Làng Ba Chúc
HOÀNG ANH
-Tới Ba Chúc rồi, bà con ơi chuẩn bị xuống xe !
Ba Chúc là đâu, cái tên nghe quá
lạ. Xe chạy chậm dần, đánh một vòng tròn xuống con đường
dốc thoai thoải rồi dừng lại. Trời đang đứng bóng, lom khom bước ra
khỏi chiếc xe có máy lạnh, nghe như từng cơn nắng bay táp
rừng rực vào người.
Ngay lập tức đã có mấy người đàn bà chạy đến
cửa xe chèo kéo khách vào quán họ ăn cơm
uống nước. Nằm giữa một vùng đất trống trải đang nằm phơi mình
chịu trận cho nằng thiêu đốt, quán chỉ là một dãy
nhà tranh trống hoát, xây cất tạm bợ, treo sẵn cả chục
chiếc võng tòn ten không có ai nằm. Tôi
đảo mắt nhìn quanh một vòng, quang cảnh thiệt không hấp
dẫn chút nào, vậy tại sao chúng tôi phải vượt
con đường dài dằn xóc chạy qua bao xóm làng đồng
ruộng buồn thiu để đến đây vậy! Khoảng độ trăm thước, bên trái
là ngôi chùa nhiều màu sắc có vẻ như mới
sơn nhưng kiến trúc không có gì lạ mắt. Bên
mặt, cách đó không xa là một dãy núi
cao nằm uốn mình, cũng tầm tầm, không dài lắm.
Đây là đâu? Đây là Ba Chúc, nơi trưng
bày tội ác của Polpot. Tội ác của Polpot là chuyện
nghe đã nhàm tai mấy mươi năm nay! Tôi bước theo đoàn
người tham quan, hờ hững, mệt mỏi, bụng chỉ mong được nằm ngủ
một giấc.
Đã vậy, ngay lập tức chúng tôi bị một bầy trẻ con bám
theo xin tiền. Tội quá, tuổi còn đi học sao phải ăn xin. Tôi
móc túi cho nó một tờ bạc lẻ. Xong thì có
ngay đứa khác, một bé gái da rám nắng, hơi ốm
nhưng mặt sao mà kháu khỉnh, tinh anh.Tôi lại móc
túi. Năm ba đứa khác ập đến, lại cho, lại tới đứa khác.
Hết tiền lẻ rồi. Vậy ông cho con tiền chẳn cũng được. Chúng
cứ đi theo lẻo đẻo và năn nỉ luôn miệng. Hình như chúng
không hiểu câu hết tiền rồi hết tiền rồi. Bây giờ thì
tôi phải năn nỉ ngược trở lại chúng, làm ơn để tôi
yên, tôi hết tiền rồi, hết tiền rồi. Những người đi chung trong
đoàn cũng từ lòng xót thương rồi chuyển qua bực bội
không khác chi tôi. Có cả những người già
gầy tong teo chống gậy, da mặt răn reo, nhăn nhúm, trời nắng chang
như thế mà vẫn kiên trì van xin lòng vị tha của
chúng tôi. Từ lúc đó, không khi nào
mà họ buông tha cho chúng tôi nữa, đành
vừa tham quan vừa luôn miệng trả lời bọn họ là hết tiền rồi
hết tiền rồi làm ơn tha cho chúng tôi.
Chúng tôi đến xem nhà mồ nơi trưng bày sọ và
xương cốt của nạn nhân. Sao nhiều thế! Người ta nói có
đến trên ba ngàn người trong làng này bị giết
chết, chỉ trong mười ngày cuối tháng tư năm ấy. Tháng
tư là mùa của hoa phượng, của tiếng ve sầu của những ngày
thơ mộng tuổi học trò không bao giờ quên. Trên quê
hương mình, tháng tư sao lại là những tháng buồn
thảm và khốc liệt, tháng tư, mùa hè, mùa
của lửa đỏ và máu lệ, tâm hồn ta như bị thổn thức, vở
tan từ sâu thẳm bao nhiêu mảnh thủy tinh không thể hàn
gắn.
