Chợ Huyện ở Bình
Dương
Hoàng Anh
CHỢ CÂY ME
Nếu đi từ hướng thị xã, gần đến trụ sở UBND xã Bình
Nhâm, rẽ ngã ba bên trái, qua cây
cầu nhỏ bắt ngang rạch, rồi theo một con đường đất đỏ khá rộng đi
sâu vào giữa những vườn cây trái xanh um, bạn sẽ
đến một nơi có tên là Cây Me. Ngay đối với nhiều
người là dân địa phương họ cũng không ngờ rằng nơi đây
thưở xa xưa đã từng là một ngôi chợ có danh tiếng,
từ thời vua Tự Đức, tiền thân của chợ Lái Thiêu, và
rất có thể là ngôi chợ thuộc vào loại đầu tiên
của tỉnh này.
“Chợ Bình Nhan Thượng, ở thôn Bình Nhan Thượng, huyện
Bình An, tục gọi chợ Cây Me, nay hãy còn tên
chợ Cây Me, từ chợ Bình Nhâm vào. Tại sao thay
đổi Bình Nhan thành Bình Nhâm ? Trong Đại Nam
Nhất Thống Chí, chữ Hán ghi rõ Nhan, theo nghĩa nhan
sắc, dung nhan. Đổi ra Nhâm, có lẽ vì lúc sau
này, kỵ húy trùng tên với quan chức địa phương
nào chăng ? “ ( Sơn Nam, Địa Chí Sông Bé ).
Lái Thiêu và Búng còn là nơi cư
trú khá an toàn của người theo đạo Thiên Chúa
gốc từ miền Trung, hoặc từ Sài Gòn, lúc triều đình
thi hành chính sách kỳ thị. Ban sơ giáo dân
tụ ở Cây Me, và nhà thờ của họ đạo Lái Thiêu
đầu tiên lập tại chợ Cây Me này, có bàn
thờ chúa do Bá Đa Lộc cho xây dựng đơn sơ từ năm 1771.
Như vậy ta hiểu, hồi giữa thế kỷ 17, nơi đây đã co ùngười
khai khẩn.
Một số học sinh trường Bá Nghệ Thủ Dầu Một từng đến chợ cây
Me để lập trại cẩn xà cừ, đóng tủ, bàn ghế. Có
lò nhuộm, làm gia công cho những lò lớn ở Gò
Vấp. Rạp hát Cây Me cất sớm hơn rạp Lái Thiêu;
gánh hát bội “Bầu Tảo” khoảng 1920, nổi danh với những cô
đào “Thài” thu hút khán gỉa từ Búng, Lái
Thiêu kéo đến xem.
Nhờ con rạch mà ghe tải ra vào được từ Bình Nhâm.
Lần hồi rạch này cạn dần. Xung quanh vùng có vườn trồng
thơm, lò bún, lò bánh tráng, bánh
hỏi, lò hủ tiếu. Chợ Dĩ An phát triển với đề pô xe lửa,
bạn hàng qua Cây Me mua hàng với khối lượng lớn. Như
vậy sau năm 1913, đến thập niên 20 của thế kỷ trước, chợ Cây
Me vẫn còn sung túc.
Một thời trước năm 1945, chợ Cây Me là trung tâm du ngoạn
thu hút những người khó tính nhất của Sài Gòn
và vùng phụ cận, người Pháp cũng ưa thích : Suối
Đờn. Lại có thêm nghề làm khăn đen. Kiểu khăn đóng
theo thời trang ở Nam bộ, rất cần cho hương chức hội tề, thân hào,
điền chủ . “ Khăn đen suối Đờn do ông Nguyễn Văn Bút sản xuất
và chào hàng ở Cầu Bông ( Sài Gòn
) được quảng cáo trên các báo, tiếng đồn khắp
nông thôn tận phía Cà Mau.” Xưa có bài
vè Suối Đờn:
Tiếng đồn Lục Tỉnh bốn phương
Sài Gòn, Chợ Lớn tìm đường đến chơi
Đường đi một buổi hẵn hoi
Anh em lớn nhỏ đi coi Suối Đờn
Bình Nhâm có chú Mười Hoài
Làm một dàn máy nó hay quá chừng !
