BA CÂY ĐẠI THỤ TRỜI NAM
Hoàng Anh
Trong hai bộ sách phê bình văn chương uy tín ở
nước ta thế kỷ 20 (“Nhà văn Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan và “Thi
nhân tiền chiến” của Hoài Thanh và Hoài Chân)
các thi văn gia miền Nam chiếm một vị trí khá mờ nhạt.
Điều ấy ít nhiều phản ánh một cái nhìn chung
của người các vùng miền khác khi nhận định về văn học
phương Nam. Cái nhìn rẻ rúng, xem thường ấy đã
gây ra nhiều phản ứng, bất đồng, và quan trọng hơn, bất công
đối với nền văn học này .
“Hồi còn nhỏ, nghe ai nói đến văn chương, báo chí
Nam kì là tôi mĩm cười”
(Nguyễn Văn Xuân, Khi những lưu dân trở lại, tr.5, Thời Mới,
1969)
“Lối nhìn kỳ thị, tự tôn như vậy có xúc phạm không?
Xúc phạm quá lắm chứ. Làm sao không xúc
phạm khi anh nói với một người: Này, anh giàu có
đấy nhưng vô học ( nói một cách văn hoa thì: miền
Nam có kinh tế phong phú nhưng không có truyền
thống văn hóa)
(Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học, chương 8)
May mắn là cái nhìn kỳ thị và phiến diện ấy theo
thời gian đã có nhiều thay đổi. Thực tiễn sinh họat văn nghệ
của Nam Bộ trong thế kỉ vừa qua cho thấy một bức tranh hòan tòan
khác. Những tờ báo và tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ
đầu tiên đã ra đời ở miền đất phía Nam và sau
đó nhanh chóng lan rộng ra cả nước, góp phần khai mở
một kỉ nguyên mới trong nền văn học nước nhà. Sau thời kì
của các vị “khai quốc công thần” như Trương Vĩnh Kí,
Hùynh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu, Trương
Minh Ký…mảnh đất miền Nam mầu mỡ phù sa như được mùa
cây lành trái ngọt, tiếp tục sản sinh rất nhiều tác
gia chuyên viết về cảnh vật và con người trên quê
hương của họ như Hồ Biểu Chánh, Hồ Hữu Tường, Phú Đức, Đông
Hồ, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên,
Viễn Châu, Kiên Giang, Ngọc Linh, Trang Thế Hy, Đoàn Gỉoi,
Nguyễn Quang Sáng… Danh sách này còn dài,
khó kể ra hết. Nổi bậc lên trong số này là Hồ
Biểu Chánh, bậc tiền bối, và hai người kia: Bình Nguyên
Lộc với Sơn Nam. Họ xứng đáng được xem như ba cây đại thụ, khi
chụm lại, thành một ngọn núi cao ít có nơi nào
bì kịp trong ngôi làng văn học nước ta ở thế kỉ hai mươi
Tuy tuổi tác chênh lệch, ba nhà văn này có
nhiều điểm giống nhau thật thú vị: cả ba đều có sự nghiệp sáng
tác rất đồ sộ và đa dạng. Có thể nói rằng khả
năng sáng tác sung mãn và sự phong phú
trong thể lọai là đặc điểm đầu tiên đáng ghi nhận về
các nhà văn nổi tiếng của miền Nam. Ba nhà vừa kể đã
viết rất nhiều truyện dài, truyện ngắn ăn khách một thời; vừa
là nhà khảo cứu với hàng chục tác phẩm biên
soạn công phu. Đặc biệt hơn nữa là họ đều thích
làm thơ. Hồ Biểu Chánh có năm quyển truyện thơ ( U tình
lục, Biểu Chánh thi văn, …). Bình Nguyên Lộc cũng không
hề thua kém với nhiều thi phẩm ( Việt sử trường ca, thơ Ba Mén,
Thơ thổ ngơi Đồng Nai...) Sáng tác đầu tay của Sơn Nam cũng
là một tập thơ, tựa đề Lúa Reo, do Hội Văn Hoá Kháng
Chiến Kiên Giang xuất bản năm 1948. Chúng ta ít biết
về thơ của Sơn Nam, nhưng bài thơ thay lời tựa tập Hương Rừng Cà
Mau của ông được nhiều người hết lòng ca ngợi. Tạ Tỵ, trong
“Mười khuôn mặt văn nghệ”, viết: “ Đã nhiều lần, đêm trắng
không kêu vào giấc ngủ, tự nhiên mấy câu thơ
thay lời tựa của Sơn Nam trong tác phẩm Hương rừng Cà Mau lại
vang vang trong hồn tôi như hơi kèn đồng lên qua khe cửa
vũ trường bay vút lên trời cao tím ngắt”
Tuy có khả năng sáng tác sung mãn và phồn
thịnh như thế, mỗi nhà văn, đương nhiên thường chỉ toả sáng
ở một lãnh vực nào đó mà thôi. Với Hồ Biểu
Chánh (1884-1958), ngòai dịch thuật, tùy bút,
hồi kí, phê bình, tuồng hát, biên khảo (
trên 20 quyển ở thể lọai này), sở trường của ông vẫn là
thể loại tiểu thuyết. Danh mục tác phẩm của ông làm chúng
ta khâm phục: khỏang 70 quyển! Đương thời, chỉ có Lê Văn
Trương ngòai Bắc là sánh được với ông về danh
hiệu nhà văn có khả năng sáng tác nhanh, nhiều
và ăn khách trên thị trường. Đọc ông, người ta
có ấn tượng khá sâu sắc bởi lối hành văn đặc sệt
chất Nam, nhiều chỗ chưa thoát ra được lối văn biền ngẫu thời xưa.
