COI HÁT Ở BÌNH
DƯƠNG
HOÀNG ANH
( 10-09-09)
Chuyện Bình Dương thời xưa chắc ít ai còn nhớ
hết, thế nên nhớ đâu nói đó, chuyện nọ xọ chuyện
kia, có trúng có sai, nghe đở buồn, mà cũng có
khi buồn hơn, khi cảm cái cảnh một thời mới đó mà giờ
đã chìm vào dĩ vãng mờ phai.
Nhân cái chết của bà Phùng Há mới đây,
thọ xém một trăm tuổi, nhắc lại chuyện coi hát ở quê nhà.
Rạp hát đầu tiên của chợ Thủ nay vẫn còn một số người
già nhớ là rạp Bầu Liêu, khoảng vài thập niên
đầu của thế kỷ trước. Rạp này nằm ở đường Lý Thường Kiệt, qua
khỏi cầu Võ Văn Vân, phía tay trái, khu đất nay
có mấy quán cà phê dọc theo con kinh và
quán ăn Thanh Ngân. Rạp xây cất có hơi thô
sơ, vách bằng ván cây, chuyên chứa các gánh
hát bội hát suốt đêm với những vở tuồng khắc sâu
vào tâm trí của người thời đó như Phụng Nghi Đình,
San Hậu...Con đường dẫn vào rạp có mấy gánh bán
hàng ăn uống, nước giải khát, đèn dầu tù mù,
người bu xúm xít, tiếng húp cháu rồn rột. Được
nhớ nhiều nhất là ông Út Cháo, chuyên bán
cháo trắng với món cá kho tiêu, đi xem hát
rạp bầu Liêu, ngoài việc thỏa cái thú say mê
ca hát, còn là dịp để thưởng thức món cháo
trắng của ông Út này.
Đến khi rạp ngưng hoạt động vì bị hư hại theo thời gian, bà
bảy Lìn, người giàu nổi tiếng nhất của đất Thủ mua lại khu đất
trên định xây lên một rạp hát tầm cỡ hơn nhưng không
hiểu vì sao kế hoạch đó không thực hiện được. Con đường
này từ đó trở nên vắng vẻ, không còn cảnh
xe bò xe ngựa đậu dài hai bên đường, người dân với
những bộ đồ vải bà ba, tay cầm đuốc chen chúc nói cười,
miệng nhai trầu bỏm bẽm, thuốc rê phì phà. Cũng không
còn nghe mùi nước đái ngựa, mùi phân bò
thoang thoảng, lá chuối, giấy nhật trình gói đồ ăn bay
tơi tả trong bụi cát mỗi khi có gió thổi qua…
Cảnh ấy, từ đầu thập niên 30 đã nhường lại cho con đường Outrey,
tức đường Trưng Vương ngày nay, từ khi rạp Thanh Bình
được xây dựng. Ban đầu rạp có tên là Trần Trung
Hí Viện, bốn chữ này được làm nổi trên tường, ngay
chính giữa sân khấu, lấy theo tên của ông chủ rạp
là Trần Trung Hiếu, thường được gọi là ông Chủ Hiếu, một
người giàu có, lắm ruộng đất, nhà ở khu đất nằm ngay
góc đường Bàu Bàng và Nguyễn Tri Phương, còn
gọi là đường bờ sông, đối diện với Lò Heo, nay là
nơi bán vật liệu xây dựng Vĩnh Xương. Ông có
mấy người con trai như ông Công, ông đốc tờ Triệu, có
phòng mạch tại góc đường Đoàn Trần Nghiệp và
Trừ Văn Thố, ông Vinh, thay ông làm chủ rạp, nhà
tại góc đường Bà Triệu và Trừ Văn Thố, căn nhà
của ông nay vẫn còn nguyên nhưng trông có
vẻ tiêu điều, hoang phế. Sau 1954, rạp đổi tên lại là
Thanh Bình, chắc mừng cảnh nước nhà vừa trải qua một cuộc chiến
tranh, mơ ước những ngày tươi đẹp.
