TẾT THIỆT LÀ CHÁN!
HOÀNG ANH
Mỗi dịp cuối năm, chợ búa luôn đông nghet người chen nhau
đi mua sắm, nào thịt, nào bánh, nào hoa…Trên
đường, xe cộ dập dìu, nào là những chiếc xe tải chở
hàng hóa, nào là xe đò chở những kẻ đi
làm ăn xa nay háo hức về quê. Kẻ hờ hửng nhất cũng nghe
lòng nôn nao trong cái không khí chung đang
tưng bừng rạo rực chờ đón Tết.
Trong một năm, người Việt Nam có rất nhiều lễ hội, nhưng vui nhất
phải nói là Tết. Tết chiếm giữ địa vị độc tôn, “Vui như
Tết” từng là một thành ngữ, nhất là đối với trẻ con
thì đúng là không gì vui bằng Tết.
Thế nhưng nhiều năm qua, mỗi khi xuân về, khi được hỏi các em
ăn Tết có vui không, hầu hết các bạn trẻ hay học sinh
trong những lớp tôi dạy đều nói: “Tết chán quá
Thầy ơi”. Càng ngày, số em phát biểu như thế càng
gia tăng, nam có, nữ có. Mà học sinh của tôi vừa
qua xong chương trình cấp ba, ở vào lứa tuổi thanh niên,
nhiều sức sống, lại đến từ khắp nơi trong nước. Chán Tết, có
thể chỉ là một cách nói, diễn tả những tâm trạng
khác nhau, nhưng như thế hiện tượng đó không phải chỉ
xảy ra ở một địa phương cá biệt nào.
Điều gì đang xảy ra đã khiến có sự thay đổi đáng
ngạc nhiên ấy?
Người ta vẫn chuẩn bị đón Tết chu đáo, nhưng nhìn kỹ
lại, dường như trong lòng họ không còn những cảm giác
như xưa. Xã hội đang có quá nhiều thay đổi, lòng
người đổi thay cũng là điều tất nhiên.
Vào những ngày lễ Tình yêu, lễ Valentine, ngoài
đường phố thật vui với cảnh bán hoa ở các nẻo đường. Trong
năm, tiệc sinh nhật diễn ra liên tục, tha hồ chưng diện, quậy phá.
Nhớ đến dịp đám giỗ, bọn trẻ rùng mình, làm mệt
phờ hơi, nói lớn tiếng một chút là bị ông bà
cha mẹ rầy la. Nhắc đến Tết còn “oải” hơn, nào là dọn
dẹp, lau chùi, khiêng vác, nào là dãy
mã, chùi lư. Bao nhiêu là việc, mà chẳng
biết để làm gì! Ngày Tết, hết bưng đồ lên cúng
lại lo bưng xuống. Đêm ba mươi, xóm làng, nhà
cửa bổng dưng im lặng một cách khó chịu. Mẹ tôi, nay
đã ngoài 80, vốn giữ gìn nề nếp ông bà,
cúng vái bao giờ cũng kính cẩn, chu đáo, vậy
mà những năm gần đây, bà cũng tỏ vẻ chán chường
bỏ đi ngủ sớm. Vào dịp giao thừa, có năm chỉ mình tôi
ráng thức đốt nén nhang, theo tục lệ, rồi cũng vào ngủ.
Nhớ cảnh ngồi canh bếp lửa nấu nồi bánh tét, bánh ít
hồi xưa, lòng khôn ngăn được nỗi ngậm ngùi.
Ngày tết, ngoài ăn nhậu, thăm viếng đôi người thân,
người ta chẳng biết làm gì hơn. Nhạc xuân thì
bao nhiêu năm rồi vẫn những bài hát đó hát
đi hát lại, những bài đã được sáng tác
từ mấy chục năm trước. Tám mươi năm trước đã từng có
người lên tiếng bàn việc có nên ăn tết ta nữa hay
không. Trên báo Tết Thần Chung năm 1929, Phan Khôi
đã viết bài phản biện với tựa đề “E khi cái Tết
năm nay là cái Tết chót”. Cách đây vài
năm, giáo sư Võ Tòng Xuân cũng lại lên tiếng
trên báo chí đề nghị ta nên đổi qua ăn Tết Tây
cho giống với thế giới, thời của toàn cầu hóa mà. Đọc
thế, tôi càng nghe hoang mang. Cái Tết mất đi, hay như
hiện tại, đang tàn đi, thì cái vốn liếng văn hóa
truyền thống của chúng ta liệu sẽ còn gì, và,
xã hội ta rồi sẽ ra sao?
