SƠN MÀI ĐỒNG TÂM:
BÀ TÁM HOÀ
CHỮ ĐỨC TRONG NGHỀ NGHIỆP
HOÀNG ANH
Là một tỉnh có truyền thống về sơn
mài, thế nhưng sau năm 1975, cũng như hầu hết các ngành
nghề khác sơn mài rơi dần vào hoàn cảnh khó
khăn ngỡ như sẽ lụi tàn. Chính trong hoàn cảnh đó,
thương hiệu sơn mài Đồng Tâm nổi lên như một ngôi
sao ngày càng sáng để làm lu mờ dần hai chữ Thanh
Lễ lấp lánh thưở nào. Được như vậy, chính là
nhờ tài năng và bản lĩnh của một người phụ nữ mà người
ta quen gọi là chị Tám Hoà.
Tên họ đầy đủ của chị là Nguyễn Thị Hoà,
sinh năm 1943 tại làng Tương Bình Hiệp, trong một gia đình
sống bằng nghề sơn mài giữa một vùng đất nổi danh cả miền Nam
về nghề ấy. Thưở nhỏ chị theo học tại trường trung học Bán Công
Phú Cường (sau đổi tên là trường Bồ Đề), đến hết bằng
đíplôm (tương tự cấp II ngày nay), vì nhà
nghèo chị không thể theo đuổi tiếp việc học nên phải ở
nhà làm nghề phụ giúp gia đình, lúc ấy
chị mới vừa 18 tuổi. Cha đi kháng chiến và hy sinh, mẹ quảy
có mỗi cái gánh đi bán nuôi cả bầy con
tám chín đứa, đời sống hết sức thiếu thốn khó khăn.
Về sau các người anh lớn đi quân dịch, chị ý thức rất
sớm trách nhiệm phải gánh vác chuyện gia đình,
nên chỉ biết chăm chỉ làm việc, ước mong có thể phụ giúp
mẹ đươc phần nào chứ không dám nghĩ chuyện chi xa xăm.
Lúc đầu chị chuyên nghề vẻ, khi ấy tranh cá lia thia
Tàu đang rất thịnh, chị lại tỏ ra có hoa tay trong lãnh
vực này, nhờ đó mà hàng làm không
hết. Nhiều người biết tiếng mời đi vẻ nơi khác nhưng chị đều từ chối
vì liệu bề không đảm đương xuể. Thời gian sau, khi đề
tài cá ba đuôi đã trở nên quen thuộc, chị
chuyển sang vẻ cảnh đồng quê với những cây dừa cong cong, mái
nhà tranh và cô thôn nữ quang gánh qua chiếc
cầu tre lắc lẻo, xa xa là con đò lặng lờ trên bến nước.
Chỉ bấy nhiêu mà khai thác hoài không hết,
nhìn hoài cũng không chán vì nó
gợi nên hình ảnh quê hương nghèo khó nhưng
êm đềm thân thiết của hầu hết người Việt chúng ta. Chị
cũng bắt đầu làm nghề cưa ốc, dần dà, công đoạn nào
trong tranh sơn mài chị cũng đều có lúc làm qua,
chính nhờ thông thạo nghề nghiệp như vậy nên đã
giúp cho chị rất nhiều trong vai trò nhà quản lý
tài năng sau này.
Khi lập gia đình, có thêm bầy con,
chị lại càng miệt mài làm việc và phải hết sức
chắt chiu cần kiệm mới đủ lo toan trong ngoài. Vừa lo cho bầy con
nheo nhóc khóc than vì thiếu người chăm sóc,vưà
vắt cạn tim óc vào tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi
sự tập trung sáng tạo cao độ, đây có lẽ là thời
gian nhọc nhằn nhất trong đời chịä. Lúc đó chị chỉ có
mỗi ước mong là làm sao hàng làm ra bán
được, bạn hàng cũng đừng ép giá hay giam tiền lâu
quá, hai nỗi khổ kinh niên của nghề sơn mài. Hồi đó,
chị chưa bao giờ nghĩ ngợi hay dám mơ những điều quá viễn vông
như có ngày mình sẽ nổi tiếng hay thành đạt trong
thương trường. Thợ sơn mài, hầu hết là nghèo, làm
có cơm ăn là mừng lắm rồi, là may phước lắm rồi, đâu
ai dám mơ chi cao xa chúng bạn biết được sẽ cười.