Từ khi có mặt, rạp Thanh Bình trở thành điểm ồn ào,
náo nhiệt, vui vẻ nhất của chợ Thủ, và dĩ nhiên cũng là
nơi đáng nhớ nhất trong lòng của rất nhiều người, mỗi khi nhớ
lại kỷ niệm của tuổi thơ, của dĩ vãng đã mất, của hình
bóng quê hương khi đã đi xa…
Ở cái thời đất rộng người thưa, hầu hết đều nghèo, nhà
tranh vách đất, thì chỉ cần đứng trước rạp nhìn ngắm
nó thôi, lòng người ta đã nghe say đắm, mê
ly. Có thể nói đây là một trong những công
trình kiến trúc nguy nga, lộng lẫy nhất tỉnh mà người
ta được tha hồ nhìn ngắm. Rạp xây theo lối Tây, chạm trổ
nhiều hoa văn đẹp mắt, nóc rạp nhô cao ở chính giữa như
hình cái tháp, có gắn cột thu lôi. Bước
qua khỏi bậc tam cấp đi qua hành lang là tới phòng bán
vé ở hai bên. Trên tường treo nhiều tranh ảnh của nghệ
sĩ, hoặc một số hình ảnh hấp dẫn để giới thiệu phim sắp chiếu. Nhìn
những hình ảnh này người ta càng náo nức muốn
chạy tuôn ngay vào rạp để xem. Bên trái cửa chính
là cầu thang dẫn lên lầu một. Cửa rạp có tấm màn
che kín, lại có bức tường ngăn phía trước, khán
giả phải rẻ qua hai lối đi hai bên để vào rạp. Bên trong
có lối đi chính giữa chạy dài đến sân khấu, hai
bên là hai hàng ghế được kết dính lại. Loại ghế
này không đóng cố định vào khung mà có
thể lắc lư lên xuống được, do vậy những người không quen ngồi
lên có khi bị bật chổng gìo lên thất kinh hồn vía.
Mỗi khi họ đứng dậy thì mặt ghế lại đánh kêu cái
rốp làm người xung quanh phải giựt mình. Nhất là khi
hết tuồng, khán giả thi nhau đứng dậy thì tiếng ghế kêu
vang khắp rạp, nghe rất vui tai. Sát hai hàng ghế này,
cách một lối đi hẹp là các ghế dài vô tới
bìa tường, dành cho vé hạng cá kèo, ngồi
đây thường bị các cây cột che khuất tầm mắt, rất bực bội,
muốn coi rõ phải chồm qua người kế bên, không quen sẽ bị
cự nự rất khổ. Trên lầu, xây theo hình chữ u đánh
một vòng chung quanh rạp, có lan can bảo vệ, ngay chính
giữa đối diện với rạp làm theo hình vòng cung nhô
ra, đây là chỗ ngồi dành cho thượng khách khi xem
phim, còn khi xem hát, hàng ghế đầu gần sân khấu
mới là ghế hạng nhất vì có thể nhìn ngắm nghệ
sĩ rõ ràng hơn. Trong rạp, trên tường có bức tượng
trang trí hình thiếu nữ Tây phương ôm cây
đàn lyre truyền thống của họ, theo mô típ Hy Lạp rất
đẹp. Người ta đồn rằng lúc sấm sét thường thấy hai cô
này cười và lúc không có hát thì
thường hiện ra đi lất phất trong rạp. Bọn trẻ con nghe vậy sợ muốn té
đ…nhưng mỗi khi có hát, mê hát thì chẳng
kể số gì nữa, đứa leo cửa sổ tòn ten trên lầu, đứa thì
tìm cách chen lấn đến gần sân khấu coi cho rõ.
Bọn coi cọp (lén chui vào rạp không mua vé), lâu
lâu lại bị mấy ông xét vé tóm cổ lôi
ra. Sân khấu lót bằng ván dày, có một cái
thang xuống tầng hầm nơi nhân viên gánh hát ở.
Phía bên phải của rạp có lối vào một dãy
nhà ba căn, một là chỗ ở của người gác dan lo quét
dọn rạp, hai căn còn lại dành cho đào kép nhứt.
