Đường Quê Ra
Tỉnh
Nguyễn Thanh Bạch
(Canada)
(trao về các bạn hữu quê Bình Dương)
Bé Trí mới được mười tuổi,
nó rất thông minh, lanh lợi, cả gia đình vui với
tiếng cười, giọng nói ngây thơ hồn nhiên không
chút vướng bận ưu phiền. Sáng nay, nó thức dậy
thật sớm, sửa soạn quần áo gọn gàng, đi tới đi lui,
nói cười luôn miệng như con chim đang nhảy nhót
líu lo trên cành. Thỉnh thoảng nó liếc
nhìn cái đồng hồ treo trên tường, rồi liếc
nhìn ba mẹ nó ra vẻ sốt ruột. Nó sợ trể giờ
lên đường đi cắm trại tám tuần với các bạn, chương
trình nầy nó và tôi đã phải tranh đấu
cả tuần, ba mẹ nó mới bằng lòng.
Những đứa trẻ sinh ra và lớn lên
ở các xứ văn minh, đầy đủ tiện nghi, đầy đủ vật chất như Mỹ
và Canada, trong mùa hè, đi nghỉ mát, đi
cắm trại cần thiết như sự ăn uống của các đứa trẻ sống ở
các nước nghèo. Bé Trí như con chim nhỏ bị
nhốt trong lồng suốt mùa đông dài, nó mong
được sổ lồng, được bay lượn trong vòm trời bao la, được tận
hưởng cảnh vật thiên nhiên nơi miền rừng núi.
Tôi mỉm cười vui lây với sự vui sướng hồn nhiên của
tuổi trẻ, tuổi ngây thơ cơm cha áo mẹ công thầy.
Cái tuổi mà tôi, tất cả mọi nguời đã đi qua
và tất cả mọi người đều nuối tiếc.
Dù tuổi trẻ của tôi
không sung sướng, không đầy đủ vật chất như bé
Trí cháu ngoại tôi bây giờ nhưng trái
tim tôi chứa quá đầy tình yêu, yêu cha
mẹ, yêu quê hương, yêu lũy tre làng, bên
dòng suối mát, mội Thầy Thơ thơ mộng, yêu vườn
cây ăn trái, ngọt, bùi, chua, chát đầy đủ
hương vị của quê hương. Ôi! Biết bao kỷ niệm vui buồn, biết
bao thương yêu, biết bao khó nhọc, biết bao công
lao, làm sao kể hết công ơn của thầy mẹ tôi, hai
đấng sanh thành đã suốt đi tận tụy vì đàn
con yêu dấu.
Thầy tôi, khi nhắc đến hai chữ nầy,
lòng buồn rười rượi, cổ nghẹn ngào, hình ảnh người
cha gương mẫu, hiền lành mà tôi luôn gọi
là thầy. Tất cả anh em trong nhà đều gọi bằng ba cũng như
các trẻ trong làng đều gọi cha của mình bằng ba
hay tía. Có lẽ lúc tôi chào đời, cha
tôi đang dạy học ở trường làng của tôi, vì
thế cả làng đều gọi là thầy. Thầy tôi mồ côi
mẹ từ thuở lên ba, ông nội tôi tục huyền, có
thêm một đàn con nheo nhóc. Sau giờ đi học, thầy
tôi lo ruộng rẫy phụ giúp nội tôi, suốt cuộc đời
lúc nào thầy tôi cũng chịu khó, cần mẫn, lấy
chữ tín nghĩa làm đầu. Sẵn sàng giúp đỡ mọi
người, thầy tôi không ham danh lợi bạc tiền, sống một cuộc
đời đạm bạc cho đến khi ông nhắm mắt lìa đời. Cái
kho tàng thầy tôi để lại cho tôi và cả anh em
tôi là tình yêu thương, lòng
nhân ái, ở hiền gặp lành.
Tôi sanh ra và lớn lên
trong làng quê hẻo lánh, dòng máu, bộ
óc non nớt của tôi đã được thầy tôi
đào tạo. Tôi bước từng bước khó khăn từ quê
ra tỉnh, từ một thằng bé đầu cạo trọc, không có một
đôi dép mòn trên đôi chân nhỏ
bé, lặn lội trên năm cây số đường dài, mỗi
ngày hai buổi sáng đi chiều về.
