Bụi chuối sau hè
Hoàng Anh


Từ ngày có con Như Ngọc đến đây làm tiếp viên chạy bàn, quán cà phê Bích Câu của vợ chồng Tư Nhã làm ăn khắm khá thấy rõ.

Con nhỏ ấy có mái tóc dài đen chấm lưng, da nó trắng hồng, môi như môi son, khi nó cười thì khuôn mặt rạng rỡ như một đoá hồng phấn mới vừa chớm nở. Khách đến đây nhiều người nhìn nó đắm đuối như dán luôn đôi mắt vào khuôn mặt ấy thành thử không thấy đường về.

Thiệt ra thì nó tên là Út, ở nhà hay kêu là con Út Mọi, có lẽ hồi nhỏ nó đẹt mà dang nắng nên bị đen chăng? Từ ngày nó đến đây, Tư Nhã mới nghĩ ra một cái tên khác xinh đẹp cho nó. Mới đây mà nó mang cái tên Như Ngọc này cũng được nữa năm rồi.

Hồi đó, hai dì cháu nó từ dưới quê lên đây đi tìm việc làm. Ngang qua nhà Tư Nhã thấy ngoài hàng rào có treo lủng lẳng tấm bảng nhỏ ghi dòng chữ “Cần tiếp viên”, họ rụt rè dắt nhau vào hỏi việc cầu may. Trông bộ dạng, áo quần và cách nói năng của họ Tư Nhã biết ngay là dân nhà quê. Tuy vậy mà vừa nhìn sơ qua tướng tá của con nhỏ, vợ chồng Tư Nhã chấm ngay. Dì nó đã ngoài ba mươi, đen đúa, khô cằn, bộ tướng chắc làm rẫy bái từ nhỏ, họ cho xuống bếp rửa ly chén, phụ nấu ăn.

Riêng con Út, chị Tư lật đật sắm sửa liền ít quần áo để tân trang lại cho nó. Thiệt ngỡ ngàng, nó như con vịt cổ lùn bỗng nhiên biến thành con thiên nga trắng muốt. Được tiếp xúc với đời sống của dân ở chợ, nó mau chóng trút bỏ cái vẻ hoa đồng cỏ nội đi. Bây giờ, với chiếc áo đầm ngắn củn cởn, cổ khoét rộng, lại thêm bộ ngực no tròn, chắc nịch của con bé làm cho nó có vẻ sang trọng và rất hấp dẩn. Nhìn Như Ngọc, ít ai ngờ được gốc gác nhà quê của nó.

Ở đâu có mật thì có ruồi, có hoa thì có bướm. Giờ đây so với các quán đang cạnh tranh quyết liệt trên cùng con đường, quán Bích Câu là đông khách nhất. Vợ chồng  Tư Nhã mừng thầm trong bụng và đem lòng yêu quí con bé lắm. Trước đây cả hai vợ chồng vốn từng là thầy cô giáo, vừa dạy học, vừa làm đủ thứ nghề tay trái để kiếm tiền mà vẫn luôn túng thiếu. Khi thời thế bổng nhiên thay đổi, dịp may bước đến ngay trước sân nhà, họ quyết định bỏ nghề để chuyển qua nghiệp bán buôn.

 Nhà họ nằm trong một xóm vắng, con đường trước nhà chỉ là một lối nhỏ trải đầy cát trong mùa nắng và lầy lội trong mùa mưa. Hai bên đường là những bụi tre già kẽo kẹt, nhà cửa thưa thớt. Đi trên đường, trộn lẩn trong mùi của hoa cỏ dại là mùi phân trâu bò khai nồng nặc cả mũi.