Đầu lâu và xương cốt chất nằm ngổn ngang trong khu nhà
hình bát giác có lồng kiếng, mỗi mặt có
tấm bảng ghi giới tính và độ tuổi của sọ xương. Sọ nào
cũng có đôi hố mắt đen to và sâu hoắm, cái
miệng nào cũng mở ra tan hoát, không biết là đang
nhe răng cười hay đang gào thét. Và cũng không
làm sao mà biết được, cái sọ nào hồi còn
sống là cái mặt có duyên, cái mặt nào
hiền lành chơn chất, cái xương nào là của người
lực điền vạm vỡ, xương nào của vóc hạc gầy vai. Chụp vài
bô hình kỷ niệm nhe, tôi nói. Eo ơi, đừng, cô
nhà văn xinh đẹp đi cùng nhăn mặt, sợ hãi. Tôi
nói thầm, sao mà dám chê người ta vậy, hồi còn
sống chưa biết ai hấp dẩn hơn ai à nhen!
Bọn trẻ nhao nhao, ông đi coi máu người chết đi ông. Chúng
dẫn đường, tôi đi theo. Chúng tôi yên lặng và
chậm rải từng bước đi vào hai ngôi chùa có tên
là Phi Lai và Tam Bửu. Không khí chợt trở nên
tĩnh mịch và lạnh lẽo.Nền gạch còn lâm thâm
vết đạn trên màu nâu đen của máu khô như
vẫn còn thoang thoảng chút mùi tanh. Lạnh. Ông
đạo sĩ búi tóc có chòm râu đen dài
trong bộ bà ba nâu cũ sờn vai đi theo kể lể. Nơi này
hồi đó máu ngập tới mắt cá chân, nơi này
người nằm chết ngổn ngang, dưới bệ thờ này nè chúng
quăng lựu đạn, bốn mươi người chỉ một người sống sót. Chúng
hãm hiếp phụ nữ, xong còn lấy cây chọt vào cửa
mình, trẻ con thì chúng xé làm hai như
xé phai. Tiếng nói của ông nhỏ thôi. Thầm thì.
Không biết ông đang nói hay đang khóc, mà
hình như cũng không phải tiếng khóc của ông đâu.
Chen trong đó như có tiếng rên xiết khóc than
của bao oan hồn, của những chàng thanh niên nông dân
khỏe mạnh, của những cô gái quê mặn mà duyên
dáng. Nghe. Như những tiếng vọng của sóng thần đang từng đợt
đánh tan cõi lòng dửng dưng lạnh nhạt. Trước mắt tôi
như có hàng trăm khuôn mặt thảng thốt đang van
xin cầu nguyện đang quằn quại vì những viên đạn xé nát
cơ thể những cái báng súng đập vào đầu vở ra
tung tóe từng miếng óc và máu chảy tuôn
xối xả, và những cái xác sình thối nằm chồng
chất ngổn ngang và những gương mặt xinh tươi ngây thơ hồn nhiên
trên đồng lúa mới hôm nào giờ bầy nhầy sưng tấy
không sao nhận diện. Tôi nhìn những vết sơn nâu
đậm quệt xấu xí trên tường, họ nói đó là
nơi mà vết máu và óc người đã văng cao
tới trên ấy. Bọn trẻ con vẫn lẻo đẻo bám theo sau lưng, làm
những hướng dẩn viên du lịch tình nguyện, đây nè
ông, đây là chỗ còn in dấu người đàn bà
nằm, ông coi nè, đây là cái đầu, đây
là cái cẳng chưng, và chút nữa ông cho
cháu tiền nhe! Hết tiền rồi, con à. Vậy thì ông
cho con tiền chẵn nhe, con dẩn ông coi chỗ này, người ta bị
đập đầu nè.
Lê từng bước chân chậm rải, rã rời, ruột như đứt ra từng
khúc, tôi quay về quán cơm. Bọn trẻ vẫn kiên trì
đi theo rù rì những câu xin tiền thống thiết. Ở cuối
quán là hai sòng bài, đàn ông có,
đàn bà có, đang lớn tiếng cãi cọ nhau. Chắc là
cha mẹ của đoàn quân ăn xin bé bỏng này, hay là
con của mấy của cụ già đứng run lẩy bẩy van xin chúng tôi
ngoài con đường nhỏ nắng cháy. Đứng chen vào đám
ăn xin và bán vé số, người đàn bà chủ
quán chào mời món cơm thịt sườn nướng bà nói
rằng ngon lắm vì vừa mới nướng lại cho nóng hổi.