Đương kêu vặn máy nó ngừng
Dưới ao ngũ hổ nước dâng lên liền
Trong nhà trống đánh cồng chiêng
Cũng như làng xóm Kỳ Yên trong đình
Muốn xin lớp nhạc cũng xong
Làm thầy gõ mõ tụng kinh cũng rành.
CHỢ BÚNG
Năm 1862, triều đình Huế ký “hoà ước năm Nhâm
Tuất” , nhường đứt cho Pháp 3 tỉnh miền đông. Sau đó,
Pháp liền chia cắt lại ranh giới 3 tỉnh này. Huyện Bình
An thuộc tỉnh Biên Hòa, lỵ sở đặt tại Búng. Huyện Bình
An lúc này bao gồm một địa phận rất rộng lớn, gồm cả tỉnh Bình
Dương ngày nay, một phần Bình Phước, và quận Thủ Đức
( cũ ) của thành phố HCM. Sự kiện này cho thấy vào thời
điểm đó, Búng phải là một nơi sung túc, phồn
thịnh hơn các nơi khác trong khu vực.
Đường đi cũng có suối khe
Muốn lên chợ Búng mà nghe huê tình.
Đến năm 1867, Niên Giám Nam Kỳ thuộc Pháp đã ghi
là tỉnh Biên Hòa chia ra làm 5 địa hạt, địa hạt
Bình An thay cho huyện Bình An, lỵ sở đặt tại Thủ Dầu Một.
Tư øthời điểm này, tầm quan trọng về chiến lược, chính
trị … của Búng phải nhường cho một nơi khác. Tuy nhiên,
về phương diện thương mại, Búng chưa thể suy tàn ngay.
Búng hồi đó thuộc thôn Tương An, nay thuộc xã
An Thạnh, nằm cách Thủ Dầu Một 6 km bằng đường bộ. Người Pháp
xây dựng nhà lồng chợ từ năm 1903. Chợ có hình
chữ nhật với diện tích 150 x 30 m2 hướng ra đường quốc lộ 13 cũ. Bên
kia đường là khoảng trống làm bến xe, có dãy
tiệm quán hàng ăn bao bọc thành hình vòng
cung. Đối diện với chợ ở khu đó là quán cơm Xã
Hội nằm ven bờ rạch, nay là trụ sở lực lượng an ninh trật tự. Chợ
có hai nhà lồng riêng biệt. Phía sau là
khu chợ lộ thiên, người buôn bán tự che dù. Hai
bên hông chợ người ta sử dụng vỉa hè, nhà ở hai
dãy phố để buôn bán.
Năm 1912 chợ Búng được xếp vào thị tứ hạng ba ngang với Bà
Rịa, Vũng Tàu, Hà Tiên, Tây Ninh !
Có nhiều cách giải thích khác nhau cho địa danh
chợ Búng. Có người cho rằng vì chợ nằm gần cái
búng nước( chỗ nước xoáy ); người khác lại nói
do xưa gọi là “chợ Bưng”, vì đây đúng là
vùng đất bưng, người Pháp viết trên bản đồ là
“Bung “, người Việt đọc thành “Búng“; có người lại nghĩ
do vùng này vốn nổi tiếng với nghề làm bún và
món bún bì, do viết sai chính tả từ “ bún”
mà có tên là chợ Búng… Ngày nay,
chúng ta thiếu cơ sở vững chắc để có thể xác định thuyết
nào là đúng nhất, tuy nhiên biết được Búng
từng được xếp ngang hàng với chợ Bà Rịa, Vũng Tàu, mọi
người chắc ít ai ngờ.
“Vào năm 1910 có 970 người dân, là một thị
trấn xinh đẹp có nhiều lò gốm, có lò sát
sinh, có đình chùa tươm tất, có chợ búa
lợp mái ngói, làø nơi tiếp tế cho Sài
Gòn đủ loại trái cây như xoài, măng cụt, thơm…”(
Sơn Nam, Địa chí Sông Bé )
Búng là trung tâm của vườn cây Lái Thiêu
nổi tiếng từ xưa tới nay. Là chợ đầu mối mua bán trái
cây từ đây đi các nơi khác, nhất là vùng
Gia Định. Vào mùa trái cây, dịp mùng 5
tháng 5, du khách các nơi kéo về du ngoạn cảnh
vườn và ra chợ Búng thưởng thức món ăn ngon rất đông.
