
tiếng dế gáy thường kêu to nhất. Thời gian này, bọn trẻ
con rủ nhau tay cầm cuốc, tay cầm chiếc lon, không kể sớm trưa, mưa
hay nắng, lặn lội trên các cánh đồng để tìm
bắt dế. Dế thường ẩn nấp dưới các đống rơm hay ụ đất, nếu xác
định được nơi ở của dế thì vịêc bắt chúng cũng không
có chi là khó. Cái khó là loài
côn trùng này có một thính giác
cực kỳ nhạy bén, thế nên dù tiếng bước chân hết
sức rón rén nhẹ nhàng từ đàng xa, dế đã
bặt ngay tiếng gáy và người bắt dế chẳng biết đâu mà
định phương hướng nơi chúng ở. Người tìm kẻ núp, giữa
tử và sinh, hơn nhau là ở phương diện thính giác
mà thôi.
Lúc này, mặc đức lang quân chỉ biết lo đờn ca hát
xướng, các chị dế mái trong tổ ấm của mình bận rộn đẻ
trứng và sau đó để chúng nằm yên trong nhiều tháng
trời chờ khi ra đời. Tuỳ thuộc chủng loại, nhộng dế có thể phải
đợi từ 6 đến 12 tháng mới đạt đến giai đoạn trưởng thành, để
rồi “hưởng dương” chỉ ngắn ngủi trong khoảng từ 6 đến 8 tuần mà thôi.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đươc làm kiếp dế ấy, cũng đủ cho
chàng dế trống đêm đêm cất lên tiếng gáy
hoà cùng dàn nhạc của những sinh vật bé nhỏ khác.
Dế thường được nuôi trong những lon đồ hộp phế thải. Người ta bỏ vào
đấy một ít đất, vài cọng cỏ non hoặc giá sống để làm
thức ăn cho chúng. Mỗi khi muốn đá, dế được thả vào
một chiếc hộp lớn hơn giống như một vỏ đài mini. Chơi đá dế,
bao giờ cũng phải có một cây xoe để làm nóng các
đấu sĩ này. Cây xoe thường làm bằng que cây
nhỏ bằng cọng chân nhang, cấm đầu của một con dế đã chết nào
đó vào đấy, nếu không thì gắn vài sợi tóc
ngắn giả làm râu dế cũng được. Xoe tròn cây que
trước con dế đá để kích thích nó, con nào
đang sung sẽ cất lên tiếng gáy re ré và nhe càng
táp đầu đối thủ ngay, dấu hiệu cho biết nó đã sẵn sáng
lâm trận.
Nếu dế còn nhát, người ta có thể làm nóng
cho nó bằng nhiều cách. Dễ nhất là xỏ cây chân
nhang vào dưới mang che cổ nó (nhưng phải cẩn thận không
được làm thủng cổ) rồi phùng má mà thổi
cho đôi cánh dế bay xoè lên. Vừa thổi, bọn trẻ
con vừa phun nước miếng phèo phèo vào con dế đang bay
như các săn sóc viên hay tưới nước lên đầu vỏ sĩ
quyền anh. Làm như thế mà không hiệu quả thì lấy
một sợi tóc máng vào bẹn chân sau của dế để quay
cho chúng bay như các diễn viên xiếc lượn tròn
trên sân khấu. Làm cách này khi thả ra hầu
hết dế đều hăng máu, có lẽ tại chóng mặt chăng, nên
khi bị chọc giận bởi cây xoe trước mặt hoặc sau đuôi thì
hầu hết đều rung phồng đôi cánh cất lên
tiếng gáy rất ròn rả và oai phong.
Để cho cân xứng, dế cũng thường được phân loại như võ
sĩ, có loại hạng nặng -gọi là dế cồ; có loại hạng lông-gọi
là dế út tiêu… Dế đá có nhiều loại, căn
cứ theo màu thì có dế than, dế lửa. Căn cứ nơi cư trú
thì có dế gò mã, dế đống rơm, dế gò mối,
dế bò cạp, tức những con dế ở chung với bò cạp hay rắn, bọn
trẻ con tin rằng những con dế này đá rất “ác chiến”.