Mọi việc bất ngờ thay đổi từ sau 1975. Đất nước đổi thay,
xã hội đã không còn như cũ, thì số phận
từng con người, như chị, khó biết trước được điều gì sẽ xảy
ra. Mọi người phải vào làm việc trong một mô hình
mới gọi là tổ hợp tác hay hợp tác xãõ,
một kiểu làm ăn rất xa lạ với dân chúng nơi đây.
Nhiều người bở ngỡ, lo âu, lắm kẻ không thể thích nghi
với cái mới, bỏ nghề hoặc làm ăn thất bại. Đầu năm 1977, chị
được mời tham gia vào tổ hợp tác và thế là tổ
hợp tác sản xuất sơn mài Đồng Tâm ra đời. Được hỏi vì
sao chọn tên Đồng Tâm làm thương hiệu cho mình.
Chị bảo rằng nghề sơn mài tuy không làm cho mình
giàu có nhưng nó cũng đã nuôi được mình
từ bao đời nay, nên không được bỏ nghề, dù có lúc
thịnh lúc suy, phải đồng tâm hiệp lực mà làm,
ráng giữ nghề nghiệp cha ông, cùng nhau phấn đấu chấn
hưng nghề nghiệp thì thế nào rồi cũng thành công.
Chắc có lẽ nhờ lòng yêu nghề tha thiết chị mới có
thể đề ra một phương châm cho nghề nghiệp và một quyết tâm
mạnh mẽ đến thế. Và chính nhờ tinh thần này, chị đã
có thể lèo lái đơn vị sản xuất của mình vượt
qua được những thử thách khó khăn vô vàn để liên
tục phát triển và về sau trở thành doanh nghiệp sơn
mài danh tiếng hàng đầu của tỉnh.
Tổ hợp tác được nâng lên thành
hợp tác xã với khoảng 200 xã viên. Với vai trò
chủ nhiệm, chị nhận được danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quốc vào
năm 1985. Năm sau, đơn vị của chị nâng lên thành xí
nghiệp sơn mài Đồng Tâm, toạ lạc tại một vị trí rất đẹp
tại phường Hiệp Thành, bên đường xa lộ 13.
Từ đây, danh tiếng sơn mài Đồng Tâm
và chị Tám Hoà ngày càng lan xa. Phải
nói rằng trong thời buổi thoái trào khốn khó
của ngành sơn mài, khi mà Thanh Lễ đã trở thành
một tên tuổi trong kỷ niệm, thì sự xuất hiện của hai chữ Đồng
Tâm đã góp phần duy trì danh tiếng cho sơn mài
Bình Dương không gián đoạn. Sơn mài Đồng Tâm
đã như cây trụ chống đở những bảo giông, từ đó
ngành sơn mài Bình Dương đã chịu đựng được sự
thử thách khắc nghiệt của thời gian và những đòi hỏi
gay gắt của quy luật thị trường, làm nền tảng cho sự phát triển
rực rỡ của nhiều cơ sở xí nghiệp sơn mài sau này.