Cốt lõi trong hàng trăm câu truyện của ông là
sự đề cao đạo nghĩa và phẩm gía của con người. Dù có
nghèo hèn khốn khó mấy đi nữa vẫn phải cố gắng mà
gìn giữ những bài học gia huấn của tổ tiên. Truyện bao
giờ cũng kết thúc có hậu theo quan niệm văn dĩ tải đạo của
thời xưa, “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” . Là
một nhà văn tiên phong, tiểu thuyết của ông trong cái
nhìn thời nay có kết cấu và tình tiết khá
đơn sơ, còn nhiều khuyết điểm, tuy nhiên điều đáng ghi
nhận là chúng vẫn được tái bản liên tục trên
nửa thế kỷ qua, cho thấy giá trị vượt thời gian của chúng.
Ngoài ra, ông còn là nhà văn phóng
tác rất thành công nhiều danh tác trên thế
giới, với khả năng Việt hoá nhuần nhuyễn mà không phải
ai cũng có thể làm được. Đọc các tựa đề Ngọn cỏ gió
đùa, Cay đắng mùi đời… ít ai liên tưởng đến những
cái tên Tây nguyên thủy của chúng.
Được xem như nhà văn đại diện cho thế hệ nối gót Hồ Biểu Chánh,
Bình Nguyên Lộc ( 1914-1988) viết nhiều truyện dài, trong
số đó có quyển Đò Dọc được nhiều người biết nhờ từng
lãnh giải thưởng về văn chương và một nhạc sĩ đã phổ
nhạc khá thành công. Oâng cống hiến trên
30 tiểu thuyết, cả ngàn truyện ngắn, gần chục tác phẩm biên
khảo, nghiên cứu, trong đó công phu đáng nể nhất
là quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Vịêt Nam.Tuy
nhiên nói chung, ông và Sơn Nam chỉ thành
công rực rỡ ở thể loại truyện ngắn. Oâng có một số truyện
ngắn được nhiều người ca tụng, từng lãnh giải thưởng văn chương trong
và ngòai nước như Rừng mắm, Ba con cáo, Nhốt gió,
Đồng đội…
Sự nghiệp sáng tác của Bình Nguyện Lộc qua văn học và
khảo cứu nhìn ở góc độ tổng quan, đó là những
nỗ lực truy nguyên toàn bộ bức tranh đời sống xã hội
miền Nam từ lúc người Việt tiến hành cuộc Nam tiến đến giai
đoạn hiện đại. Trên đó có những gam màu thời gian
từ thuở khai hoang, đến thực dân Pháp, rồi những năm chiến tranh
khói lửa khi người Mỹ qua đây. Ở từng thời điểm lịch sử, nông
dân, người nghèo chốn bùn lầy nước đọng thành
thị luôn là đối tượng hướng tới của ngòi bút nhà
văn. Tình yêu quê hương luôn bàng bạc ẩn
chứa trong truyện Bình Nguyên Lộc. Với BNL dù yêu
nước ở trình độ nào cũng thật đáng quí; quí
nhất ở chỗ giềng mối văn hóa dân tộc và ý thức
độc lập tự do vẫn được bảo lưu, giữ gìn. Điều đáng nói
là chất lượng các sáng tác phẩm tuy có
thể khác nhau, điều đó còn tùy vào trình
độ thẩm định văn chương, quan điểm, thị hiếu…của từng người, truyện của ông
nhìn chung đều có một điều gì đó đáng
để người ta phải xem. Ông đã trãi tình yêu
quê hương, đất nước thiết tha của mình vào từng con chữ,
trang viết. Điều đó đã làm những người đọc văn ông,
từ giới bình dân cho đến những bậc chuyên môn
đều nghe lòng rung động, khắc khoải.