Từ lúc tỉnh này bắt đầu xây dựng các khu công nghiệp, đời sống của mọi người thay đổi hẳn đi. Có những người trước đây cả đời chỉ biết con khô chén mắm, giờ bỗng nhiên nắm bạc tỉ trong tay mà không biết phải làm gì. Họ tha hồ tiêu xài, mua xe sắm cộ, ăn chơi phung phí. Tỉ phú triệu phú nhiều quá thì hàng quán cũng tha hồ mọc lên đủ kiểu để mà phục vụ cho họ. Con đường hẻm hồi trước, khi chiều xuống không ai dám đi một mình vì sợ ma thì giờ đây đã được tráng bê tông và biến thành khu vực giải trí hàng quán san sát. Người ta đua nhau phá tre, bứng chuối để lập quán. Hoá ra ở nơi vắng vẻ cũng có cái lợi thế của nó, bởi những nơi kín đáo này người ta có thể đến vui chơi mà ít sợ bị dòm ngó.

Tình bà con chòm xóm tối lửa tắt đèn trước đây cũng phai nhạt dần. Quán nhiều quá, cụôc cạnh tranh dần dà trở nên gay gắt làm cho việc buôn bán không khác chuyện chiến trường. Anh em bà con cải vả chưởi bới nhau là chuyện hàng bữa. Trong cuộc chiến tranh kinh doanh này, tiếp viên là vũ khí chính. Đèn màu chớp tắt sặc sỡ, loa nhạc ầm ĩ điếc lỗ tai thì chỗ nào cũng có, vã lại khách cũng đâu cần mấy thứ đó. Cái họ cần là có những cô gái chạy bàn xinh đẹp biết nói năng đi qua đi lại để họ nhìn cho mãn nhản. Thế nên quán nào có gái đẹp thì bán đắt, còn không thì chủ quán với người làm cứ ngồi mà đánh bài tiến lên cho tới sáng.

Nói cho đúng, từng là một thầy giáo thì Tư Nhã cũng không ưng cái nghề này cho lắm nhưng tình thế bây giờ chẳng đặng đừng, không làm thì không biết lấy chi mà sống, mà lo cho mấy đứa nhỏ nó ăn học. Chớ còn phải khúm núm phục vụ đám choai choai, lắm lúc anh cũng tức nhưng chỉ biết thở dài, tự nhũ rằng hình như ngày nào mà con người còn cần đến đồng tiền thì còn phải chịu đựng nhiều nỗi khổ nhục. Làm nghề gì thì cũng vậy thôi, chớ hồi anh đi dạy, không phải là đã chịu đựng nhiều chuyện nát lòng lắm đó sao. Hồi đó, nhớ nhiều nhất là việc cứ phải đêm đêm cắm đầu lo làm cả chồng sổ sách muốn ngập đầu để đối phó  với kiểm tra, dự giờ. Làm vậy nhưng cứ bị phê bình lên phê bình xuống mà nào có đủ ăn. Bây giờ thôi cứ giả dạy giả ngơ, thời thế đã vậy, đành nhắm mắt xuôi dòng chớ còn biết tính sao.

Mà cũng chẳng phải mình anh đổi thay đâu, cả xã hội đã không còn như cũ. Những khu vườn xanh mát nổi tiếng ở quê anh đã mọc lên dãy dãy hàng quán. Xung quanh ngôi chùa cổ người ta ban mồ mả cất lên chi chít những quán thịt chó, thịt mèo. Xe máy cày, máy ủi đang cày xốc tung toé bụi đất trên những cánh đồng hôm qua phủ xanh màu của lúa, của khoai.   

Sự thay đổi trong nếp sống của người dân tuy lặng lẽ nhưng khốc liệt cũng không kém. Ông Hai thợ rèn xóm trên bị phát hiện nằm chết trong một khách sạn vì dùng thuốc kích dục quá liều. Tệ nhất là chuyện ông Tư xe ngựa già có cả chục người con, tuổi đã gần xuống lỗ
lại bị bà vợ bắt quả tang đang ăn nằm với đứa con dâu út ngay trong nhà. Ở Phú Mỹ, nghe đồn có người sau khi xài phung phí hết cả bạc tỉ tiền đất đai đã nhảy xuống giếng tự tử chết. Lúc đầu những chuyện như thế làm mọi người kinh hãi và bàn tán rất xôn xao, riết rồi sau nghe hoài cũng nhàm, không ai để ý nữa.