Chợ Búng đã qua thời vàng son nhất của mình,
nhưng chính vào thời điểm mà vị trí của ngôi
chợ ngày càng suy đi thì may mắn thay, lại có
sự xuất hiện của một vài tiệm quán bán đồ ăn. Nhờ các
quán ăn này mà tên tuổi chợ Búng đã
vang xa khắp cả Nam Kỳ lục tỉnh trước đây và ngày nay
vẫn còn được nhớ : món bánh bèo bì, bún
thịt nướng của tiệm Mỹ Liên, Ngọc Hương…
Trong các quán ăn này, người ta luôn trưng bày
các hủ kiếng đựng đồ chua như củ kiệu, củ cải, cà rốt … nhìn
rất đẹp mắt và hấp dẫn. Bây giờ không ai còn ngờ
được Búng từng là trung tâm huyện lỵ của một vùng
đất vô cùng to lớn, rằng Búng đã từng ngang hàng
với chợ Vũng Tàu, Bà Rịa … nhưng thương hiệu bánh bèo
Mỹ Liên thì du khách nhiều nơi nay vẫn còn biết
đến.
Ngoài ra cũng nên nhắc đến một thương hiệu khác
: “ Phở Cây Xoài”, một tiệm phở chủ nhân là người
Bắc đã bán từ năm 1955 đến nay. Thập niên 60, có
quán cơm xã hội, loại quán bán cho người nghèo
nằm đối diện với cửa chợ, bên bờ rạch. Khu vực Cầu Ngang có
rất nhiều hàng quán phục vụ khách du lịch, mở trong
vườn trái cây. Quán ăn chưa có điểm nào
nổi trội lắm, riêng cà phê có quán Đồng
Vọng, mở sâu trong vườn, chuyên mở nhạc Trịnh Công Sơn,
hiện nay cũng là điểm đến lý thú.
Ngày nay chợ Búng đã được xây cất lại khá
khang trang, tịêm quán hai bên đường mọc lên san
sát, nhưng giờ đây nó chỉ là một ngôi chợ
nhỏ nếu so với các chợ khác trong tỉnh. Một thời vang bóng
của Búng đã qua.
CHỢ LÁI THIÊU
Chợ Lái Thiêu thành hình sau chợ cây Me,
và có thể sau cả chợ Búng. Lái Thiêu từ
xa xưa là địa bàn cư trú của nhiều lớp cư dân
người Việt đầu tiên đến đây làm ăn sinh sống. Chính
vì thế, ở đây tập trung nhiều ngành nghề truyền thống
như gốm sứ, điêu khắc, chạm trổ, mộc … Nghề mộc, nghề vẽ tranh kiếng
phát triển với tốc độ nhanh, mãi đến trước năm 1945. Dọc theo
bờ rạch Lái Thiêu, có dãy nhà chuyên
vẽ kiếng, thợ cẩn, thợ tiện, thợ mộc từ Bắc bộ vào sống ở quanh chợ.
Thời Pháp mới đến, chợ Lái Thiêu còn thu gọn ven
bờ rạch, nơi ranh giữa hai làng Bình Nhâm và Tân
Thới. Cách bờ không xa là rừng thưa, rải rác những
cây to. Là tụ điểm giao lưu thủy bộ nên chợ phát
triển nhanh, tiệm quán tấp nập, chè cháo, cà
phê bán suốt đêm, với nhiều khách vãng lai,
không kém một tỉnh lỵ.