Cách một khoảng sân nhỏ là dãy nhà bếp,
sau nhà bếp là nhà tắm, nhà vệ sinh. Tại đây
có hai cửa nhỏ, một là lối vào rạp hát, ngay khoảng
trống giữa sân khấu và hàng ghế đầu tiên; cửa thứ
hai có bậc tam cấp dẫn lên sân khấu. Đối dịên với
nhà vệ sinh, trên tường rạp có treo một bàn
thờ nhỏ với chỉ một cái lư hương thôi. Bàn thờ này
để thờ cúng một người gọi là cậu Năm Chà, dường như là
người của một gánh hát nào đó, thất chí
treo cổ tự vẩn trong rạp hát này. Nghe nói hồn cậu không
siêu thoát được, linh lắm nên gánh hát nào
về đây cũng lo cúng vái rất chu đáo cầu xin cậu
phù hộ.
Cứ lâu lâu thì có một gánh hát về,
đó là những ngày vui vẻ tưng bừng của bà con đất
Thủ. Ban ngày có xe chạy vòng vòng các
con đường ở chợ phát tờ bướm quảng cáo, vừa phát loa
đọc những lời giới thiệu tuồng hát và nghệ sĩ trình diễn
nghe rất hấp dẫn. Thời xưa là các gánh hát bộ,
lâu lâu cũng có gánh hát đồng ấu Triều Châu
với đào kép là trẻ con, đứa lớn nhứt 12 tuổi, đứa nhỏ
7 tuổi, hát từ 8 giờ sáng đến 6 giờ sáng hôm sau
mới dứt. Vậy nhưng cứ chiều tối thì người ta cũng lũ lượt tới xem,
nhứt là mấy bà xẩm với túi xách mang theo nào
là bình thủy, đồ ăn, áo ấm…Về khuya, cứ lâu lâu
lại nghe cái rầm trên lầu, ai nấy giựt mình, ngó
lên thì thấy một bà xẩm nào đó vì
ngủ gục nên té xuống sàn, giỏ xách văng tứ tung
bánh trái nước nôi.
Về sau, hát bội hết thời, và được thay thế bằng các
gánh cải lương. Đông nhứt là dịp tết, người ở chợ và
từ các vùng quê lũ lượt kéo nhau đến rạp hát,
chen lấn, xô đẩy. Bọn trẻ con nhà nghèo thì nắm
đại tay người nào đó để chui vào rạp vì trẻ con
đi kèm người lớn thì không tốn tiền. Ăn gian
không được thì ngồi trước rạp chờ gần hết giờ chạy vào
coi thả giàn. Hai bên con đường vào rạp có rất
nhiều xe bán nước đá đậu xanh đậu đỏ, bánh lọt, xe nước
mía, bò viên, lại có mấy chị mấy cô bưng
cái thao bán ốc len, ốc gạo, đâu phộng rang, mía
ghim… Các gánh hát lớn và đào kép
nổi tiếng thời đó đều đã từng về đây như đoàn
Kim Chung với Minh Phụng, Minh Vương, Lệ Thủy, Kiều Tiên; gánh
Dạ Lý Hương với Hùng Cường, Bạch Tuyết… Buổi sáng đào
kép tập tuồng, những người ghiền cải lương mà rảnh rổi hay
bọn trẻ con thường vào rạp để coi. Có lần tập
tuồng xong hai ông Minh Phụng và Minh Vương xuống ngồi ở ghế
khán giả nghỉ mệt. Tôi chạy lại ngồi phía sau lắng nghe
hai ông nói chuyện, dè đâu hai ông hay chen
vào những tiếng chưởi thề làm tôi rất ngạc nhiên.
Một bữa khác, gần tới giờ diễn vở Kiếm Sĩ Người Dơi của đoàn
Minh Cảnh, tôi lẩn quẩn khu nhà sau chờ coi mặt nghệ sĩ, thì
thấy ông Minh Cảnh chuẩn bị đi tắm, ông ở trần, mặc chiếc quần
xà lỏn, da trắng bóc nhưng gầy và nhỏ con. Mấy hình
ảnh này làm tôi vỡ mộng hết sức!
Khoảng cuối thập niên 60, những khi không có cải lương
ngươì ta chiếu phim, nhưng bộ môn này thì rạp Thanh
Bình kém thu hút hơn rạp Bình Minh, mới xây,
rộng lớn, khang trang hơn. Lúc đầu hầu hết là phim Ấn
Độ, sau mới có phim Tây, đến thập niên 60 trở đi là
thời của phim Tàu với những cái tên như Vương Vũ, Khương
Đại Vệ, Địch Long, Lý Tiểu Long... Được đến rạp hát là
thú vui lớn của thời đó, nhất là với các cặp
thanh niên nam nữ, đây còn là nơi và dịp
để hò hẹn, yêu đương. Các gánh đại nhạc hội, các
đoàn kịch cũng thay phiên nhau về đây, vì vậy rạp
Thanh Bình hội tụ hầu như đầy đủ các nghệ sĩ lừng danh của
miền Nam thưở trước.