Trong nhà, tuy có lợi dụng mấy đứa tiếp viên để kiếm được nhiều tiền, vợ chồng Tư Nhã cũng có phần thương và đối xử tử tế với chúng nó, nhứt là con Như Ngọc. Anh hỏi :
-Sau không lo học hành mà đi làm sớm vậy?
- Nhà cháu nghèo quá, học gì được.
- Ở dưới đó cháu làm gì?

- Phụ má tước dây chuối đem bán.
- Có khá không?
- Dây chuối bán rẻ rề, khá sao nỗi. Hồi đầu còn đở đở, bây giờ người ta cột bằng dây nylon không, bán ế lắm chú ơi.
-  Nhà cháu không làm vườn trồng trọt gì sao?
-  Trồng cây cứ phải chặt bỏ trồng lại hoài, lỗ lắm chú ơi.

Hỏi thăm hoàn cảnh gia đình nó nói rằng nhà nó nghèo khổ quá, hồi nhỏ chỉ đi học biết đọc biết viết rồi thôi, chị nó bị điên phải xiềng chưn cẳng lại, ba nó đã già mà bệnh hoạn chẳng làm được gì. Một mình má nó buôn bán lặt vặt mà lo cả gia đình sao nỗi. Bây giờ nợ giăng tứ tung, mấy đứa anh nó bỏ nhà trốn đi làm ăn xa xứ hết.

Thấy nó hiền hậu, thiệt thà, mà coi bộ nhí nhảnh lanh lợi với khách vậy chứ những lúc vắng khách ngồi một mình nó có vẻ buồn lắm. Chị Tư là phụ nữ nên dễ gần gũi chuyện trò với nó. Nó biết thân biết phận mình nên rất dành dụm, và cứ van vái Trời Phật cầu xin cho có đủ tiền về trả nợ cho cha mẹ thì nó mới được vui. Cô hỏi nó chứ mày có tính chuyện tương lai cho mày không, chẳng lẽ bán hoài mà hỏng có đồng xu bỏ túi sao. Nó có vẻ thản nhiên, nói tương lai làm gì, nó ra sao thì ra, nó chỉ mơ ước làm sao có tiền trả nợ thôi, nó nói nó thương và nhớ má nó lắm, ban đêm nằm một mình nó hay khóc. Thấy đám con trai cứ bu theo tò vè tán tỉnh con bé, chị Tư căn dặn hết lời bảo con phải cẩn thận đó nghe. Cô hay chọc nó:

-  Muốn sang thì lấy thợ điện, muốn chưng diện thì lấy thợ giày, muốn ăn mày thì lấy thầy giáo nha con!

Đó là cô muốn chọc ghẹo để cáp nó với thằng Thảo làm thợ sữa giày dép cũng ở gần đây. Thằng này dòm ngó con Như Ngọc từ ngày con nhỏ mới lên. Lúc đầu hai đứa còn chuyện trò qua lại với nhau, coi bộ cũng vui vẻ thân mật. Thằng Thảo đã tự tay làm một đôi giày khá đẹp để tặng cho con bé. Về sau, thấy đám thanh niên xe cộ bóng nhoáng bu theo con Như Ngọc nhiều quá, thằng Thảo có vẻ buồn nên ít nói hơn. Từ miền Trung bỏ xứ vào đây một thân một mình lập nghiệp, năm nay nó cũng gần ba mươi tuổi rồi mà chưa có vợ con chi. Tính nó cũng thiệt tình mà lại siêng năng chịu cực chịu khó nên vợ chồng Tư Nhã cũng ưa lắm. Thỉnh thoảng nó thường qua ngồi uống cà phê và nói chuyện bâng quơ với anh cho đở nỗi buồn nhớ quê, vừa có cớ để mà lâu lâu liếc nhìn con nhỏ. Trong bụng, coi bộ nó còn thương con đó lắm.