“Theo niên giám Đông Dương năm 1912, chợ Lái
Thiêu đứng đồng hạng với các chợ sung túc phía
đồng bằng như Ô MoÂn, Bình Thủy (Cần Thơ ) và đứng
vào hàng thị tứ quan trọng bậc hai, ngang với các tỉnh
lỵ Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Long Xuyên, Châu Đốc, Biên
Hòa, sung túc hơn các tỉnh lỵ (thị tứ hạng ba) như Bà
Rịa, Tây Ninh, Hà Tiên,Vũng Tàu. Tại Lái
Thiêu, có ba nhà vựa cá đồng, phân phối
cho các chợ lân cận, nhà có ghe cá từ U
Minh ( Rạch Gía ) đến bán dịp tết, đậu lại đôi ngày
chờ chở lu hũ, tô chén, bàn ghế về miền Tây. Lại
còn khu vực chợ Đường, với nhiều nhà vựa dự trữ khối lượng
lớn. Khoảng 1945 trở về trước, đường cát trắng là xa xí
phẩm, nông dân và lớp nghèo thành thị thích
dùng đường thẻ, đường móng trâu, màu sắc không
đẹp nhưng rẻ tiền, phảng phất hương vị của mật mía.” (Sơn Nam,
sđd)
Chợ Lái Thiêu ở trung tâm huyện lỵ, nằm rãi rác
theo các dãy phố như: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Pasteur,
Trưng Nữ Vương, Đỗ Hữu Vị và tập trung nhất là đường Nguyễn
Văn Tiết. Những khu phố này được gọi là phố chợ. Vì
sinh hoạt buôn bán xen lẫn với sinh hoạt dân cư do vậy
dễ gây tình trạng mất vệ sinh, trật tự lưu thông. Năm
1989, khu phố Lê Lợi được cải tạo để xây dựng phố chợ, nhà
lồng chợ theo kiến trúc hiện đại hơn xưa.
Chợ Lái Thiêu, ngoài đặc sản trái cây đã
nổi tiếng từ lâu, phải kể đến các tiệm quán bán
hàng ăn, đặc biệt là tiệm của người Hoa. Đây được xem
là khu vực bán thức ăn ngon, và có nhiều giai
thoại cũng cần ghi chép lại.
Các món ăn Tàu như mì, hủ tiếu, xíu mại,
bánh bao … là các món chánh. Chợ Lái
Thiêu là khu vực có rất nhiều tiệm mì Hoa, món
mì hủ tiú hoành thánh, bò viên nơi
đây được tiếng là ngon, có ngưòi còn cho
là ngon hơn cả trên chợ Thủ. Tiệm mì Phước Kiến,
gần chùa ông Bổn, của chú Chuỵl, nổi tiếng ngon nhất
Lái Thiêu thời trước 75, cùng với món vịt quay
hảo hạng, nay đã nghĩ bán. Mì Triều Châu, mì
Quảng Châu, gần cầu Lái Thiêu, đường Phan Đình
Phùng, nay vẫn còn.
Đáng nhớ còn có những tiệm như Mì chú
Hớ nấu theo cách của người Triều Châu, cọng to như cọng bánh
canh của người Việt. Trên tô mì có kèm con
tôm chiên lăn bột hoặc một miếng chả chiên. Ngày
nay tiệm mì này đã nghĩ bán. Tiệm mì chị
Ui người Quảng bán rất trứ danh, khoảng 1962 chị về Sài Gòn,
bán ở chợ An Đông cũng tấp nập khách khưá một
thời, sau 75 chị đi ra nước ngoài.
Xe bò viên của một ông các chú Tiều, xưa
bán gần tiệm Trường Giang gần bờ rạch Lái Thiêu, nay
con cháu vẫn tiếp tục bán ở chùa Ba,ø đáng
kể là tiệm bò viên lâu đời nhất của Lái
Thiêu, phải trên sáu bảy chục năm.
Khi tô phở Bắc khởi sự bán ở vùng đất này, dân
địa phương không biết đó là món gì, người
bán phải cất công giải thích đó là món
hủ tíu nấu với thịt bò. Để cải biên cho hợp với
khẩu vị của dân địa phương vốn đã quen các món
ăn Tàu thường sử dụng tương xay làm nước chấm như món
bò viên chẳng hạn, người ta đã bỏ tương vào tô
phở. Đây là khác biệt lớn nhất của tô phở Bắc và
phở trong Nam. Ngày nay, người miền Nam ăn tô phở không
có tương thì họ không ăn được, không có
tương thì với họ là món ăn gì đó chớ khơng
phải phở.