Bình Nguyên Lộc chuyên viết về miền Đông, còn
miền Tây là sở trường của Sơn Nam, có thể nói
cho đến nay chưa ai viết hơn họ về hai mảng đề tài này.
Với Hương Rừng Cà Mau, Sơn Nam đã chính thức khắc ghi
tên tuổi của mình vào nền văn học nước nhà. Tổng
cộng, Sơn Nam đã hòan thành được bốn tập hồi kí,
hơn 30 chục đầu sách văn học và khảo cứu, số lượng truyện ngắn,
tuy chưa vượt qua kỷ lục xác lập bởi Bình Nguyên Lộc,
nhưng cũng được khỏang 300 (hiện nay Nhà Xuất Bản chỉ tập hợp và
in mới khoảng 100), đủ chứng tỏ ông là cây bút
có năng lực sáng tác dồi dào làm mọi người
phải ngạc nhiên.
Một số truyện ngắn của ông đã được biên tập để dựng thành
phim và rất thành công như Cây Huê Xà,
Mùa len trâu, Một cuộc bể dâu…Có truyện cũng đã
được đưa vào chương trình giáo khoa phổ thông
như Bắt sấu rừng U Minh Hạ. Riêng “Tình nghĩa giáo khoa
thư”, trước 1975 đã góp mặt trong tuyển tập “Những truyện ngắn
hay nhất quê hương chúng ta”.
Sơn Nam sinh ra và lớn lên ở miền cực Nam của Tổ quốc. Đời ông
nội, rồi đời cha của ông lo khẩn hoang mở đất. Điều đó ảnh hưởng
nhiều đến lối víêt của Sơn Nam, cắt nghĩa vì sao ông
chuyên viết về khẩn hoang mở đất và đề tài này
trở thành sở trường của ông.
Hình ảnh và số phận của những ông già, bà
cả của thời xưa đã lắng sâu trong kí ức của nhà
văn, để lại trong ông bao kỉ niệm ngọt ngào và buồn tủi.
Viết về họ, ông đã tái hiện và lưu giữ trong bảo
tàng kí ức của dân tộc bức chân dung của một thời
kì đã vĩnh viễn mất đi. Những thế hệ đời sau, nhờ ông,
mà có thể ngược bước thời gian, sống lại trong lòng
những tình cảm với bao lớp người thời cũ, với lòng biết ơn
sâu sắc, với niềm xót thương và bao mối cảm hoài
.
Có thể nói, phần lớn sáng tác của các
nhà văn miền Nam đều gắn liền với đời sống nông thôn Nam
Bộ. Nhưng, đọc tác phẩm của họ mà chúng ta có
thể cảm nhận được bối cảnh nông thôn trên vùng đất
bao la một cách khái quát sâu rộng đủ mọi sắc
thái, diện mạo, thì có lẽ không ai khắc hoạ được
rõ nét cho bằng ba nhà vừa kể. Đọc họ, người ta như
sống trong một bầu không khí dân dã, quê mùa
nhưng bao giờ cũng thiết tha tình cảm, thứ tình rất đậm đà
sâu lắng giữa người với người, giữa người với thiên nhiên,
một thiên nhiên hoang sơ, xa vắng.
Họ có những phong cách và kỹ thuật sáng tác
riêng, nhưng hợp lại, thì như các khí cụ trong
một giàn nhạc giao hưởng, không chỏi nhau, mà ngược lại
hoà điệu để tạo nên bản trường ca oai hùng và
bi tráng của cuộc trường chinh Nam Tiến thưở xưa.
Có người nhận xét nhiều tác phẩm của họ vẫn viết theo
lối cũ, cốt truyện của họ cơ bản là cũ, vẫn có nhiều lúc
thiếu “công phu tu sức thẩm mỹ”. Ngoài ra, các nhà
văn Nam bộ có những điểm chung trong sáng tác, đó
là lối văn gần như văn nói, văn kể chuyện hơn là văn
viết. Lối hành văn, cũng ngư ngôn từ thường giản dị, ít
trau chuốt, thiếu sự bóng bẩy, bay bướm như nhà văn các
vùng khác. Họ lại cũng hay dùng những từ ngữ điạ phương,
nhiều khi xa lạ và khó hiểu đối với độc giả ở miền ngoài.