Bữa nay, lúc gần giờ cơm trưa thằng Thảo đang ngồi chơi với Tư Nhã thì bỗng nhiên có người chạy lại báo tin động trời rằng con Như Ngọc đã chết, đang còn nằm trong nhà thương. Hồi sáng này nó với con Hồng,  hai đứa xin phép đi chơi với hai thanh niên thường lui tới quán. Hai tên đó đứa nào cũng có một chiếc xe phân khối lớn mới tinh, loại đắt tiền.Tụi nó chạy rất nhanh, đến gần chợ Bưng Cầu lách mấy đứa học trò đang băng qua đường nên đâm vào một chiếc xe chạy ngược chiều. Hai thằng thanh niên với con Hồng chết liền tại chỗ, con Như Ngọc may mắn vẫn còn thở. Người ta gọi xe cấp cứu nhưng xe cấp cứu ở bệnh viện có ít, mà lại phải thường xuyên chuyển viện nên may mắn lắm mới có được xe khi xảy ra tai nạn. Hai người tốt bụng đở nó ngồi lên chiếc Honda, một người lái, một ngồi sau ôm chặt nạn nhân rồi cứ thế chạy như bay xuống bệnh viện. Đến nơi, con Như Ngọc đã tắt thở, trên đường dằn xóc, chiếc xương sườn gãy đâm vào lũng phổi nên nó mới ra nông nổi.

Tư Nhã với thằng Thảo vội vả nhảy lên xe vọt ngay vào bệnh viện. Cô Tư với dì con Út soạn ít đồ cần thiết rồi cũng vội đóng cửa quán chạy theo sau. Biết hoàn cảnh nhà nó đơn độc, hai vợ chồng phải lo sắp xếp mọi thứ. Khi xe chở xác nó chạy ra tới cửa bệnh viện, chị Tư Nhã quay trở về coi quán để ba người kia theo xe.

Dì nó ngồi ở cabin để chỉ đường cho tài xế. Phía sau chỉ có hai người với cái quan tài. Họ bàn bạc với nhau ít chuyện, thấy thằng Thảo có vẻ buồn quá Tư Nhã thôi không nói nữa ngồi lặng im. Gặp đúng giờ tan sở làm, trên đường hàng hàng những chiếc xe hơi bóng lượn nối đuôi nhau nên chiếc xe chở xác không thể chạy nhanh.

Rời xa thị xả được một khoảng, về tới vùng nông thôn thì trời bắt đầu đổ mưa. Mây xám mờ mịt, những hạt mưa thỉnh thoảng lại tạt vào xe đem theo cái lạnh và nỗi sầu tê tái. Tư Nhã nhìn thấy thằng Thảo cứ cúi đầu mà nhìn cái quan tài đong đưa mỗi khi xe lắc mạnh, một tay nó vịn thành xe, một tay chiụ cái hòm để nó được nằm yên. Mắt nó đỏ ngầu, hình như nó đang ôn lại những kỷ niệm từ ngày quen biết con Út.

Cảnh vật hai bên đường lùi dần trong màn mưa nhẹ khi chiếc xe cứ lầm lũi lướt qua. Xe chạy khá xa rồi mà nhà con bé vẫn còn biệt dạng. Nghe dì nó nói họ ở tận xã Thanh Bình, một vùng xa xôi khỉ ho cò gáy. Hồi xưa, vào thời kỳ khẩn hoang, đó là nơi bọn ăn trộm thường ẩn náo. Lúc chiến tranh, đó là vùng căn cứ địa kháng chiến lính tráng ít khi dám bén mảng tới vì rừng chồi nhiều, rất dễ bị phục kích hay bắn tỉa. Trời cứ mưa, lâu lâu lại có lằn sét đánh một vệt sáng ngoằn ngoèo trên bầu trời làm mọi người giật mình. Chiếc xe đi qua bao nhiêu cánh đồng quạnh vắng, những ngôi nhà ngói cũ nằm chìm giữa những tàng cây vú sữa cây me tối om. Lác đác những ngôi mả đá ong  nằm giữa đám cỏ lau, gai mắc cở ven đường làm cho cảnh vật có vẻ rất tiêu sơ. Tư Nhã nghe lòng mình cũng rã rời, ngao ngán. Lâu lâu anh lại đưa mắt liếc nhìn thằng Thảo với cái quan tài làm bằng một loại ván cây rẻ tiền. Anh tự than với lòng mình là kiếp người rồi chỉ có vậy thôi đó sao!