Tiệm quán người Hoa, ngoài tiệm mì, phải kể đến tiệm
nước, nơi bán cà phê, nước giải khát, các
loại bánh ngọt, bánh bao, bánh tiêu… Ở Lái
Thiêu thời trước có tiệm Đồng Tâm, rất nổi tiếng với món
bánh bao. Bánh bao Đồng Tâm thưở ấy được cho là
ngon nhất miền Nam. Sau thập niên 70, tiệm mất dần danh tiếng và
sau 75 thì nghỉ bán. Ngày nay đi ngang nếu để ý
ta sẽ thấy tấm bảng hiệu được sử dụng làm tấm vách phía
sau nhà, hai chữ Đồng Tâm rạng rở thời nào nay tuy mờ
nhạt song vẫn còn đọc được. Sau Đồng Tâm, nổi tiếng thứ hai
là tiệm Hưởng Ký ở ngay dãy phố chợ, nay vẫn còn
bán.
Phần trên nói đến thức ăn của người Tàu, còn về
món ăn của người Việt, nổi tiếng nhất Lái Thiêu phải
kể đến Nem Lái Thiêu, tiệm gần ngã năm Lái Thiêu,
tồn tại đã gần trăm năm. Người đầu tiên làm ra món
nem này là bà Hai Dư, cách nay đã gần
tròn thế kỷ, bà gánh gánh đi bán dạo,
sau có tiếng rồi mới làm và bán tại nhà,
hoặc bỏ mối cho tiệm bánh bèo bì ở chợ Búng.
Nhờ một vài người bán dạo, nhất là một ông lão
bị mù, và bạn hàng buôn chuyến mà thương
hiệu Nem Lái Thiêu vang ra các tỉnh khác. Nhiều
nghệ sĩ danh tiếng thời đó như Thanh Nga, Bạch Tuyết … từng đến tận
cơ sở làm nem để mua về Sài Gòn, mỗi khi họ có
dịp về Bình Dương. Nay tiệm vẫn còn hoạt động, vẫn làm
theo lối thủ công truyền thống của gia đình, và nem Lái
Thiêu vẫn là niềm tự hào về phương diện ẩm thực của người
dân nơi đây.
Bình Dương là xứ đậu phộng nên từ lâu đã
có nghề làm ra nhiều thứ kẹo đậu phộng, trong đó có
kẹo đậu phộng sên đường trên miếng bánh tráng phồng
nhỏ cở bằng cái miệng chén. Bình Dương cũng lại là
xứ trồng điều, và người ta đã biết bắt chước cách làm
kẹo đậu phộng bánh tráng bằng kẹo hột điều. Nhất xứ Lái
Thiêu và có thể nhất cả Bình Dương là kẹo
hạt điều bàø Chín. Bà mới vừa mất, gần
trăm tuổi. Con cháu không ai theo nghiệp nên bí
quyết của bà chắc sẽ thất truyền. Ngày nay ai muốn thưởng
thức loại kẹo giống như kẹo bà Chín đã làm có
thể đến quán bánh bèo Mỹ Liên ở chợ Búng.
Kế đến là món mắm thái của bà Hai Lạc, nay bà
đã mất lúc ngoài chín mươi tuổi. Thời trưóc
75 đây cũng thuộc vào loại mắm “tiến vua”, nói thế vì
tỉnh trưởng thời đó có lần thết đãi Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu ăn cơm trưa với món mắm này rất được khen ngợi. Về
sau, hàng năm tỉnh thưòng đặt bà Hai Lạc mắm để làm
quà biếu cho dinh Tổng Thống, đặc biệt phu nhân Tổng thống
Thiệu rất thích loại mắm này, cùng với các đặc
sản hàng năm như măng cụt, sầu riêng … Bình Dương rất
được phủ Tổng Thống khen ngợi về món ăn ngon.