Chúng ta không thể nào ngồi đây mà ăn cơm
được đâu, phải đi thôi. Tôi nói, mọi người đồng
ý. Chiếc xe lăn bánh. Ngoài cửa kính, tôi
thấy một bà cụ già quắt queo ngồi lượm lá vàng
khô trước khu trưng bày đầu lâu và xương sọ. Bà
có cái tên khá trẻ trung là Hà Thị
Nga, và dòng họ bà có hơn trăm người đã
chết trong những ngày ấy.
Rời khỏi Ba Chúc, chiếc xe lắc lư chòng chành dữ dội
nhưng tôi vẫn cầm trên tay quyển sách mỏng và đọc
ngấu nghiến “Chứng tích tội ác Pôn pốt nhà mồ
Ba Chúc”. Tuy xe đi càng lúc càng xa, mà
lòng tôi thì mỗi lúc càng quay trở lại
gần ngôi nhà mồ và có vẻ như đã lảng vảng
ở lại đâu đó với Ba Chúc.
Hôm nay, tôi biết khá nhiều về nơi ấy. Ba Chúc
là một thung lũng nằm giữa hai dãy núi. Dãy núi
chắn bên đây làng có tên là Kỳ Lân
Sơn hay Liên Hoa Sơn, dân chúng chỉ gọi đơn giản là
núi Tượng vì họ nói nó giống hình con
voi đang nằm ( Tôi cũng cố nhìn và tưởng tượng nhưng
chẳng thấy nó giống con gì, Voi không mà Kỳ Lân
thì lại càng không). Dãy phía bên
kia là Ngọa Long Sơn, tức núi Dài. Xưa đây là
vùng rừng rậm và lao sậy, Phật Thầy Tây An đã
đến đây lập ra giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, khuyên
tín đồ làm lành và ráng chăm lo khai phá
vùng đất hoang vu lập thành xóm làng. Tiếp bước
Ngài, ông Ngô Lợi cũng đến đây lập ra đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, cũng khuyên tín đồ ăn hiền ở lành, nên
sau họ tự gọi đạo mình bằng cái tên giản dị và
rất dễ thương là đạo Lành. Hai ngôi chùa Phi Lai
và Tam Bửu quá ra đã được xây cất từ lúc
đó và là tổ đình của đạo. Người tu theo đạo lành
phải biết nhớ ơn, ơn trời đất, ơn nước non, cha mẹ, xóm giềng…Đã
khắc ghi ơn sâu nghĩa nặng thì phải báo đền, nước
non nguy biến, núi Tượng trở thành ngọn cao sơn quy tụ anh
hùng hảo hán can trường chống giặc. Từ những ngày xa
xưa, vùng đất này đã trở thành căn cứ địa kháng
chiến ác liệt nhất của miền Nam, và cũng từ ấy, những người
đạo lành đã chịu nhiều kiếp nạn hết sức tang thương. Trên
những nẻo đường thôn nho nhỏ thoang thoảng mùi hoa, trên
những cánh đồng lúa vàng thơm tho hương đồng cỏ nội,
đâu đâu như cũng vẫn còn lưu dấu tích của đoạn
trường điêu linh đã qua.
Chiếc xe chạy khập khiểng trên đường đưa chúng tôi từ
từ rời xa Ba Chúc. Tôi chăm chú nhìn xung quanh,
như cố ghi giữ tất cả hình ảnh của ngôi làng ở vùng
đất biên giới xa xôi của đất nước. Bên đường là
con kinh nhỏ, lâu lâu laị có chiếc xuồng máy chở
lúa chạy xình xịch xình xịch. Đang mùa gặt, trên
đồng lúa vàng, rơm rạ đốt cháy tỏa khói mờ ảo
ở chân trời. Những người dân trong chiếc áo chiếc quần
mộc mạc cũ kỹ vẫn đang lao lụng chăm lo cho đời sống của họ. Những đời sống
thầm lặng, quạnh hiu. Núi Tượng núi Dài vẫn nằm vắt
ngang chân trời, có vẻ vô tình lãnh đạm
chứ không như những bức tường thành che chắn bảo vệ cho dân
làng mà từ tổ tiên đã luôn chơn tình
hết lòng hết dạ với núi. Ngày tận thế đã đến
gần, hay đã đến trong tháng tư năm ấy, và hội Long Hoa
mà con người hằng đợi, đã mở ra chưa trên núi
Tượng linh thiêng, hay trong từng làn gió thổi, trong
tiếng lá cây xào xạc, vẫn còn đồng vọng
tiếng thét tiếng rên, tiếng báng súng đập vỡ từng
sọ người suốt trong đêm trường mù mịt tối tăm ấy. Người sống
sót kể rằng, cả đêm ấy giặc lùng sục mọi hốc núi,
bụp, có tiếng đập đầu, tiếng thét, rồi tiếng rên âm
ỉ, nhỏ dần, lại bụp, một tiếng khác, lại bụp, đến sáng thì
gần như mọi sự sống đều bị tiêu diệt. Con người luôn kính
cẩn Thần Linh và luôn hết tâm phụng sự tin tưởng Thần
Linh, nhưng sao Thần Linh đành ngoảnh mặt bỏ rơi những đạo lành
trong cơn nguy khó như thế! Trong hang Dồ Đá Dựng, trên
bảy chục người, có cả bốn em bé đã trốn chui trong đó
nhiều ngày. Vì đói khát, những đứa trẻ la khóc
vật vã suốt ngày, sợ bị lộ, để cứu những người còn lại
cha mẹ các em đành chính tự tay mình giết chết
con thơ. Một đứa bé biết mình sắp bị cha giết, khóc
lóc kêu xin: “Ba ơi! Đừng giết con, con không khóc
nữa đâu”. Nhưng những người cha, người ông không còn
lựa chọn nào khác, đành bóp mũi cháu con.