Có một sự kiện bi thảm đáng ghi nhớ về rạp Thanh Bình.
Vào năm 1949, hôm đó có một số người tụ tập tại
dãy nhà bên hông rạp để đánh bài Cẩu,
loại bày bằng sừng của người Hoa, đánh kêu lốc cốc. Đang
chơi thì có một người vào xin tiền, bị đuổi ra, người
đó oán bèn đi thẳng lên dốc ông Cò
báo là có Việt Minh đang họp. Hai người lính Tây
liền cầm súng đi ngay xuống rạp, tới nơi họ bắn xối xả vào đám
người này, tất cả có 49 người tử nạn nằm la liệt, máu
loang khắp nơi trông rất rùng rợn. Hai người chạy núp
trong cầu tiêu cũng bị bắn chết. Kẻ duy nhất may mắn sống sót
là thanh niên tên Thạch, sinh năm 1925, con của ông
Năm Trong, nhà ở bờ sông, khu đất gần nhà bảo sanh bà
Năm Chi, nay là khu chung cư. Di tích duy nhất nay còn
sót lại là cột cửa ngõ, ngay đầu đường dẫn vào
khu nhà cao ngất này. Ông Thạch về sau sống
ở Thái Lan, ông có người em là đại tá pháo
binh dù Nguyễn Văn Tường , đang sống ở nước ngoaì. Nghe nói
kẻ đi báo tin cho Tây về sau rất ray rức hối hận vì hành
động dại dột của mình thời trẻ đã gây ra hậu quả quá
thảm khốc như vậy. Nay ông cũng đã mất.
Cùng với vụ thảm sát cư dân làng Chánh
Hiệp tại cầu Suối Giữa, trên 50 người chết, thì đây là
hai kiếp nạn lớn nhất thời nô lệ mà người dân đất Thủ phải
gánh chịu. Tại Suối Giữa, sau khi bắn chết hết những người dân
vô tội bị bắt, Tây còn cho gom những người còn lại
ra chôn cất người chết. Họ cắt đầu nạn nhân, cho đổ máu
vô một cái thùng, pha với nước và muối rồi bắt
buộc mấy người này phải uống một tô, ai không uống họ sẽ
bắn tiếp. Chuyện này mấy người già trong làng kể lại,
nếu đúng như vậy thì quá khủng khiếp, man rợ không
tưởng tượng nỗi.
Khoảng giữa thập niên 60, rạp Bình Minh nằm trên đường
quốc lộ 13 được xây cất. Miếng đất hình tam giác nằm giữa
ba con đường Cách Mạnh Tháng 8, đường Lý Thường Kiệt,
đường Nguyễn An Ninh… nguyên là đất của ông Đốc Cậy, nhà
ở đường Phan Văn Hùm cũ, nay là Nguyễn Tử Bình, sau
bán cho nhà thờ, nay là nhà trẻ. Ông
Cậy phân lô đất bán nền, ông Thái mua một
khu khá lớn để xây rạp Bình Minh, chuyên chiếu phim.
Rạp cất theo lối mới, hiện đại hơn rạp Thanh Bình.
Sau 75, các gánh cải lương tàn dần, rạp Thanh Bình
từ từ đóng cửa rồi bị bỏ hoang, cây cỏ mọc trên mái
nhà, góc sân, nhìn thật nao lòng. Đầu năm
2009 bị phá bỏ, một công trình mới chuẩn bị xây
dựng, hí trường của một thời đã từ đây chỉ còn
là chuyện quá khứ. Rạp Bình Minh sau thời gian ngưng
hoạt động đã biến thành nhà sách và văn
phòng phẩm, trên lầu, người ta dùng để chiếu phim nhưng
không còn cảnh giành giựt mua vé như thời trước,
thời của hai phim chiếu chung, phim màu, màn ảnh đại vĩ tuyến…