Phở Cây Bàng, nằm cạnh bờ rạch chợ Lái Thiêu, nay
bị che khuất bởi các sạp hàng bán gia vị, tạp hóa
nằm chắn ngay trước cửa nên khách đi đường không thể thấy
được, nay chỉ còn bán cho những người ở chợ. Tiệm bán
từ trước năm 1945, chủ nhân là một người miền Bắc vào
đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ, giỏi nghề thợ mộc, xưa gọi thợ Bắc, nay
ông đã ngoài 90, vẫn còn sống. Qua tiệm phở này,
có thể cho rằng món phở độc đáo đã được du nhập
trực tiếp từ Bắc vào Bình Dương mà không thông
qua cửa Sài Gòn như nhiêàu thứ khác. Ngày
nay có tiệm phở Lài là tương đối đông khách,
ngoài ra là phở chay Phổ Minh, ở gần đó, ngay ngã
ba Cây Liễu, lắm người nhận xét là phở chay mà
còn ngon hơn phở mặn, thế nên dân Sài Gòn
mà cũng biết tiếng, nhiều khi xách xe từ Sài Gòn
chạy về đây để chỉ ăn tô phở.
Thời kinh tế thị trường, Lái Thiêu là cửa ngỏ để vào
những khu công nghiệp lớn của Bình Dương như Sóng Thần,
Việt Hương, Singapore … nên là cơ hội cho hàng quán
thức ăn mọc lên. Ngoài một số nhà hàng lớn khu
vực cầu Ông Bố, như quán phở Huỳnh Hoa, quán lẩu dê
Thanh Sơn, quán Cá Lóc Nướng … Còn nhiều quán
khác khai thác tâm lý thích cảnh đồng quê
mát mẻ của dân thị thành đã xây dựng trong
những nơi có vườn tược êm ả, khuất vắng.
CHỢ DĨ AN
Chợ Dĩ An, đến nay đã được 93 năm (2004). Chợ nằm ở khu phố Bình
Minh, diện tích 3225 m2, có một nhà lồng chợ ( Pháp
xây dựng từ năm 1911). Lúc này cũng là thời điểm
deport xe lửa Dĩ An được thành lập ( 1913 ?), nên khu vực này
từ đây ngày càng trở nên sầm uất.
CHỢ TÂN UYÊN
“Chợ Tân Uyên, ở xã Tân An, huyện Phước Chánh,
tục gọi chợ Đồng Sứ, người các nơi mua bán đông đảo lại
có cơ quan của tuần Bình Lợi đóng ở đây. Đây
là kiểu trạm kiểm soát, thâu thuế sản vật từ trên
rừng đem xuống.”(DNNTC)
Như đã nói ở phần trên, Tân Uyên là
một trong những nơi mà người Việt thưở xưa đã đến định cư rất
sớm, ngang bằng hoặc thậm chí trước cả Lái Thiêu vì
nơi đây khá gần với Cù Lao Phố mà thời ấy nhờ
nhóm người Hoa của Trần Thắng Tài, đã rất phát
đạt, dấu hiệu cho thấy người Việât và Hoa đã định cư
khu vực này khá đông rồi.
Trong tác phẩm của một nhà văn xứ Đồng Nai, ông Bình
Nguyên Lộc, đã cho ta biết thêm về ngôi chợ này
như sau: “Tôi chỉ hạn chế địa bàn quan sát trong tỉnh
tôi thôi, là tỉnh Biên Hòa, không nói
đến ba tỉnh khác là Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Bà
Rịa…
Bốn tiền đồn xuất quân trong tỉnh này là : tiền đồn lớn
nhứt là chợ Tân Uyên, chợ huyện lớn nhứt trong tỉnh, Long
Thành là chợ huyện lớn nhì trong tỉnh. Hai tiền đồn
khác không phải là chợ huyện mà chỉ là
chợ làng giàu là tiền đồn thứ ba và thứ tư. Đó
là chợ Cây Đào và chợ Tân Ba “ ( Săn cọp
Đồng Nai, Ma rừng )
Như vậy khi còn nằm trong địa phận tỉnh Biên Hòa thưở
đầu thế kỷ, chợ Tân Uyên đã là ngôi chợ huyện
lớn nhất, lớn hơn cả chợ Long Thành. Nhà văn còn mô
tả phong cảnh chợ trong một truyện ngắn khác có tên “Câu
dầm “ :
“-Cậu cũng biết chơ ù… chợ Tân Uyên mình địa thế
tốt lắm. Mấy thầy địa lý cắc chú đi du phương, qua đó,
thầy nào cũng khen. Nên cái chùa” Ông“ (
Ông đây tức là ông Bổn Đầu Công, tức Mã
Viện ) sau chợ bị nhà nước bắt dời đi mấy lần, mà “ cắc chú”
họ cứ rủ nhau xin để lại cho được mới nghe. Trước chợ, con sông, bờ
cao ngất.