Ba tiếng đồng hồ sau, khi quân đội vào giải cứu thì xác
bốn đứa trẻ vẫn còn nằm nóng hổi trong vòng tay ngập
tràn đau đớn của đấng sinh thành. Có cần không
đến lúc chúng ta phải đấu tranh trên toàn thế
giới cho quyền được khóc của trẻ con?
Andre’ Maulrois, nhà văn hóa lớn của Pháp trong thế
kỷ 20 viết:
“Hôm qua coi vô tuyến truyền hình tôi thấy một con
chim ưng rình một con thỏ con đi lạc ra ngòai hang. Cặp mắt
dữ tợn ghê gớm cùa con ưng nhìn trừng trừng con mồi của
nó với một cường độ gần như chịu không nổi. Rồi thình
lình nó sà xuống con thỏ non. Một đám mây
ghê tởm hiện lên trong một phút, mịt mù những lòng
và máu. Có những lòai ưng trong mọi phân
bộ của cõi rừng rú là xã hội lòai người.
Có những kẻ mạo hiểm rình những cuộc chở vàng. Có
những kẻ gọi là tín cẩn mà ăn cắp của chủ. Có
những kẻ buôn thịt người làm cho gái điếm khủng khiếp.
Có những kẻ bạo dâm tìm những miếng mồi non mà
chúng có thể hiếp dâm rồi giết. Lúc nào
trên trái đất cũng có mươi chỗ mà binh lính
cầm tiểu liên đi lùng trong các rừng bụi hay đầm lầy
và bắn các binh lính khác như người ta bắn thỏ.
Nhân lọai như vậy đấy và chúng ta phải khởi sự từ đó
để xây dựng những nền văn minh”. Thầy ơng, nhà triết học Alain
nĩi: “ Và nếu cái đó không phải là cái
vinh dự của thế giới thì chúng ta đành đâm đầu
xuống sông thôi.”
“Nhưng cái đó chính là vinh dự của thế giới.
Cái nhân lọai om sòm và thô bạo này
trong mấy ngàn năm nay chiến đấu để xây dựng những xã
hội tốt đẹp hơn cái xã hội của chim ưng và thỏ, không
chấp nhận hạng người chối bỏ mọi sự. Trong khu rừng nhân lọai có
thứ cây tốt. Rồi bạn sẽ thấy.”
(Thư gởi tuổi hai mươi, bản dịch Nguyễn Hiến Lê)
Rồi bạn sẽ thấy. Trong cơn đau thắt quặn lòng xót thương vô
vàn cho những nạn nhân Ba Chúc, tôi đành
mong như thế.
Ngày mai, những cơn điên dại, bạo tàn, vô minh
của nhân loại sẽ chấm dứt mọi nơi trên quả đất này. Hội
Long Hoa hãy sớm khai mở, người nông dân Nam bộ đã
chờ đợi quá lâu, hãy khai mở cho cháu con của
những người đã chết tại Ba Chúc sẽ được sống một đời no cơm
ấm áo nhờ từng tấc đất ngọn rau toát lên mùi thơm
dịu ngọt của tình thương và sự thứ tha trên ngôi
làng hiền hòa thơ mộng này.