Nhờ danh tiếng đó, chị tạo được sự tín nhiệm
khá lớn ở cả địa phương và trung ương. Năm 1986, chị được nhà
nước cử đi Liên Xô để tìm hiểu lý do vì
sao sơn mài từ miền Bắc xuất sang Liên Xô và các
nước Đông Âu đã không còn giữ được phẩm chất
vốn có, hàng bị cong vênh hay vộp nứt cả ra. Là
con nhà nòi ở một vùng sơn mài lừng danh đã
hàng thế kỷ, không khó để chị biết được nguyên
nhân. Khi về nước, chị lại được đưa đi thăm các cơ sở và
làng nghề sản xuất sơn mài nổi tiếng trên đất Bắc khoảng
2 tuần lễ để truyền đạt kinh nghiệm cho nghệ nhân nơi đây. Là
chiếc nôi sản sinh ra nghề sơn mài cả nước, nhưng sau nhiều
năm không tiếp cận thị trường thế giới, thiếu sự tìm tòi
và cách tân nên vẫn giữ cách làm
theo thời xưa, sử dụng nguyên liệu không đạt yêu cầu và
rút ngắn quy trình làm ra sản phẩm, khiến cho sơn mài
đất Bắc vào giai đoạn đó không thể chịu đựng được những
điều kiện nhiệt độ khác nhau ở nước ngoài. Chị nhiệt tình
giải thích hay trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp với những thợ nghề
đất Bắc, dù chị cũng biết rằng với nghề sơn mài, bí
quyết làm nghề không quan trọng bằng kinh nghiệm và năng
khiếu thẩm mỹ riêng của người nghệ sĩ.
Sau chuyến đi Liên Xô trở về, cơ sở của chị
chuyển thành xí nghiệp quốc doanh vào năm 1986 và
đến năm sau nữa thì nâng lên thành công ty.
Cô thôn nữ yên phận thầm lặng trong một xóm nghèo
ngày nào nay đã ngồi chễm chệ trong cương vị Giám
đốc của một công ty danh tiếng. Hàng năm, chị đều gởi hàng
đi tham dự nhiều cụôc triển lãm trong và ngoài
nước từ Hà Nội đến Đài Loan, Thái Lan, Mã Lai,
Thuỵ Sĩ, Pháp, Anh…và dành được rất nhiều huy chương
và bằng khen, đến nay chị cũng không còn có thể
nhớ hết. Đáng kể là vào năm 92, công ty và
cá nhân chị được nhà nươc trao cho huân chương
Lao Động hạng ba. Hai năm sau, thêm một bất ngờ lớn nữa, chị nhận được
thư thông báo sang Thuyï Sĩ để nhận bằng chứng nhận chất
lượng sản phẩm do tổ chức quản lý chất lượng quốc tế tại Anh trao
tặng. Vào lúc đó chị cũng ngỡ ngàng không
hiểu tại sao, về sau mới biết rằng chính nhờ sự khen ngợi của khách
hàng quốc tế gần xa đối với sản phẩm của công ty, và
sau những kiểm tra giám định hết sức nghiêm nhặt của tổ chức
mới đưa đến quyết định quý giá này.
Cùng nhận được bằng chứng nhận này
ở toàn quốc chỉ có hai đơn vị nữa, một ở Sài Gòn
và một ở Hà Nội. Nhân cơ hội này, chị bèn
khăn gói lên đường một mình làm chuyến Tây
Du Ký mà không có sự hộ giá của các
đệ tử tài năng như Đường Tăng. Đất nước thơ mộng và có
nền văn minh rực rỡ như Thụy Sĩ để lại trong chị nhiều ấn tượng khó
phai. Một thương gia người Aâu châu âm thầm theo dõi
chị và sau đó trở thành đại lý độc quyền cho
chị tại Aâu Châu trong vòng 3 năm. Sau thời gian này
sản phẩm chị được phát hành rộng rãi chứ không
còn giới hạn riêng cho nhà doanh nghiệp đó nữa.
Trươc khi chính thức ký kết hợp đồng làm ăn với nhau,
thương gia nọ yêu cầu chị phải pha được bảy màu theo yêu
cầu mà phải dùng toàn sơn ta chớ không được sử
dụng loại sơn hoá chất nào khác. Không quá
khó đối với chị để đáp ứng được cuộc thử nghiệm này.