Nước sông trước chợ lại vận thành xoáy khu ốc, như cố
ý dừng lại trước một địa thế linh thiêng. Bên kia sông,
ngay chợ, khu rừng cấm Bình Hưng trên hòn cù lao
Tân Chánh, ngó giống tấm bình phong, hay cái
tam quan trước chùa chiền. Rừng sầm uất, cây cao, bóng
mát đứng trên mé vực cao, nghiêm nghị rọi mình
xuống sông sâu. Nếu không có chợ, nhà, người
đi ghe thương hồ qua đó không khỏi sởn tóc gáy,
vì cái vẻ linh thiêng, tịch mịch của nó.
Mấy ông hồi trước thuật rằng : “Ngay dưới miếng đất cất chợ có
một cái hang ăn luồn vô riết tới chùa Ông, tới
chỗ cái hồ trên miệng có xây con cá hoá
long, cậu biết chớ ?”
“Cái chợ hồi trước còn lợp tranh, cứ vài năm lại cháy
một lần. Đêm trước khi cháy chợ, dân làng nghe
bên rừng tiếng gầm thét vang trời. Bởi vậy, hàng năm
làng có lập đàn làm chay trứơc chợ, để tế Thần
Cù và luôn tiện bố thí cho cô hồn, các
đảng”.
Thế nhưng Tân Uyên là vùng đất gò,
khá cao nên trừ đất ven sông thì khô cằn,
không thuận lợi cho việc canh tác, thua hẵn Lái Thiêu
về việc trồng trọt, lập vườn. Đã vậy, dân cư thưa thớt, rừng
rú nhiều, rất thuận tiện cho việc ẩn núp, tiến hành
chiến tranh du kích nên thời thực dân, Tân Uyên
luôn là điểm lý tưởng để lập căn cứ kháng chiến,
do đó mà vùng này bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, kinh tế khó bề phát triển. Ngày nay, hệ thống
đường sá đến Tân Uyên đã được xây dựng khá
đáng kể, hy vọng trong tương lai gần hứa hẹn sẽ có nhiều
chuyển biến tích cực. Nhìn lại vấn đề ẩm thực ở địa phương,
Tân Uyên nổi tiếng nhất có món mắm nêm cả
trăm năm nay, món ăn cần kiệm của con nhà nghèo, nhưng
giỏi chế biến với những sản vật trồng trọt nơi đây như dưa đèo,
đu đủ, thơm … Cháo lòng ở chợ, quán của hai vợ chồng
là giáo viên, bán 10.000 một tô, tương đương
giá tô phở ở nhà hàng Vũ Gia, Bình Dương,
vậy mà khách vẫn đông. Bên bờ sông
chợ có quán Gió, nhìn qua cù lao Bạch
Đằng. Thức ăn chưa có gì đặc biệt lắm nhưng ăn vẫn thấy ngon
nhờ phong cảnh sông nước rất thoáng mát, hữu tình.
Trên đường về chợ Tân Ba, đến xã Thạnh Phước, du khách
có thể dừng chân ở quán Mười Ché, thưởng thức
các đặc sản về tôm, cá lăng. Quán nằm sâu
trong vườn, rất mát mẻ, lại gần sông Đồng Nai nên có
nguồn tôm nước ngọt phong phú quanh năm. Tại đây món
lẩu măng cá lăng là được khen ngợi nhiều hơn cả.
(2005)