Trời còn lờ mờ sáng, tôi
ôm cặp sách vở và một gói cơm ăn trưa, đứng
chờ để đi theo các bà hàng rong gánh rau
cải ra chợ tỉnh. Hôm nào các bà đi trễ,
tôi hồi hộp lo âu, vì khi qua hết các đường
hẻo lánh, qua hết cái dốc Chín Xướng, dốc
Chánh Thiện, dốc cầu Ông Đành là tôi
phải chạy hết hơi để đến trường cho kịp giờ học.
Tôi sợ nhứt mà cũng thích
nhứt là cái dốc Chánh Thiện. Nó cao thoai
thoải, khi lên dốc không mệt, vừa đi vừa ngắm cảnh. Đứng
trên đầu dốc, tâm hồn thảnh thơi mở rộng tận hưởng
cảnh đồng ruộng bát ngát bao la, vào tháng
mười một, lúa chín vàng cả một chơn trời, chan
hoà với vài tia nắng vàng còn sót
lại trong buổi chiều cuối thu. Buổi sáng bình minh, mặt
trời vừa ló dạng, to và đỏ ửng toả ánh sáng
lung linh, làn gió nhẹ lưót trên ngọn
lúa non xanh mưót, tạo thành một làn
sóng biển bao la trên cánh đồng mênh
mông.
Con suối Giữa quanh co uốn khúc chạy
dọc theo con đường, xuyên qua cánh đồng lúa
phì nhiêu. Suối mang lại cho dân làng một
nguồn nước trong xanh mát lịm, nuôi ruộng lúa xanh
tươi, nuôi cây trái đơm bông kết nụ. Những hạt
cát nhỏ li ti trông như những hạt kim cương, không
biết từ đâu chảy theo dòng nước dưới dốc Chánh
Thiện. Nơi đây con suối nở to ra và sâu, đầy
cát, dân làng thường đến lấy cát về
xây nhà vì thế càng ngày nó
càng sâu rộng, giống như một cái hồ nho nhỏ.
Dân làng thường tới đoạn suối nầy để tắm rửa. Khách
bộ hành cũng thường ghé đó nghỉ chân
vào những buổi trưa chiều mùa hè nóng bức
rửa mặt ướt đẫm mồ hôi. Những bữa đi học về, tôi
thưòng xuống bờ suối, nhẹ nhàng nhúng chân
vào nước, ngồi thả hồn trong cõi xa xăm, tai lắng nghe
tiếng suối róc rách chảy, tiếng suối êm đềm
không tha thiết u buồn như tiếng sáo của Trương Chi,
không cao sang như tiếng dương cầm của nàng tiểu thơ
đài các. Tiếng suối mộc mạc, hồn nhiên như tiếng
reo vui, như tiếng cười khúc khích của những đứa trẻ
trong làng quê hẻo lánh. Ôi! Dòng nước
mát. Ôi! Tiếng suối dịu dàng. Tâm hồn
tôi cũng dịu mát êm đềm như con suối Giữa thân
yêu đã gắn liền với tôi suốt cuộc đi thơ ấu!
Trên đầu dốc Chánh Thiện, cạnh
bên đường, trải dài một nghĩa trang của người Tàu
(gọi là mã Ông Lân), những nấm mồ, cái
thấp cái cao, cái cũ cái mới, cảnh vật u buồn.
Thương thay cái kiếp con người, dầu giàu sang, danh vọng,
khi chết đi cũng bỏ xương ngoài cánh đồng, trơ trọi
cô đơn! Những buổi chiều mưa phùn gió bấc, sấm
sét rền vang, khi đi qua nơi nầy, tôi nín thở chạy
như bay, không bao giờ dám nhìn lại cái
nghĩa địa hoang vu đó.
Cái dốc Ông Đành
thì ác nghiệt hơn, nó cao vòi vọi lại quanh
co rất khó đi, xe xuống dốc rất dễ bị tai nạn. Nhiều người
đã chết nơi đây, thân nhân người chết
đã lập nhiều bàn thờ dưới gốc cây đa già ở
cuối con dốc, hương khói nghi ngút thường xuyên.
Người ta nói có nhiều oan hồn người chết chưa siêu
thoát hay về phá phách nên dân
làng đã cất lên ngôi chùa Đức Sơn ở
trên đầu dốc. Ngôi chùa nhỏ đơn sơ nhưng không
kém phần cổ kính trang nghiêm, chung quanh
chùa có nhiều cây to bóng mát.