Khách hàng quan trọng thứ hai mà
chị gặp phải là một thương gia người Nhật vốn có truyền thống
kinh doanh ngành sơn mài. Sau khi tham quan cơ sở của chị,
người này dặn dò con cháu trong gia đình rằng
nếu có làm ăn ở Việt Nam thì nên tìm đến
sơn mài Đồng Tâm. Khi ông mất, người con theo lời cha
căn dặn tìm sang Việt Nam và đến gặp chị. Với nguyên
liệu của Nhật, sản phẩm làm theo lối Nhật mà đặt hàng
gia công ở nước ngoài thì họ đi nhiều nơi rồi mà
vẫn không thành công, kể cả Trung Hoa.Từ đó ông
này trở thành khách hàng chánh của chị
tại thị trường Nhật cho đến ngày nay. Chị kể có lần họ cử sang
vài chuyên gia và đe, theo một chiếc máy phun
sơn. Họ mời chị hợp tác để cùng nghiên cứu cách
pha sơn ta để sử dụng cho chiếc máy mới này. Sau hơn hai ba
tháng trời thử nghiệm đủ cách mà không thành
công, họ chán nãn kéo nhau ra về, để lại chiếc
máy và căn dặn chị thử một mình tiếp tục xem sao. Điều
bất ngờ cho họ là chỉ một tháng sau chị đã gởi thư sang
Nhật thông báo rằng chị đã thành công. Sau
vài trao đổi nữa, một cam kết được thiết lập, chị sẽ sản xuất cho
họ một số lượng sản phẩm trong vòng mấy năm cho đến khi đủ 400.000
sản phẩm thì họ sẽ biếu không chị chiếc máy trị giá
125.000 đô la. Hiện nay, nhờ sở hữu chiếc máy phun sơn này
mà năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm công ty gia tăng
rất đáng kể. Đó là một thành tích, vừa
là kỹ niệm đẹp khó quên trong nghề nghiệp của chị.
Cũng trong thời gian này (khoảng 88, 89), chị được
mời đi giảng dạy về quản trị xí nghiệp cho học viên tại trường
Hành Chánh Gia Định. Tôi hỏi rằng chưa từng qua đào
tạo, vậy chị dựa vào giáo trình gì để giảng dạy.
Chị trả lời rằng chị chỉ có kinh nghiệm và vốn sống thực tế
mà thôi. Thế nên đứng trên bục giảng, chị vừa âu
lo, vừa bùi ngùi xúc động. Chị không ngờ cô
gái quê nghèo lam lũ cặm cụi làm việc đầu tắt
mặt tối giờ đây có thể nối tiếp một giấc mơ dang dở của ngày
xưa. Công việc này kéo dài được ba năm, là
khoảng thời gian rất hạnh phúc của chị.
Đến năm 1998, công ty sơn mài quốc doanh
Đồng Tâm giải thể trước những biến đổi sâu sắc của nền kinh tế
đất nước theo một chiều hướng mới. Chị dựng lên một cơ sở riêng
ở phường Hiệp Thành. Với gần 300 công nhân, làm
ra gần 300.000 sản phẩm một năm mới đủ cung ứng cho riêng thị trường
ở Nhật. Ngoài ra là thị trường ở Âu châu. Mỗi khi
nhận hợp đồng, phải ba đến bốn tháng sau mới có hàng
giao, chị chủ trương thà là chậm nhưng luôn đảm bảo được
chất lượng và giữ uy tín đúng hẹn vơi khách.