Chưa có thời nào mà hai từ văn hóa xuất hiện
nhiều như hiện nay, trên báo chí, sách vở, diễn
văn, trên đầu những con hẻm, khu phố…Văn hóa truyền thống, bản
sắc văn hóa thành chủ đề nhiều hội nghị. Mở miệng ra, là
người ta nói đến văn hóa, văn hóa trà đá,
văn hóa giao thông, văn hóa phát biểu, văn hóa
ứng xử, văn hóa đá banh…
Có người nhận xét rằng khi chúng ta hô hào
nhiều về điều gì, thì thực ra chúng ta đang thiếu điều
đó, hoặc, đang làm ngược lại điều đó. Chúng ta
nói về văn hóa làng, tự hào về cơ cấu làng
xã của Việt Nam, thì nay chúng ta có nào
là làng nướng, làng ẩm thực. Khi nói về văn hóa
giao thông, là lúc đường phố tại các khu đô
thị đang kẹt xe đến nghẹt thở, và tai nạn giao thông thảm khốc
diễn ra hàng ngày. Chúng ta nói về văn hóa
ứng xử, khi nạn đạo văn, bằng dỏm, chưởi thề, đâm chém giữa
trò và Thầy đã không còn làm ai
xúc động.
Hãy xem lại các câu ca dao, tục ngữ, khẩu hiệu, có
phải chăng cái gì mà ta nói rỉ rả để khuyên
bảo nhau hay để lớn tiếng tự hào, khoác lác, là
những gì ta đang thiếu, có khi ít,có khi trầm
trọng đến thực ra chẳng có gì.
Văn hóa có vai trò rất rất quan trọng trong đời sống
xã hội, quốc gia. Đó là điều chắc ai cũng biết.
Giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng
để vun bồi, giữ gìn văn hóa một quốc gia. Chuyện này
nghe hoài chắc cũng nhàm tai.
Nhưng chúng ta đã làm gì trước bối cảnh hội nhập,
trước sức càn lướt của các tiền đạo văn hóa đội bạn
lại là điều có vẻ khá mơ hồ. Dường như chúng
ta thiều một huấn luyện viên về văn hóa bản lĩnh như ông
Calisto?
Văn hóa là những giá trị còn lại trải qua một
quá trình lịch sử dài lâu của một cộng đồng, một
dân tộc, có sáng tạo,có tiếp thu, chọn lọc. Lễ
hội chỉ là một bộ phận của cái tổng thể văn hóa,
nhưng có thể nói đó là phần sinh động nhất, biểu
trưng rõ nét nhất của văn hóa. Hãy quan sát
lễ rước cộ Bà diễn ra hàng năm vào dịp rằm tháng
giêng của người Hoa tại chợ Thủ Dầu Một. Lễ ấy có từ bao giờ?
Có thể đã gần trăm năm hoặc thậm chí còn lâu
hơn, vậy mà bao giờ nó cũng tưng bừng rộn rã, mỗi năm
mỗi đông hơn, cuốn hút cả người Việt từ các tỉnh khác
về tham gia. Năm nào cũng như năm nào,cũng vào ngày
ấy, khoảng giờ ấy, cũng múa cù, múa lân, múa
rồng, thỉnh tào kê…như từ bao nhiêu năm trước. Người Hoa
khéo giữ gìn bản sắc văn hóa của họ (dù không
nghe họ hô hào nhau phải kiên định làm thế) nên
dù sống ở trong lòng của bất cứ dân tộc nào, trải
qua bao nhiêu năm, thì cộng đồng người Hoa vẫn nổi bật không
lẫn lộn vào đâu được. Nếu cấm không cho đánh trống
khi múa cù, cũng như tết mà không được đốt pháo
ở Việt Nam hơn mười năm nay, chẳng biết người Hoa còn hăng hái
múa cù nữa hay không?
Nhìn lại ta, có biết bao nhiều điều phải ưu tư!
Khi mà đời sống đối với giới trẻ thừa mứa tiền bạc thời nay chỉ là
những cơ hội tìm kiếm cuộc vui, đám giỗ, đám cúng
đình đơn thuần chỉ là dịp để ăn uống, nhậu nhẹt, quậy phá,
thì những lễ lạc ấy sẽ bị đào thảy dần vì không
cạnh tranh nỗi với những cuộc vui tưng bừng quanh năm khác như Giáng
sinh, như sinh nhật, như tết Tây…
Tết trung thu năm nay, dạo xe trên các nẻo đường trong thôn
xóm, không thấy bóng một chiếc lồng đèn, một cây
đuốc, dấu hiệu cho biết ngày Tết ấy sắp đi vào dĩ vãng.
Ngày Tết nguyên đán, với bao nhiêu ý nghĩa
tinh thần cao đẹp mà tổ tiên đã gây dựng, có
thể rồi cũng cùng chung số phận, nếu như thế hệ người lớn tuổi hôm
nay không suy nghĩ gì, không làm gì để duy
trì sức sống cho nó.
Bản sắc văn hóa của dân tộc, khi ấy sẽ ra sao hay, chỉ là
những cụm từ hào nhoáng mà trống rổng, như chiếc hộp
trang trí nhiều màu sắc xinh đẹp nhưng chứa đựng những món
hàng rất đỗi tầm thường?