HUỲNH VĂN CÙ
ANH HÙNG CHỐNG TÂY
HOÀNG ANH (29-03-13)
Trước đây nửa thế kỷ, dân chúng vùng chợ
Thủ có truyền tụng hai câu ca:
“Ai nghe chăng Ông Cù cụt tay
Hô xung phong lấy đồn ban ngày”
Ông Cù Cụt Tay là một nhân vật lịch sử
nổi tiếng của vùng đất Thủ Dầu Một thời chống Pháp.
Ông nổi tiếng vì những chiến công hiển hách
đã lập được, và còn vì hình ảnh
những phút cuối cùng của một anh hùng sa cơ: lẫm
liệt, bi tráng.
Cuộc đời của ông Cù được viết lại sau đây với
nhiều thận trọng, có tham khảo chọn lọc từ nhiều tài liệu
đã viết về ông. Đồng thời, kết hợp thêm với lời kể
của vài vị lớn tuổi còn sống tại địa phương, những người
vẫn lưu lại trong ký ức ít nhiều hiểu biết về nhân
vật này. Những giai thoại, truyền thuyết về ông Cù
mà chúng tôi nhận thấy còn mâu thuẫn,
chưa hợp lý và trong khi chưa tìm ra được
tài liệu để kiểm chứng thì xin gát lại chờ đợi cơ
hội trong tương lai.
Theo các tài liệu đã viết về ông Huỳnh
Văn Cù, ông sinh năm 1919, tại ấp Chánh
Thành, xã Chánh Hiệp, tỉnh Thủ Dầu Một. Bà
Nết, vợ ông, không còn nhớ rõ năm sinh của
chồng, nhưng không đồng ý với thời gian này,
vì theo bà, ông phải nhỏ hơn vài tuổi mới
hợp lí.
Ông là con thứ hai trong gia đình có ba
chị em, ông có một người chị và một đứa em trai.
Cha là Huỳnh Văn Lô, thường gọi ông ba Lô,
làm nghề chạy xe ngựa, hoạt động bí mật chống
Pháp, bị bắt bỏ tù đến năm ký hiệp định Geneve
(1954) mới được thả. Ông sinh ra và lớn lên trong
một ngôi làng nghèo, tuy cách chợ Thủ
không xa nhưng nhà cửa thưa thớt, hẻo lánh, xung
quanh còn rất nhiều khu rừng chồi. Dân làng hầu hết
làm nghề nông, hoặc làm mướn kiếm ăn qua
ngày. Có lần Tây đi bố, gom bắt dân
chúng đem ra suối Giữa bắn chết hết gần 50 người. Tuổi thơ của
ông lớn lên trong khung cảnh hiu quạnh tang thương ấy. Niềm
vui thời đó với ông là những trò chơi ở đồng
quê như bắn chim, bắt dế, thế nên ngay từ nhỏ, với
cái giàn thung, ông đã là tay bắn
giỏi. Khi lớn lên, có thời gian ông làm thợ
may ở chợ Thủ.
Đến năm 1945, ông gia nhập phong trào Thanh
Niên Tiền Phong giành chánh quyền ở chợ Thủ, rồi
chuyển sang làm Hội trưởng Thanh niên Cứu quốc. Năm 1946,
ông chính thức đứng vào hàng ngũ lực lượng
Việt Minh. Được bầu làm ủy viên Ủy ban Kháng chiến
hành chánh xã Chánh Hiệp, ông
thành lập đội du kích xã.
Đến tháng 8-1948, Cù là Phó bí
thư thị ủy, kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến
hành chính và đặc trách thị đội trưởng thị
xã. Cơ quan hành chánh của thị xã
đóng ở ấp 4 xã Chánh Hiệp. Trụ sở mật của thị đội
đóng ở các điểm Bà Lụa, Phú Văn, Mỹ
Bình. Địa bàn hoạt động chánh bao gồm các
xã Chánh Hiệp, Phú Cường.