Hiện nay bốn người con của chị đều đã trưởng thành và
được ăn học đến nơi đến chốn, có người còn đi đào tạo
ở nước ngoài. Tất cả giờ đây đều phụ mẹ tham gia quản lý
công ty, mỗi người một việc. Chị đóng vai trò của một
Thái Thượng Hoàng như vua chúa đời xưa, tuy nhường ngôi
cho con nhưng vẫn theo doĩ sát sao công việc, kịp thời tư vấn
hay chỉ đạo cho các con. Chị từng có dự định phát triển
thêm cơ sở sản xuất để đủ sức cung ứng cho nhiều thị trường nữa nhưng
rất tiếc ba bốn miếng đất của chị đã mua đều nằm trong diện huy hoạch.
Khá thất vọng, chị đành yên phận với vuông đất
gần 6000 m2 hiện nay, có bao nhiêu làm bấy nhiêu,
theo đúng tinh thần của chị, mà lòng khá buồn
vì nguyện ước phát huy và góp phần làm
vẻ vang ngành nghề tại quê nhà đã không
thực hiện được. Chị đã lớn tuổi rồi, sau hơn nữa thế kỷ gắn bó
với bao mồ hôi nước mắt và vinh quang với nghề, có lẽ
đã đến lúc để dừng chân. Những hoài bảo của chị,
có lẽ sẽ chờ sự tiếp nối của thế hệ đời sau. Chị cũng khá vui
khi kể với chúng tôi rằng, trong gia đình của chị hiện
nay có đến cả trăm người đang tiếp tục sống bằng nghề này.
Ở tỉnh Bình Dương, nói đến sơn mài, nhắc đến cả
trăm cơ sở làm nghề thuộc dòng họ của chị người ta đều bày
tỏ sự thán phục.
Được hỏi bí quyết thành công của chị
là gì, chị bảo rằng cần phải có chữ Đức. Không
làm hàng gian dối, cẩu thả là không phản bội sản
phẩm nghệ thuật mình đã tạo ra, không làm mất
lòng tin của khách hàng. Ngoài ra, đồng nghiệp
với nhau, kể cả với người cộng tác, nên ăn ở cho có tình
có nghĩa. Thỉnh thoảng gặp lại những người thợ cũ, nay ra làm
ăn riêng có người chị cũng không còn nhớ rõ
nhưng khi họ đến chào hỏi và tỏ vẻ mừng rỡ, chị cảm thấy rất
vui và như tìm được một niềm an ủi quí báo. Nó
giúp cho chị biết rằng chị đã đối xử với mọi người không
đến đỗi nào, và đến nay, đó vẫn là một trong
những niềm vui lớn nhất của chị.
Bên con đường Phạm Ngọc Thạch vào bệnh viện
512 giường của tỉnh, khách đi đường lại nhìn thấy tấm bảng
đề hai chữ sơn mài Đồng Tâm tuy giản dị nhưng không kém
phần kiêu hảnh. Sự kiêu hảnh của một doanh nghiệp đã trãi
qua những khó khăn thử thách khắc nghiệt nhất của đất nước
trong một giai đoạn phát triển kinh tế nhiều biến động phức tạp mà
vẫn trụ vững và tồn tại, góp phần gìn giữ niềm tự hào
chung của người dân nơi đây về một ngành nghề của cha
ông đã đổ mồ hôi tạo dựng trên mảnh đất này,
từ ngày đi mở cõi năm xưa…Đồng thời vẫn kín đáo
nhắc nhỡ những người thợ vẫn đang cặm cụi âm thầm sáng tạo nên
những sản phẩm mỹ thuật độc đáo tại địa phương rằng, dù thịnh
dù suy, có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít,
phải đồng tâm mà kiên trinh với nghề, không chạy
theo lợi nhuận mà làm giảm chất lượng sản phẩm, làm
thế thì lớp con cháu ngày nay sẽ đắc tội với các
bậc tiền bối hồi xưa nhiều, nhiều lắm.
Người đã chẳng phụ nghề, thì nghề lại có
thể phụ người hay sao? Đồng Tâm, nghĩa là cùng đồng lòng
mà vững tin như thế.