Ngôi mộ lâu đời của nhà sư trụ trì đầu
tiên, rêu phủ xanh rì, lỗ chỗ đốm trắng đốm đen
trịnh trọng đứng trước cửa chùa như sẵn sàng mời
đón khách khách thập phương thiện nam tín
nữ đến cúng viếng.
Những ngày lễ, ngày rằm
tôi thường đi theo mẹ tôi lễ Phật. Có một lần mẹ
tôi bịnh nặng, ba tôi phải chở lên chùa để trị
bịnh. Tôi đã ở đó nuôi mẹ tôi mấy tuần
lễ, tiếng chuông chùa ngân dài trong
sáng sớm bình minh hay trong những buổi hoàng
hôn nắng vừa tắt khiến cho lòng tôi thanh thản
vô cùng. Hình ảnh đức Phật từ bi đã khắc
sâu trong trái tim thơ dại của tôi.
Có những buổi chiều đi học về, trời mưa
tầm tã, áo quần ướt nhẹp, tôi giống như con chuột
lột, gió lạnh buốt da, trời vừa tối lại sấm sét
liên hồi, bóng dáng con ma xõa tóc,
con quĩ lưỡi dài hiện ra trước mặt tôi. Hồn phi
phách tán, tôi chỉ còn nước chạy như
điên, may thay gặp chiếc xe bò đang từ từ lăn bánh
tôi xin được quá giang một đoạn đường. Ôi! tôi
vui sướng biết bao, niềm hạnh phúc đã đến với tôi,
lâng lâng như tôi vừa lên được thiên
đàng.
Thiên đàng và địa ngục
cách nhau chẳng xa, một buổi chiều, không biết hồn ma
bóng quế nào đã theo phá tôi. Một
bác chạy xe đạp xuống dốc, đường rộng thênh thang
không chạy lại chạy đâm vào thằng nhỏ lang thang một
mình trên đường vắng, không biết vì
nguyên do nào ông ta lủi vào tôi.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mẹ đang xoa
đầu tôi, nước mắt chảy dài xuống má, mẹ tôi
nghẹn ngào vừa khóc vừa cười, ôm tôi
vào lòng.
Mẹ tôi, người mẹ suốt đi hy sinh
tận tuỵ cho đàn con. Mẹ tôi có tất cả mười một đứa
con trai, tôi là thằng thứ mười, cả nhà cứ tưởng
tôi là út nên tôi rất được cưng chiều.
Mẹ tôi cũng cưng tôi hết mực. Bất ngờ làm sao,
chỉ hơn hai năm sau, mẹ tôi lại sanh thêm một cậu nữa,
lúc đó cả nhà sửa lại gọi tôi là
út lớn, em tôi là út nhỏ. Dầu
tôi không còn là út độc quyền nhưng
tình thương của mẹ dành cho tôi không giảm
tí nào mà lại có phần tăng thêm
vì các anh lớn, thầy tôi đã gởi đi
Sài Gòn học, chỉ còn hai đứa út ở lại với
thầy mẹ thôi.
Tất cả công việc trong nhà, cơm
nưóc, săn sóc đàn con, một mình mẹ
tôi lo liệu. Mẹ tôi còn phụ thầy tôi chăm lo
khu vườn quanh nhà, vườn nhà tôi đầy đũ loại
cây ăn trái, mùa nào cũng có
huê lợi thu vào, vườn rau của mẹ tôi lúc
nào cũng xanh tươi. Mẹ tôi vất vả suốt ngày,
ít khi mẹ nghỉ, tôi chỉ thấy mẹ tôi ngồi, đó
là lúc mẹ tôi vá quấn vá áo
cho chúng tôi. Mẹ tôi vui với vườn cây, vườn
rau cải và sống hạnh phúc bên cạnh chồng con.
Tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi giận dữ, trách
móc thầy tôi hay rầy la chúng tôi, chỉ thấy
mắt mẹ lo âu, đượm buồn khi mẹ nhìn thấy đàn con
thiếu thốn.