Trong thời kỳ này, nhiều chiến công của đơn vị do
ông Cù chỉ huy đã được các nhà viết
sử địa phương ghi lại trong sách vở như ám sát
những tên ác ôn, Việt gian, đánh đồn, phục
kích. Về sau ông bị Pháp bắt sống, chúng cột
ông lên xe bọc thép chở đi vòng quanh
vùng chợ Thủ cho mọi người nhìn thấy rồi giết đi,
không ai biết chính xác chúng giết ông
ở đâu, khi nào.
Theo bà Sáu Nết, đêm 19-01 năm 1949, ông
Cù bị Tây bắt, khi bị bắt, ông đang nằm trốn một
mình dưới đám lục bình trong một con rạch
bên Mỹ Bình (Bình Mỹ, ngày nay), một phụ nữ,
có thể là một đồng chí phản bội, đã điềm
chỉ cho Tây đến bắt ông. Người ta cũng đồn rằng, vài
hôm sau, Tây đã hành quyết ông ở khu
đất phía sau chùa Cô Hồn (nay là trường
trung học cơ sở Phú Cường), nhưng nay thì không ai
có thể khẳng định điều này.
Sau 1975, ông Cù đã được truy tặng huân
chương kháng chiến hạng nhất. Tên ông còn
được đặt cho một con đường, theo sách mô tả thì:
“Trước đây là hương lộ, từ năm 2001 mang tên
đường Huỳnh Văn Cù, từ ngã tư chợ Cây Dừa đến cầu
Phú Cường, dài 2190m, làm ranh giới giữa phường
Phú Cường với xã Chánh Mỹ” (1)
Trong thực tế hiện nay, đường Huỳnh Văn Cù bắt đầu từ
bùng binh trên đại lộ Bình Dương, (đầu đường Phạm
Ngọc Thạch, lối dẩn vào bệnh viện 512 giường của tỉnh), chạy
ngang qua chợ Cây Dừa, tới đầu cầu Phú Cường.
Chuyện kể thêm về ông
Cù:
1.Phần sau đây, ghi lại theo lời kể của một người
(tháng 2-2013) cho biết từng là chiến sĩ chiến đấu trực
tiếp dưới sự chỉ huy của ông Cù là ông
Lê Tấn Sĩ, sinh năm 1934 tại Hòa Phú, huyện Củ Chi,
hiện nay đang sống ở Paris.
Theo lời ông, đội ám sát khi ấy
có 5 người, tuổi trạc đôi mươi, người trẻ nhất là
ông Sĩ, mới 16 tuổi. Anh ba Cù dáng người tầm
thước, hơi xương, thao tác nhanh nhẹn và vui vẻ,
nói chuyện khá thu hút, ai cũng thương. Bàn
tay phải của anh bị cụt mất, bên hông trái đeo
cây súng lục của Đức (có thể là lọai
súng Walther PP), đây là loại súng ngắn tự
động. Anh em còn lại thì thường xài ru lô
mà thôi (Rouleau). Anh Ba có tài bắn
súng bá phát, nghe nói anh đã hạ rất
nhiều tên địch bằng cây súng ngắn đó. Anh Ba
sống rất hòa đồng với anh em, lúc nào cũng ăn
chung, có miếng ngon thì kêu mọi người xúm
lại cùng ăn chứ anh không khi nào ăn một
mình. Chỉ có ban đêm, cứ hai ba hôm là
anh lại bỏ anh em đi đâu đó không biết, tờ mờ
sáng mới thấy lò mò về. Anh Ba thường khuyên
anh em rằng: “Việc gì cũng cần phải hết sức bình tĩnh.
Dù bất cứ việc gì xảy ra, bình tĩnh thì sẽ
vượt qua hết”.