Vũ khí duy nhất của loài dế là hai chiếc càng,
càng thường nhe rộng hết cở như hai thanh kiếm sắc để hù doạ
địch thủ. Ngoài ra là đôi chân trụ chống chọi phía
sau như các vỏ sư đứng tấn. Nói là đá nhau, kỳ
thực dế chỉ so càng và tìm cách hắt cho đối thủ
văng ra xa. Thế nên con dế nào chỉ còn một chân,
mất chân trụ, gọi là dế “một ư” thì đá sẽ không
còn “ngon” nữa. Sau khi kèn cựa vài chập, anh nào
chân trụ yếu, lại bị chứng…ê răng thì cứ việc nhanh chân
đào tẩu. Trận chiến xem như kết thúc, con thắng ít khi
đuổi theo truy sát mà ngược lại lo cất cao tiếng hát
khải hoàn bằng những tràng gáy rang rất hùng
dũng vá vui tai. Những kẻ khoe khoang khoác lác
thường bị người ta cho là hay “gáy” là bởi so sánh
với cái thói này của loài dế.
Tất cả con dế trống đều dùng một phương pháp giống nhau để
tạo nên tiếng gáy, vừa để gọi bạn tình, vừa để hù
doạ đối thủ, thế nên gáy càng du dương, càng uy
lực càng tốt. Nghe tiếng gáy đủ biết ta là hạng người
như thế nào, vậy kẻ phàm phu nên sớm liệu mà xéo
đi đừng bén mảng đến phá rối cuộc mây mưa của dế mà
coi chừng mang hoạ. Buổi sáng tiếng gáy của dế nghe rộn ràng
như điệu nhạc vui chào đón bình minh. Khi có
nàng dế mái bên cạnh, dế chuyển sang điệu gáy
khác, từng tiếng một chậm rãi và nhỏ nhẹ như lời tình
tứ. Khi lâm trận, tiếng gáy như tiếng trống giục giã.
Khi chiến thắng, tiếng gáy giòn, vang mà có vẻ
hân hoan, kiêu hãnh.
Nhờ độ rung và sự va chạm vào nhau của đôi cánh
mà dế có thể tạo ra tiếng gáy to vang xa đến thế. Điều
lạ là chỉ có loài dế trống mới có thể phát
ra được âm thanh này. Dế con không gáy được vì
chưa có cánh đã đành, dế mái không
hiểu sao có cánh nhưng cũng không thể cất lên tiếng
gáy được, những đường vân trên cánh con dế trống
liệu có chứa bí ẩn gì không? Ở phương Đông
có câu ngạn ngữ:” Dế là loài hạnh phúc
nhất trên đời vì chúng đều có những bà
vợ không biết gáy”.
Để tạo thêm sự hứng thú cho trò chơi, có nơi còn
tổ chức cho dế thi phóng xa. Ngạn ngữ người Anh có câu:”
Nhanh như dế” (as spy as a cricket). Con dế chẳng những có khả năng
phóng xa hơn gấp trăm lần chiều dài cơ thể nó, mà
đặc biệt nhất là khả năng xuất phát rất tuyệt hảo. Mỗi lần
phóng là một cuộc đua, người ta đo chiều dài bước phóng,
con nào đo được xa nhất thì chủ nhân của nó là
người thắng cuộc. Cũng có khi người ta tổ chức đua dế như đua ngựa,
chủ nhân mỗi chú dế tha hồ mà dùng cây ráy
dế để thúc vào đuôi nó như mấy chú nài
cầm roi quất vào mông ngựa. Con nào về đến mức trước
tiên đương nhiên là thắng giải và chủ nhân
nó hả hê mà lo gom tiền.