Mỗi ngày, mẹ tôi thức dậy
thật sớm chuẩn bị cơm nước cho tôi ăn và dỡ một phần mang
theo ăn trưa. Mẹ tôi rất cẩn thận, thường bà để cơm
vào chiếc mo cau ép lại gói theo một con cá
khô, một miếng thịt nướng xả, một quả trứng luộc với muối
tiêu, vv.. Ngoài ra, tôi còn có
trái cây theo mùa, vú sữa, mận, dâu,
bưởi, nhản, trái trường, vv.. Trái trường, một loại
trái cây rừng, nhỏ bằng ngón tay cái, cở quả
trứng cút, có một loại ngọt và một loại chua,
màu đỏ thẫm đeo lơ lửng từng chùm trên cành
cây, lẫn lộn trong màu lá xanh, trông rất
rõ. Cây trường ở trước nhà tôi rất sai
trái, khi đến mùa, mỗi ngày mẹ tôi
hái một chùm chín đỏ cho tôi mang theo. Đến
khi ở dưới thấp không còn trái nữa, mẹ tôi
ngước nhìn lên cao, hình ảnh mẹ tôi cầm
cây sào dài ngẩng nhìn lên tri
tìm chùm trường chín đỏ cho tôi không
bao giờ phai mờ trong trí của tôi, thời thơ ấu và
cho đến bây giờ.
So với các bạn cùng
trường, tôi là đứa bé được mẹ cưng số
dách. Những bữa trưa, chúng tôi thường bày
cơm ra ăn chung, có đứa chỉ một cục mấm ruốc, một ít nước
mắm kho quẹt, có đứa chỉ vài ba con dế cơm kho
tiêu. Dầu cuộc sống của chúng tôi có phần
thiếu thốn vật chất nhưng tâm hồn chúng tôi thảnh
thơi không vướng bận ưu phiền, không thù hằn, ganh
tị. Chỉ cần một miếng thịt muối xã, một con cá khô
ăn cùng với cơm nguội ép trong mo cau cũng đủ làm
cho chúng tôi sung sướng rồi. Huống chi tôi
còn một tô bún kiểm vào mỗi
ngày rằm.
Mỗi tháng, đến ngày rằm,
tôi không mang cơm theo. Mẹ cho năm cắc, tôi
có thể ra chợ Thủ tìm thức ăn chay. Tôi rất chung
tình, chung thủy, không bao giờ thay đổi gian hàng
cũng như không bao giờ thay đổi món ăn. Mỗi lần
nhìn thấy mặt tôi, bà bán bún kiểm
vui vẻ mỉm cười rất dễ thương. Bà nhanh tay lấy cái
tô bỏ bún vào thật gọn gàng rồi cầm
cái vá nhẹ nhàng quậy qua một lượt trong nồi kiểm,
nưóc cốt dừa trắng trộn lẫn bí đỏ, khoai lang, bún
tàu. Tôi còn thấy vài miếng mướp xanh lẫn
lộn trái táo đỏ nổi lềnh bềnh trên mặt nồi,
trông hấp dẫn vô cùng. Một tô bún kiểm
mỗi ngày rằm ngon lành không thể nào
nói nỗi cũng như không có giấy mực nào diễn
tả được niềm hạnh phúc của tôi đã ghi sâu
trong tiềm thức...
*****
Tuổi trẻ qua nhanh, tôi học xong
bậc tiểu học phải từ giả bà bún kiểm dễ thương, từ
giã con đường làng quen thuộc đầy kỷ niệm, xa lìa
ngôi nhà thân yêu để lên Sài
gòn tiếp tục con đường học vấn.
Ngày đi thi, chính mẹ
tôi đưa tôi đến truờng thi và đứng chờ suốt
ngày để đón tôi về. Trên đường về bằng xe
điện, vì chậm chạp và nhút nhát không
dám chen lấn nên tôi bị rớt lại tại trạm xe điện
Nancy. Tôi chỉ biết đứng khóc hu hu, kêu mẹ; mẹ
tôi đã lên xe trước không trở xuống được vội
nói hét lên :
- Đứng đó chờ má, đừng đi
đâu hết nghe con, khi xe ngừng ở trạm tới má xuống
và sẽ trở lại rước con.
Nước mắt nước mũi tùm lum,
tôi đứng dưới trời nắng như thiêu như đốt, vừa giận
mình chậm chạp, vừa giận cái xe ác ôn chạy
nhanh quá. Bà bán nước mía cạnh đường thấy
tôi như vậy động lòng thương hại bước ra nắm lấy tay
tôi dẫn vào ngồi gần xe nước mía cho đở nắng,
nhìn tôi mỉm cười, nói :
- Nín đi cháu, đừng khóc
nữa, một chút mẹ cháu trở lại, không sao đâu,
con trai mà khóc dở lắm! Con trai phải mạnh dạn, dầu gặp
khó khăn cũng phải cười mới được, nam nhi chi chí
mà lỵ!