Họ thường ẩn núp trong một căn chòi nhỏ nằm giữa
đám mía cách cầu Rạch Tra chừng 500 mét (Mỹ
Bình, Củ Chi). Hồi đó dân thương Việt Minh lắm,
nên kẻ cho gạo, người cho cá, tổ du kích nhờ vậy
cũng sống tạm qua ngày. Ban đêm mỗi người một chiếc
võng, tản ra kiếm chỗ nằm ngủ. Khi có nhiệm vụ thì
rời căn cứ, bơi xuồng ra đi.
Khi rời cứ, họ chèo ghe vượt sông Sài
Gòn, cặp bến sông khúc gần chợ, khu Lò Heo.
Từ đó họ rẻ vào con rạch nhỏ, tới cầu Cỏ, rồi lách
dần tới đoạn gần rạp hát Thanh Bình, ở đây, họ neo
ghe rồi tất cả lên bờ, nhiệm vụ ai nấy đi. Rạp hát Thanh
Bình là điểm từ đó xuất kích và tập
họp sau khi thực hiện nhiệm vụ. Mỗi người phải cải trang để đóng
một vai khác nhau, len lỏi vào chợ. Kẻ thì
bán dế, người bán cà rem. Thùng dế hay
cà rem đều có ngăn riêng dưới đáy, đó
là chổ để dấu súng hay lựu đạn. Mỗi người tìm
cách di chuyển đến mục tiêu mà anh Ba đã
phân công, và cứ theo kế hoạch mà hành
động.
Tiểu đội dưới sự chỉ huy của anh Ba đã lập được khá
nhiều chiến công, làm cho giặc ăn ngủ không
yên. Có lần, họ tổ chức cướp súng của một tên
trung sĩ người Miên. Sau nhiều ngày theo dỏi, anh em
phát hiện một quy luật của tốp lính do tay trung sĩ
này cầm đầu. Hàng ngày, tụi nó thường đi
tuần tiễu từ hướng đồn ở cầu Thủ Ngữ về chợ, tới cái bót
nhỏ gần cầu Thầy Năm Trong thì dừng lại nghỉ ngơi. Thằng trung
sĩ hay xuống mé sông để rửa chân, vẫn mang kè
kè theo cây súng. Hôm đó một anh phục
sẵn dưới sông giả đò đang rửa ráy chân tay.
Khi thằng Miên đang lom com lo rửa hai khúc chân đầy
bùn đen và lông lá của nó. Anh
này vùng dậy, giáng cây chèo thật
mạnh vào sau gáy, thằng nọ té ùm xuống nước
không kịp cất một tiếng la. Anh chiến sĩ tháo lấy
cây súng và phóng xuống sông lội đi
mất, trước khi bọn lính chờ trên bờ phát hiện được.
Ít lâu sau, một lãnh đạo công an Hốc
Môn là ông Chà đến mượn Ba Cù
cây súng đó để đi ám sát tay
Chích là tay ác ôn nổi tiếng nhất của
vùng Hốc Môn. Khi bắn thử vào trái dừa
trên cao cho chắc ăn, súng nổ rất ngon, thế nhưng khi bắn
thiệt vào đầu thằng ác ôn này hai
phát thì súng lại tịt ngòi. Mạng tay
nào cao số, phải ám sát lần thứ ba thì
nó mới chết. Lần cuối cùng này, chắc số nó
tận rồi, chỉ cần dùng cây súng tự tạo, bắn hai
phát vào bụng, nó chết liền tại chổ.
Một trong những trận đánh có tiếng vang lớn
là vào dịp rằm tháng giêng. Dẩn đầu
đoàn cộ Bà có bốn người lính Tây cầm
súng trường. Đây là mục tiêu để thanh
toán. Đến cuối đường Nguyễn Thái Học, tới khúc
quanh rẻ về hướng chợ cá, anh chiến sĩ tên Tư ném
lựu đạn vào bốn người lính. Thế nhưng mặc dù anh
Ba Cù đã dặn kỹ, sau khi tháo chốt, phải đếm cho
đủ mấy tiếng rồi mới quăng. Thế nhưng có lẽ vì chưa kinh
nghiệm và mất bình tĩnh, Tư quăng có hơi sớm, lựu
đạn lăn long lóc mà không nổ. Người múa
cù nhìn thấy trái lựu đạn đang lăn dưới chân
mình, hốt hoảng đá đi. Trái lựu đạn lại bay tiếp
tới người đàn bà đang ngồi bán cua ở góc
cây cột đèn, lần này thì nó
phát nổ. Rất nhiều người chết và bị thương vì
tiếng nổ to bất ngờ này. Tư liền chạy thục mạng về hướng rạp
hát Thanh Bình (đường Trưng Vương). Tại đó, một
trái lựu đạn khói của anh em đóng chốt cũng
đã được tung ra để ngăn chặn bọn lính từ đồn cầu Cỏ nghe
nổ chạy lên ứng cứu. Lúc anh em ra tới điểm hẹn đầy đủ,
liền nhanh bước xuống chiếc ghe đậu sẵn ở con rạch gần đó, hết
sức chèo nhanh đi. Khi chiếc ghe đã vượt gần tới
bên kia bờ sông Sài Gòn, một chiếc thuyền từ
phía chợ đang lướt sóng xuống nhìn thấy,
súng đạn trên thuyền từ xa đã bắn như mưa
vào chiếc ghe. Lúc này, anh em đã bỏ ghe
lao xuống sông và cố gắng bơi thiệt nhanh vào bờ.
Chiếc ghe, khi ấy chỉ còn là những mảnh gổ vụn trôi
lênh bềnh trên mặt nước đang tung tóe vì đạn.
Lần này, may mắn cả tổ đều rút lui an toàn.
Một hai hôm sau, như thường lệ, vào lúc mờ
sáng, anh em đã tề tựu đông đủ tại rạp Thanh
Bình mà chờ mãi vẫn không thấy anh Ba đến.
Nghi là có chuyện bất thường, bèn kéo nhau
di chuyển qua điểm khác gần đó, nóng lòng
ngồi lại nghe ngóng tình hình. Đến khoảng 9 giờ
sáng, thì nhận được hung tin rằng anh ba Cù bị bắt
rồi, Tây đang chở anh chạy vòng vùng chợ Thủ,
Phú Cường cho dân coi. Lén ra hòa vào
đám đông, thấy anh bị cột vào phía sau của
chiếc xe bọc thép, hai chân kéo lê dưới đất,
mặt anh chảy máu ròng ròng, chắc là bị
đánh dữ lắm, và cũng chắc là anh không khai,
chứ nếu không thì giờ này cả đám đã
bị bắt cả rồi. Chiếc xe cứ chạy chầm chậm, vừa đọc loa to thông
báo về việc bắt được ông Cù. Sau đó,
nó vòng về hướng chùa Cô Hồn và xử
bắn anh trên một miếng đất trống gần chùa. Địa điểm nay
là khu vực trường trung học Phú Cường, thị xã Thủ
Dầu Một.
Cả tổ buồn bã, lặng lẽ rút đi. Về sau, nghe
ngóng tin tức, biết rằng anh đã rơi vào ổ phục
kích, hình như gần Giếng Máy và bị bắt tại
đó. Số là, anh có một người vợ trẻ rất xinh đẹp
của vùng Chánh Hiệp. Sau đó, cứ bất chợt đôi
ba hôm, anh lại trở về để thăm chị. Thời gian đóng
quân bên kia sông, những khi vắng mặt ban đêm,
có thể anh thường men theo con đường Giếng Máy để về
nhà. Lâu ngày, thành quy luật, chắc
là có người phát hiện được và điềm
báo cho Tây.
Nói thêm về tổ du kích dưới quyền Ba
Cù, sau khi ông bị bắt và tử hình, sợ bị lộ,
họ rời bỏ căn cứ cũ ở cầu Rạch Tra, rút về Hòa
Phú, Củ Chi. Ít lâu sau, tại làng An
Phú (Củ Chi), bên Kháng Chiến có tổ chức xử
tử hình tên Việt gian làm gián điệp cho
Tây, dân chúng và du kích kéo
đến coi rất đông. Đêm đó họ ngủ bên bờ
sông Lu, định sáng sẽ rút về nhà. Mới hừng
đông, bất ngờ, tàu giặc từ phía sông
kéo đến đổ bộ. Khi ấy mới biết đã bị bao vây tứ
phía, mạnh ai nấy chạy tứ tán. Súng đạn Tây
bắn như mưa rào từ sáng tới chiếu, riêng
nhóm tám người có anh du kích trẻ tên
Sĩ lội qua con rạch tới bờ thì bị địch từ trên bắn chết
rạp. Nhờ yếu sức và lội chậm, anh Sĩ là người bơi sau
cùng, khi bảy người kia bị bắn chết, xác đè
lên người anh. Anh nằm yên chịu trận gần cả ngày,
đến chiều tối khi Tây rút, dân làng mới
dám mon men ra tìm, thì anh Sĩ mới được cứu sống.
Tổng cộng có gần 200 người bị giết chết, anh Sĩ là người
sống sót duy nhất trong trận này. Tại đây, về sau
có xây ngôi đền để thờ cúng nạn nhân,
hàng năm đều có tổ chức lễ cúng. Như vậy, tiểu đội
ám sát đến lúc này coi như bị tiêu
diệt, kẻ sống sót duy nhất đến hôm nay chỉ còn
có ông Sĩ, người kể lại những câu chuyện này.
2.Theo lời kể của vợ ông Cù cho tác giả viết
lại vào ngày 25-03-2013, chuyện gia đình ông
Cù như sau: Bà tên là Nguyễn Thị Nết, sanh
năm 1932, tuổi Thân, bà là cháu ngoại của
ông Cả Cự, một điền chủ nổi tiếng giàu có trong
làng. Mẹ mất sớm khi bà mới 3 tuổi, từ nhỏ sống với
ông bà ngoại. Theo lời kể của những người lớn tuổi nay
còn sống, thời thiếu nữ, bà là cô gái
xinh đẹp hàng đầu vùng cầu Trệt, xã Chánh
Hiệp. Khi bà mới vừa là một thiếu nữ, đã có
vài chàng trai ngắm nghía theo đuổi, trong
đó có ông Cù và ông tám
Cạnh. Họ thường lui tới nhà bà, cơm nước, chuyện
trò rất thân mật với gia đình. Ông tám
Cạnh có tật cứ mỗi khi nghe tiếng máy bay ngang qua
nhà thì cầm súng ra ngắm nghía như sắp bắn.
Ông ngoại vừa sợ vừa giận, vì vậy một hôm ông
nói với ba Cù thôi tao gả con Nết cho mày
đó. Ông Cù và bà làm
đám cưới với nhau vào năm 1948, lúc bà mới
16 tuổi, khi ấy bàn tay ông đã bị cụt. Ông
lẩn trốn trong khu vực xung quanh, cứ hai bà hôm
thì bất ngờ lại về thăm bà, một lát sau lại đi.
Khi về thường có hai người cận vệ đi theo. Một vài người
đồng chí của ông nay bà còn nhớ tên
như ông út Lũi, ông hai Qươn, ông Vịnh…Khu vực
xung quanh làng đào rất nhiều hầm trú ẩn của họ,
nay đã lấp lại hết. Tây thường ruồng bố, quyết bắt
ông nhưng không thành công. Mỗi khi có
Tây sắp sửa đi bố, ông thường thông tin cho gia
đình biết trước để đi trốn. Ông có dáng
người tầm thước, hơi xương, tác phong nhanh nhẹn. Ông ăn
nói có duyên, thu hút, khá đào
hoa. Có lần, ông chinh phục được tình cảm của một
người phụ nữ khá xinh đẹp là cô Sáu Gọn,
quê Phú An. Cô này là vợ của tên
Tây Sa Li (ghi âm) ở đồn Chánh Hiệp, không
biết ông nói khéo như thế nào, mà
cô ấy nghe lời dám lấy cắp súng ống bỏ chồng đi
theo ông. Chuyện này thì ông kể cho bà
nghe, không dấu, ngoài ra, ông hoạt đông như
thế nào, đánh giặc ra sao thì bà
không được biết.