Vậy mà, tác phẩm của họ vẫn được đón nhận rất nồng nhiệt
và có sức sống với thời gian lâu đến không ngờ.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung đặt câu hỏi về vấn đề này như
sau: “ Viết văn nôm na, quê mùa, xuôi tuột là
vì trình độ khả năng hay do một lựa chọn có ý
thức? Nói cách khác, vấn đề là “không thể”
hay chỉ là “không muốn” mặc dầu “có thể”.”
( Lục Châu Học, chương 8)
Đọc tác phẩm của những học giả lỗi lạc uyên bác như Hồ
Hữu Tường, Vương Hồng Sển, của người dày công nghiên cứu
về ngôn ngữ như Bình Nguyên Lộc, chúng ta vẫn bắt
gặp một phong cách diễn đạt ấy.
Phải nói rằng đó là một đặc điểm của họ. Giản dị nhưng
không vụng về. Hoặc có thể nói khác đi, đó
là sự giản dị, vụng về không xuất phát từ sự kém
khả năng mà từ sự dụng công rất khó nhọc để có
thể tạo ra tính chất gỉan dị mà vẫn hấp dẫn và gây
ra nhiều xúc cảm thẩm mĩ cho ngừoi đọc.
“Nghệ thuật phải hồn nhiên,_đồng thời cũng phải trau chuốt về kỹ
thuật. Hồn nhiên và trau chuốt là hai điểm không
mâu thuẫn nhau; trái lại, dung hoà nhau để tạo nên
cái Đẹp”
(Sơn Nam-trả lời phỏng vấn Bách Khoa LXXI, tr.71)
Yêu cầu phản ánh hiện thực ngôn ngữ, gìn giữ được
bản sắc đời thường mà vẫn tạo nên giá trị thẩm mĩ nghệ
thuật cho tác phẩm là một nhiệm vụ bắt buộc và rất khó
khăn mà mỗi nhà văn phải giải quyết. Vụng về một chút,
văn chương có nguy cơ trở thành dung tục tầm thường; hơi quá
đà, lại dễ bị biến chất và tân thời quá.
- “Ai ơi lẳng lặng mà nghe”…
Câu ấy không phải là tiếng của cụ Đồ Chiểu kêu gọi
những độc giả của ông nhưng chính là tiếng của người
nói thơ Vân Tiên nói với cử toạ nằm võng
lim dim ở chung quanh. Điểm ấy rất quan trọng. Những người khắt khe cho rằng
thơ Lục Vân Tiên, truyện Tàu (do các người Việt
miền Nam dịch lại) ngô nghê, thô kệch. Biết đâu những
đoạn, những chữ ngô nghê ấy là những công thức cần
thiết…để người nghe có thể lãnh hội. )
(Sơn Nam trả lời phỏng vấn, Bách Khoa số LXXI, tr.72)
Đưa vào tác phẩm ngôn từ, cách nói năng
một mạc của ngừơi dân thôn quê miền Nam một cách
khá trung thực, chân xác, lại nâng chúng
lên thành tầm cao của nghệ thuật văn chương, những yếu tố này
đã góp phần rất lớn để tạo nên sự thành công
trong sáng tác của Bình Nguyên LoẢc, Sơn Nam…Thử
so sánh với một nhà văn có tên tuổi hiện nay, Nguyễn
Ngọc Tư, ta thấy cái vốn liếng quí giá đó đã
nhạt phai, nhiều khi mất hẳn đi. Thời thế đã đổi thay, ngôn
từ ắt nhiên không thể còn mãi y như cũ, thế nhưng
đọc truyện về miền Nam mà không thưởng thức được cái
kho ngôn từ độc đáo và rất dễ yêu của họ, thì
xem như đã mất đi hết nửa phần thú vị. Như thưởng thức một món
ăn ngon, mà thiếu hẳn đi phần gia vị, thức chắm đi kèm với
nó vậy. Có thế, ta mới càng cảm nhận ra hết công
lao và sự đóng góp tuyệt vời của những nhà văn
như Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…trong việc
lưu giữ phần di sản văn hoá phi vật thể quí giá của
một vùng miền cho hậu thế, cái vốn tài sản đang thất
thoát dần đi trong từng ngày và có thể sẽ không
còn chi nữa, trong tương lai.
( Bình Dương, 06-05-08)