Sự thật lúc đó tôi chẳng
hiểu gì. Tại sao con trai không được khóc? Tại
sao nam nhi chi chí? Nhưng tôi bắt đầu suy nghĩ
và nín khóc. Khi lớn lên, từ từ tôi
hiểu, mỗi lần gặp khó khăn tôi lại nhớ đến lời bà
bán nưóc miá để can đảm vượt qua. Mười mấy năm
tù đày, khổ sở, có lúc tôi muốn hủy
bỏ cái thân xác yếu hèn nầy, nước mắt chực
chờ rơi xuống, tôi vội thu hết can đảm lập lại nam nhi chi
chí mà lỵ, nhờ vậy tôi vẫn sống còn cho đến
ngày hôm nay.
Gần nửa giờ sau, mẹ tôi trở lại, mẹ vuốt
tóc tôi, ôm tôi vào lòng. Mẹ
cám ơn bà bán nước mía và mua một ly
nước mía cho hai mẹ con, mẹ tôi chỉ uống một ít rồi
đưa cho tôi. Tôi ực một hơi nửa ly thật ngon lành,
mẹ nhìn tôi mỉm cười, tôi ngước nhìn mẹ
và đưa phần còn lại cho mẹ. Mẹ tôi cũng chỉ nhấp
một tí rồi đưa lại cho tôi, cuối cùng hai mẹ con
chia nhau cục nưóc đá.
Một tháng sau, anh hai về thăm, vui vẻ
báo tin mừng, tôi là một trong năm trò đỗ
đầu vào năm thứ nhứt trường Petrus Ký nên được cấp
học bổng. Thầy mẹ hãnh diện nhìn tôi mỉm cười. Anh
hai đưa ra một đôi giày săng-đan còn mới tinh cho
tôi mang thử. Ôi! Đôi giày đẹp làm sao
là đẹp, thật vừa, thật êm chân, tôi sung sướng
nhảy nhót như thằng bé lên ba được kẹo. Ngày
hôm sau, thầy tôi dẫn tôi ra chợ Thủ hớt tóc
lần đầu tiên, anh hai tôi dẫn lại tiệm may đặt cho hai bộ
đồng phục. Tôi cảm thấy mình lớn ra, đẹp trai ra,
lòng bâng khuâng vui buồn lẫn lộn.
*****
- Thưa ngoại con đi, ngoại ở nhà
đừng buồn nghe ngoại, con sẽ đem quà về cho ngoại nghe.
Bé Trí ôm hôn
tôi và nói líu lo, tôi vội vàng
ôm nó vào lòng:
- Ờ , con đi chơi, phải ngoan, phải nghe
lời người hướng dẫn, phải đi theo đoàn nghe con, đừng bao giờ đi
một mình. Con đi chơi cho vui, ngoại chờ con về đi câu với
ngoại.
Bé Trí chạy nhanh ra cửa,
ba mẹ nó di theo sau, lắc đầu cười. Thằng bé mới
có mười tuổi mà ngon lành thật, đúng
là nam nhi chi chí mà lỵ!
Ngày xưa, khi mẹ tôi đưa
tôi xuống Sài gòn, tôi đã mười ba
tuổi. Khi đưa tiễn mẹ tôi, nước mắt tôi chan hoà,
còn nghe rõ những lời âu yếm của mẹ tôi:
- Con ráng học giỏi để sau nầy nhờ tấm
thân nghe con!
Tôi đứng im lặng lòng
tê tái, nhìn theo chiếc xe đưa mẹ tôi đi cho
đến lúc chiếc xe xa dần, xa dần rồi mất hút trong
đám bụi mờ. Tôi thương mẹ tôi vô cùng,
tôi không muốn xa thầy mẹ tôi, tôi không
muốn xa làng quê nhỏ bé mộc mạc của
tôi. Đường quê ra tỉnh nên nước mắt tuôn
rơi!
Ngày nay, bé Trí từ
thành phố đi về quê, nó cảm thấy sung sướng như con
chim được sổ lồng.
Ôi! Ba thế hệ cách xa vời
vợi!
Nguyễn Thanh Bạch
(Những mãnh đời lưu lạc)