Từ lúc chiếc xe chui vào rừng cao su thì không còn thấy gì khác ngoài những thửa rừng cao su nối tiếp nhau. Đường mỗi lúc một xấu, chiếc xe chạy xầm xập, dằn xóc dữ dội có lúc ngỡ như muốn làm tung cả nắp hòm. Tư Nhã lúc này phải phụ thằng Năm đưa một tay kiềm giữ cái hòm  lại.

Về đến nhà con Út thì trời đã xế chiều, ở đây không có mưa nên đất còn ráo khô nhưng bầu trời vẫn u ám. Nhà con bé nằm bên cạnh một cánh rừng. Đó là cái chái tranh lụp xụp, xiêu vẹo. Một vài người đứng lơ ngơ ở trước nhà chờ đón. Chiếc xe vừa quanh vào sân đã nghe có tiếng than khóc. Quang cảnh não lòng quá nên Tư Nhã cũng không chú ý chi nhiều. Họ phụ nhau khiêng quan taì vào kê trên bộ ván nhỏ đặt giữa nhà. Ngôi nhà trống trơn chẳng có đồ đạc gì đáng kể. Đúng như những gì con Út đã tâm sự, một người đàn ông ngồi ho sù sụ trên chiếc võng cứ than trời luôn miệng, chắc là ba của nó. Người ta tắm rửa và thay đồ mới cho con Út. Thằng Năm tìm nắm gạo ráng cạy miệng con bé bỏ vô. Nó nhanh tay đốt ngọn đèn, cắm mấy cây nhang và làm một dĩa tam sên đặt trên chiếc ghế một đặt trước đầu người chết như cái bàn thờ. Lục hết trong nhà nó ra chỉ được đôi ba bộ đồ cũ
.

Ra ngoài hè thấy mấy bụi chuối, Tư Nhã nhanh trí cắt hết các tàu lá chuối khô đem vô nén chặt khắp thân con Bé để làm đồ tẩn liệm cho nó. Tư Nhã vừa làm vừa vái lầm bầm mấy câu:” Sinh như thị, tử như thị. Như thị sinh, như thị tử”...

Xong mấy việc cần thiết đó hai người ra ngồi ngoài sân. Lúc này có thêm vài người bà con lối xóm kéo đến phụ hợ. Bóng tối đã trùm xuống từ bao giờ. Anh Tư chìa gói thuốc ra mời thằng Năm một điếu rồi rút cho mình một điếu, hai người chăm thuốc hút. Tứ bề chỉ toàn cây cối, xa xa mới thấy thấp thoáng bóng ngọn đèn dầu nhà ai. Cách nhà mấy bước chân là một cái chòi nhỏ, xây tạm bợ kiểu chuồng bò, qua ánh lửa đóng un xua muổi chập chờn, còn thấy được bóng một người đàn bà tóc xoả, đôi mắt hoang dại nhìn chăm chăm hai người đàn ông.

 Thằng Thảo thở dài hoài, miệng cứ chặc chặc lưỡi nói:
-  Ai ngờ, ai ngờ!
-  Tao cũng đâu dè.

Tư Nhã hiểu nó muốn nói gì, cái con Như Ngọc xinh đẹp như nàng tiên, lộng lẫy và hấp dẫn làm say đắm bao nhiêu thanh niên, đêm đêm qua lại phất phơ trong ánh đèn màu, trong tiếng nhạc inh tai đã nằm yên ấm áp trong những chiếc lá chuối khô, trong một nơi xa xăm, tĩnh lặng và hoang vắng như nơi đây.

Tư Nhã nói:
-  Ở đây gần rừng nên chim chóc kêu nhiều quá há Năm?

HẾT