Dế không chỉ là loài côn trùng mua vui cho
con người. Thực ra chúng còn được sử dụng như một công
cụ khoa học nưã. Một vài cụ già lớn tuổi cho biết rằng
ngày xưa người ta biết được nhiệt độ của thời tiết nhờ nghe tiếng
dế gáy. Họ cho rằng ở vào khoảng 55 đến 100 độ F thì
mỗi con dế là một nhiệt kế rất đáng tin cậy. Phương pháp
của họ khá đơn giản, họ cứ lắng nghe tiếng gáy và cho
rằng độ lớn của tiếng gáy tương đương với nhiệt độ cao của thời tiết.
Không chỉ ở phương Đông người ta mới biết áp dụng cách
này mà thực ra ở miền Bắc Mỹ ngày xưa người ta cũng
đã đặt biệt danh cho những loài dế trên những cây
đầy tuyết là” thermometer cricket”, ( Nhiệt kế dế).
Ngoài việc thay thế cho một nhiệt kế trong đời sống nông nghiệp
thô sơ thưở xưa, dế còn bị người ta săn bắt để làm nguồn
thức ăn. Cũng như châu chấu và ve, dế là món ăn
đệm theo mùa rất ngon, nhất là trẻ con nhà nghèo
trong thôn xóm vì đó là thức ăn không
phải tốn tiền.
Ở Việt Nam, chúng ta quen thuộc với chỉ vài loại dế như
dế đá, dế cơm, dế nhũi, dế phèn…Thế nhưng người ta biết được
có đến chừng 1.500 loài dế cả thảy trên thế giới, có
loài nhỏ li ti bằng cái móng tay, có loài
dài gần cả tấc như dế cơm. Đáng nói nhất là xưa
nay người ta rất bái phục loài dê, xưng tụng nó
là “anh Hai” là “sư phụ” trong chuyện đàn ông
đàn bà. Thực ra một loài dế ở Úc mới là
vua trong vấn đề này, khả năng thực hiện chuyện ấy trong một ngày
của nó vượt xa loài dê đực và cánh đàn
ông chỉ còn biết mơ tưởng mà không hy vọng đời
nào theo nổi.
Tiết lộ ra điều này làm cho tôi bỗng thêm
lo. Cũng như mỗi khi đọc báo, thấy người ta công bố nhiều công
dụng của thịt dế như nào là có nhiều chất đạm, có
thể chống cholesterol, nào là cách thức chế biến các
món ngon đặc sản từ dế…tôi nghĩ đến cái thảm hoạ của
loài dế chắc đã đến gần. Ngạn ngữ xưa có câu “Con
chim chết vì tiếng gáy”. Loài dế đã gáy
từ vạn thưở, nó vẫn không chết. Nhưng trước sự tàn bạo
bất nhân, trước thói tham lam vô độ của con ngừơi, chắc
rồi đây dế sẽ bị tiêu diệt. To lớn như voi và cá
mập, hùng dũng như cọp và sư tử còn không sống
nỗi thì huống hồ gì loài côn trùng bé
nhỏ như dế.
Có những đêm đi lang thang dưới ánh đèn vàng
vòng quanh thị xã, tôi chợt nhớ những năm tháng
tuổi thơ đã xa xôi, lúc từng đàn dế cơm từ đâu
không biết bay lượn dưới ánh đèn, xoè đôi
cánh non đẹp như chiếc áo của những nàng tiên
đang múa hát. Ngày nay, không còn tiếng
gáy, không còn con dế nào bay nưã, sức
huỷ diệt môi sinh của con người thật là đáng sợ. Tôi
nghe lo lắng và thương xót biết bao nhiêu cho tương lai
của loài dế, người nhạc sĩ hiền lành mà thiên
nhiên đã gửi đến để góp phần xoa dịu những nỗi đau triền
miên của kiếp người.
Một mùa hè vắng bóng chim, một mùa hè
không còn tiếng dế gáy, buồn lắm thay!
Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng;
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn,
Tình buồn, cảnh cũng vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này
Khi trận gió lung lay cành bích
Nghe rì-rầm dế mách ngoài xa
Mơ-hồ nghĩ tiếng xe ra
Đốt phòng hương hả mà bơ áo tàn
Ai ngờ tiếng dế than ri- rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng…
(Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều)