KỲ LÂN

HOÀNG ANH


Kỳ lân, loài vật huyền thoại quen thuộc với đa số người Việt, tuy nhiên, đó là con vật như thế nào thì nhiều người vẫn còn biết một cách khá mơ hồ.
Ở miền Bắc, giống như ở Trung Quốc, múa lân còn gọi là múa sư tử.Tuy vậy trên các bức tranh “Cóc múa lân” thuộc dòng tranh Đông Hồ, chữ Nôm xưa  vẫn ghi là “Phụng Lân”



Con lân đực được gọi là kỳ, con cái là lân . Gọi chung là kỳ lân, một trong bốn vật “tứ linh” của Trung Quốc (ba con còn lại là long, qui, phụng). Nếu như long, qui có từ tương đương tiếng Việt là rồng, rùa thì lân được giữ nguyên theo cách gọi của từ Hán Việt. Theo Wikipedia, tài liệu xưa nhất đề cập đến kỳ lân (qilin) xuất hiện vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên trong bộ sách gọi là Zuo Zhuan. Còn theo sách sử Trung Hoa như bộ Tam Hoàng Ngũ Đế thì kỳ lân xuất hiện lần đầu vào thời Hoàng Đế Hiên Viên, cách đây khoảng 5000 năm. Lần thứ hai là vào thời Khổng Tử, nhưng lần này, một người gánh củi thấy con thú có hình thù kỳ quái, hoảng sợ nên đánh nó què hết một chân. Biết chuyện, Khổng Tử buồn rơi lệ vì cho con lân này là ứng vào mình nên bỏ mộng chu du liệt quốc để bình thiên hạ. Ngài luận rằng lân bị đánh què là điềm không may, tức là mình sinh bất phùng thời, có đem sở học đi rao giảng ở đâu chăng nữa sợ không ai nghe mà có khi lại mang họa vào thân.Từ đó, Ngài ở nhà sáng tác kinh Xuân Thu, vì tích này, sách còn được gọi là Lân kinh.Thuyết khác nói rằng Ngài đang soạn sách thì biết chuyện lân bị tai nạn, do đó mới ngưng không viết tiếp nữa.Và cũng từ đây, lân biến mất, không biết tại nó bị què, hay vì thế gian này không còn thánh nhân ra đời nữa!
Lại cũng có tích nói khi bà Trưng Taị mang thai Khổng Tử, bà nằm mơ thấy một con lân từ từ đi tới trước chân bà thì nằm phục xuống nhả ra một viên ngọc có đề hàng chữ “Con nhà Thủy Tinh, làm vua không ngai dưới đời Châu suy tàn”. Nói chung, dù truyền thuyết có khác nhau, với người Trung Quốc, lân vẫn là con vật tượng trưng cho sự thái bình thịnh trị, cho may mắn và nó chỉ xuất hiện vào những thời đại có thánh nhân ra đời. Thế nhưng xem sử sách Trung quốc, ta biết thời của Đức Khổng Phu Tử, được kể lại trong bộ Đông Châu Liệt Quốc, lại là  thời ly loạn  làm con người khốn khổ hơn bao giờ hết!

 

Bức tranh tựa đề Qilin Brings Serenity (rui) Ode, của một họa sĩ cung đình vẽ hình một trong hai con hươu cao cổ của Trịnh Hòa vào năm 1414.


 
Hình ảnh kỳ lân thay đổi theo từng triều đại, nhưng có lẽ được miêu tả bắt đầu từ triều đại nhà Minh (1368-1644). Sau chuyến hải hành của Trịnh Hòa (Zheng He) đến miền Đông Châu Phi (vùng đất ngày nay thuộc về Kenya), viên quan Thái Giám này đã đem hai con hươu cao cổ về Bắc Kinh. Lần đầu tiên nhìn thấy loài vật có hình dáng lạ lùng này, vua tôi nhà Minh rất ngạc nhiên. Nhà vua bèn cho rằng đây chính là con kỳ lân, vật linh biểu tượng cho quyền lực to tát của ông ấy.
Việc mượn những đường nét của con hươu cao cổ có thật để kết cấu nên con lân huyền thoại còn ở đặc điểm đã được miêu tả trong sử sách xưa về tập tính của chúng: chỉ ăn “chay” và hiền lành.Theo một bộ sách tên là Từ Nguyên thì lân không ăn thịt sống, không ăn cỏ tươi, nhưng cũng không nói chính xác là lân ăn gì. Lân có thể đi trên cỏ với thân hình to cao bệ vệ mà không làm hư hại cỏ, cũng không làm tổn hại các sinh vật nhỏ bé khác sống trong đó, và có thể lướt trên mặt nước mà không bị chìm. Điểm khác biệt đáng kể nhất giữa chúng là ở cái cổ, một con thì dài quá, một con lại ngắn quá, ta không hiểu vì sao người xưa lại liên kết chúng như thế. Nhờ sự tạo tác của loài người, lân bắt đầu có hình có dáng. Đầu tiên, lân là con vật bốn chân với cái đầu rồng có hai cái sừng giống như sừng bò, mình có vảy cá. Đến thời Mãn Thanh (1644-1911), lân có thêm cái đuôi của sư tử.
Có lẽ vì muốn làm tăng thêm tính  linh thiêng cho con vật, loài người tha hồ tưởng tượng và tạo dáng vẻ riêng cho nó.Lân có thể có đầu nửa rồng nửa thú, có hai sừng, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rồng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò, vú như vú ngựa, mình nai, có vảy như vảy cá, lông ngũ sắc, đuôi trâu...Trải qua dòng thời gian với nhiều thêm thắt, biến đổi; ngày nay, hình ảnh lân đã dần định hình và con lân quen mắt với chúng ta hôm nay là một con vật bốn chân có một sừng, mình có vảy như vảy cá, đầu nửa giống rồng, nửa giống thú, miệng rộng. Cây sala, hay cây Vô Ưu, theo kinh điển Phật giáo, là nơi đức Phật Thích Ca đản sinh (trong khu vườn Lumbini) và Ngài nằm nhập diệt cũng dưới hai cây đó (tại Kisinara). Giới chơi cây cảnh ở Việt Nam đặt cho loại cây này các tên như cây Đầu Lân, Ngọc Kỳ Lân, hay cây Hàm Rồng, không biết giữa chúng có mối liên hệ nào với hình dáng của đầu lân hay không.

 

Điểm đặc biệt nhất là con lân đực có hai cái sừng, hơi giống sừng nai, thế nhưng về sau, từ từ nó chỉ còn lại một cái sừng nhọn, ngắn, hơi cong cong về phía trước như sừng tê giác. Sừng này làm con lân có vẻ dữ tợn nhưng không húc chết ai và lại được cho là hiện thân của lòng nhân từ, thế nên người ta cũng gọi nó là Nhân thú. Tuy hiền lành, nhưng khi gặp những thế lực hung ác hãm hại loài người, lân có thể phun lửa hay thể hiện thần oai xua đuổi chúng đi..
Bên Phật giáo, lân thường được thể hiện đội tòa sen, làm chỗ ngồi cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hay các vị Hộ Pháp. Một hóa thân khác của lân là long mã, một con vật nửa rồng nửa ngựa chạy trên sóng nước, lấy theo tích vua Vũ trị thủy, tượng trưng cho nam nhi tung hoành ngang dọc, và cũng tượng trưng cho thánh nhân, cho sự vận hành của vũ trụ.
Trung Hoa có một biến thể nữa của lân là Tỳ Hưu, loài thú có hai sừng, bờm rất dài uốn cong chạy dọc sóng lưng, còn gọi là “Hươu Trời”. Lúc đầu nó có hai sừng, về sau cũng giống như lân, không biết vì lý do gì nó “rụng” bớt một sừng, thành thử nhìn không khác chi lân. Con vật này được cho là có sức thu hút tài lộc về cho gia chủ nên người ta đúc tượng để bán. Đây có lẽ là một chiêu thức kinh doanh hốt bạc của người Hoa mà thôi.
Kỳ lân viết theo tiếng Anh là qilin, tiếng Nhật là kyrin, còn tiếng Hàn là girin, các âm này gần giống như nhau, nên có thể suy ra là từ một nguồn gốc. Cùng nằm trong những vùng lãnh thổ chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa Trung Quốc như Việt Nam, hai nước Nhật và Hàn cũng có con lân với một ít khác biệt. Con lân Nhật giống như con nai và có đuôi bò thay vì đuôi sư tử. Người Nhật cũng xếp nó lên hàng đầu trong tứ linh thay vì đứng sau long và phụng. Điều này, họ giải thích là vì giữ đúng truyền thuyết cổ của Trung quốc, theo đó lân được xếp đứng đầu, kế đó mới tới phụng và long đứng thứ ba.
Dù du nhập từ Trung Quốc, đáng chú ý là con kyrin của người Nhật có vẻ giống như con unicorn của Tây phương hơn là con qilin của người Hoa. Unicorn, hay kỳ lân Tây, là một loài ngựa có sừng. Cũng giống như lân ta, lân Tây là con vật huyền thoại và không có hình hài cố định. Nó thường được miêu tả như một con ngựa trắng, râu thì râu dê và có một cái sừng nhọn cao vút ở đỉnh trán. Trong kho tàng đồ sộ và phong phú của thần thoại Hy Lạp không có lân, nhưng người ta biết về nó trong các tài liệu về lịch sử tự nhiên của Hy Lạp cổ đại, trong đó các tác giả người Hy Lạp tin tưởng lân là một con vật có thực và quê hương của chúng là đất Ấn Độ xa xăm. Người đầu tiên viết về nó là Ctesias, nhà vật lý và sử gia sống vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Ông nói rằng đó loài thú hoang có một sừng. Dựa vào mô tả của ông, những người đời sau dẫu có nhiều thêm thắt, biến cải nhưng con vật với một cái sừng nhọn trên đầu vẫn là đặc điểm chung nhất của nó.



Đến thời Trung Cổ và Phục Hưng, lân Tây được xem như con thú hoang trong rừng thẳm, tượng trưng cho sự thuần khiết và duyên dáng, chỉ có thể khuất phục bởi các trinh nữ mà thôi. Người ta tin rằng chiếc sừng của linh vật này có thể giải được chất độc và chữa được nhiều loại bệnh tật.Theo thời gian, lân Tây ngày càng được nhắc tới nhiều trong các lãnh vực văn học, tín ngưỡng tại nhiều quốc gia với những giai thoại và giải thích khác nhau về nguồn gốc, đặc điểm, hình dáng. Đến thế kỷ 19, niềm tin tưởng vào lân Tây được lan rộng trong mọi giới kể cả các sử gia, nhà văn, thi sĩ, các nhà thần học, tự nhiên học…
Nãy giờ nói chuyện lân ở xứ người, giờ xin chuyển qua con lân Việt. Trong các trang trí kiến trúc đình, chùa, miếu cổ Việt xưa có con nghê (hay Toan Nghê, từ Hán Việt là Phật Sư, nghĩa là trấn giữ), có người giải thích rằng nó cũng lấy ý tưởng từ Phật Sư của đạo Phật. Con này mình không lớn, không có sừng, chân ngắn, thường có móng vuốt, không có vảy trên thân, đuôi thường có lông che phủ, thể hiện nét tinh nghịch và vui tươi, uyển chuyển chứ không hùng dũng oai vệ như lân. Khác với nguồn gốc đầy huyền thoại của lân, con nghê được cho là có nguồn gốc từ con chó giữ nhà. Trước cổng làng, cổng đình của người Việt ngoài Bắc xưa thường có tượng con chó đá, được phản ánh trong một số truyện cổ tích của Việt Nam như chuyện “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng”. Thờ con chó, người Việt thể hiện một tinh thần tuy có vẻ hơi nghèo trí tưởng tượng nhưng khá thực tế. Có người so sánh nếu Tàu có con lân thì người Việt có con nghê, thế nhưng có lẽ vì lý lịch không có “gốc gác” tốt như lân nên ngày nay, ngoại trừ những nhà nghiên cứu về văn hóa, người Việt chỉ biết có kỳ lân mà khá mù mờ về con nghê.
Chuyện lân Tàu, lân Tây, lân ta kể đến đây cũng khá dài; còn tại sao riêng ở tỉnh Bình Dương người ta lại gọi nó là con cù, xin dành cho một bài viết khác.