Chiều chạng vạng ngày 15-2-1949, ông về gặp gia
đình, dáng điệu khẩn trương. Ông nói với
bà ngoại vợ rằng: “Ngoại mau mang vợ con đi trốn ngay vì
Tây đang vây bắt con, đêm nay sợ tụi nó đi bố,
ở lại nguy hiểm”. Đêm đó, hai bà cháu quấn
khăn rằng, ăn củ trầu, vội vã cải trang thành người
nghèo khổ rách rưới đi ra bến xe để về Sài
Gòn. Mới tờ mờ sáng hôm đó, khi còn ở
bến xe đã nghe người ta loan truyền với nhau tin ông
Cù bị bắt, bà lo buồn nhưng còn bán
tín bán nghi. Khi đó đã là rạng
ngày thứ tư, 19 tháng giêng âm lịch
(ngày 16-2 dương, về sau là ngày làm
đám giỗ của ông Cù). Về Sài Gòn,
bà tá túc nhà của người chị thứ tư. Một hai
hôm sau má chồng xuống Sài Gòn báo
tin, thì bà mới biết chắc rằng quả là chồng
mình đã bị Tây bắt. Khi ấy bà có thai
đã 3-4 tháng, về sau sinh ra, đặt tên cho con trai
là Huỳnh Văn Lân. Cù và Lân, ở đất Thủ
thì chỉ là tên của một con lốt duy nhất được
múa nhiều vào dịp rằm tháng giêng.
Khác với mọi nơi, dân Bình Dương chỉ nói
múa Cù mà không nói múa
Lân. Từ đó trở đi, bà phải lẩn trốn mãi
vì Tây cứ cố theo truy bắt bà, đời sống của
bà, một phụ nữ mất chồng, nuôi con nhỏ, vì vậy phải
chịu đựng rất nhiều gian truân, khổ ải.
Hiện nay, bà Sáu Nết xinh đẹp năm xưa vẫn còn
sống tại phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một.
Bà vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn, vẫn nhớ lại khá
rõ câu chuyện của thưở nào. Khi kể, đôi
lúc bà bẽn lẽn e thẹn, lúc thì có vẻ
ngậm ngùi thương tiếc khôn nguôi người chồng
quá cố đã chẳng may mất sớm vì dân,
vì nước.
Điều bà rất thắc mắc là không biết vì
lý do chi, bà không được chánh quyền địa
phương cấp cho tờ giấy công nhận liệt sĩ của chồng bà.
CHÚ THÍCH:
1. Nguyễn Minh Đức, Lược sử tên đường thị xã Thủ Dầu
Một, 2008, tr. 80.
THAM KHẢO:
1. Phan Đức Nam, tạp chí Tài Hoa Trẻ 378, 2005
2. Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ dầu Một, 1988
3. Nguyễn Minh Đức, Lược sử tên đường thị xã Thủ Dầu
Một, 2008.
4. Sông Bé, lịch sử chiến tranh nhân dân,
nxb. Tổng Hợp Sông Bé, 1990.
5.
http://www.sugia.vn/portfolio/detail/560/huynh-van-cu-nguoi-chi-huy-du-kich.html
6. Nguyễn Mậu Tùng, Lịch thế kỷ XX, nxb. Khoa Học và
Kỹ Thuật, 1983