Đông Du Express
Nguyễn văn Diệp
Gọi là Đông Du để nói về chuyến du lịch miền
Đông Hoa Kỳ, phỏng theo ý của chữ Tây Du Ký
ngày xưa. Còn Express là vì chỉ vỏn vẹn
trong vòng tám ngày nghỉ mà chúng
tôi, đã đi qua đến năm sáu tiểu bang của nước Mỹ.
Tiếng là tham quan, du lịch…thật ra chỉ là “cưỡi ngựa xem
hoa” mà thôi, chứ làm sao chỉ với bấy nhiêu
thời gian mà có thể thưởng thức được hết ngần ấy những di
tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh, và những
công trình kiến trúc hiện đại nhất nhì thế
giới ở những nơi ấy.
Số là vào đầu mùa hè vừa qua, nhân cơ
hội đi dự đám cưới một đứa cháu vợ, chúng
tôi, gồm hai vợ chồng và ba đứa con đã quyết định
làm một chuyến du hành qua miền Đông nước Mỹ. Hơn
mười hai năm kể từ ngày qua Mỹ, rồi định cư luôn tại
California, chúng tôi vẫn hằng ao ước sẽ có một
ngày được cùng nhau du lịch miền Đông Hoa Kỳ để vừa
có dịp thăm viếng người thân, lại vừa có cơ hội
tham quan cho biết sự tình. Để tiết kiệm được càng nhiều
càng tốt, chúng tôi đã ra sức chuẩn bị thật
kỹ, thật chi tiết. Và công cuộc chuẩn bị bắt đầu ngay sau
đó bằng nhiều lần vào Internet “sượt tới sượt lui” sao
cho tất cả mọi dịch vụ mà chúng tôi sắp cần đến,
phải được deal trước khi đi với giá rẻ nhất. Cuối cùng
chúng tôi đã có trong tay tất cả những
gì muốn có.
Ngày N: Khởi hành lúc 12:00 PM từ phi trường
Ontario, khoảng 30 phút lái xe từ Orange County,
chúng tôi được một máy bay Boeing của hãng
Northwest chở đến một phi trường trung chuyển nằm ở miền Bắc nước Mỹ,
thành phố Minneapolis, thuộc tiểu bang Minneasota. Tại
đây, sau khi nghỉ tạm chừng một tiếng đồng hồ, chúng
tôi được một máy bay phản lực nhỏ hơn cũng của hãng
Northwest chở về phi trường Norfolk, Virginia Beach. Sau đó
thì được thân nhân chở về thành phố Yorktown,
cách đấy khoảng vài mươi phút lái xe.
Chuyến đi từ Tây qua Đông nước Mỹ, cộng với một ít
thời gian chờ đợi tại các phi trường, đã chiếm hết một
ngày đường quí báu của chúng tôi. Tuy
vậy mọi người đều thấy vui và khoẻ, vì ngay khi rời khỏi
phi trường Norfolk, cảnh quan trước mắt đã làm tất cả
chúng tôi thích thú. Khác với
các xa lộ mà hai bên rất là trống trải ở
Cali, các xa lộ ở miền Đông thường có những
hàng cây rợp bóng hai bên đường, ngay cả
khoảng giữa ngăn đôi hai bên xa lộ cũng đầy cây cao
bóng mát, nhiều nhất vẫn là thông các
loại. Xa lộ 64 đưa chúng tôi về nhà vợ chồng
cô ấy có đoạn đi ngang qua Vịnh Chesapeake dài đến
mấy dặm đường, được xây thành đường hầm (tunnel) chạy dưới
lòng biển, hai bên có vách đá rất
kiên cố, phía trên tàu bè qua lại,
phía dưới xe chạy thênh thang và êm ru như
đang đi trên đường, rất độc đáo. Được biết ở miền
Đông nầy có rất nhiều xa lộ xuyên biển như thế, nhất
là tại New York, nơi chằng chịt sông ngòi và
biển cả. Đến Yorktown, thành phố đã vào đêm.
Dù vậy, dưới ánh đèn đường, tôi vẫn
có thể nhận ra được lối kiến trúc theo kiểu Tây
phương của nhà cửa ở đây, với mái nhà nhọn,
thềm nhà cao, cửa sổ nhỏ cánh hình cánh
cung và đặc biệt là hình như nhà nào
cũng có tầng hầm (basement). Thành phố nầy có rất
ít người Việt sinh sống.
Ngày N+1: Ngay từ sáng sớm, cả đại gia đình
cháu vợ tôi phải thu xếp để lên xe trực chỉ về Fall
Church, Virginia vì tiệc cưới sẽ tổ chức tối nay tại một
nhà hàng Tàu ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn,
sát bên thành phố nầy. Fall Church là nơi
tập trung nhiều người Việt nhất sinh sống ở miền Đông Hoa Kỳ. Tại
đây, đồng hương chúng ta sinh hoạt nhộn nhịp trong
các khu Thương Mại Việt Nam, nổi bật nhất là tại khu
Thương xá Eden. Nhà hàng Tàu mà
chúng tôi nói trên, nằm sát
dòng sông Patomac, huyết mạch chính của Thủ
Đô Hoa Thịnh Đốn. Tiệc cưới đêm ấy thật đông vui
và tươm tất đâu vào đấy. Sui gia của cháu vợ
tôi đã vượt mấy nghìn cây số từ Australia qua
đây để cưới vợ cho con trai của mình. Thế mới gọi
là “tình không biên giới” chứ. Tan tiệc, cả
nhà tôi kéo nhau về chiếm hết tầng hầm của gia
đình anh chị vợ tôi ở thành phố Fairfax,
cách nhà hàng không bao xa.
Ngày N+2: Năm người chúng tôi và hai anh chị
ấy, tất cả vừa đủ chất lên chiếc xe van hướng về thành phố
Lancaster thuộc tiểu bang Pensylvania. Trên đường đi,
chúng tôi dừng xe ở Baltimore, thuộc tiểu bang Maryland,
vài mươi phút để giải lao. Một vài tiếng đồng hồ
sau đó chúng tôi đến nơi. Nhà vợ chồng
cô em họ chúng tôi nằm trong một khu phố nhỏ, mới
trông qua tưởng như đang đi lạc vào một thành phố
cổ nào đó ở Âu Châu (chỉ thấy trong phim ảnh
thôi!). Nhà cửa không lớn lắm nhưng rất cao
ráo và đẹp đẽ, phố xá nho nhỏ xinh xinh như trong
các phim cao bồi, khách bộ hành đâu chẳng
thấy, xe cộ cũng không có mấy chiếc lưu thông,
đúng là một miền quê tĩnh lặng
Thành phố nầy có một điểm đặc biệt vì là
một trong những thành phố hiếm hoi còn sót lại
trên nước Mỹ, có một cộng đồng người Amish sinh sống.
Tôi nghe nói, tổ tiên họ là những Dutch
(Hoà Lan) đã di cư đến thành phố nầy rồi định cư
luôn tại đây từ khi Hoa Kỳ còn là mười ba
thuộc địa đầu tiên của Hoàng gia Anh. Họ đã đến
đây vì lý tưởng tự do tôn giáo. Họ
có một cuộc sống hoàn toàn khép kín
với thế giới bên ngoài. Họ có trường học,
nhà thương, chợ búa và giáo đường
riêng. Họ không sử dụng bất cứ một phương tiện khoa học
nào của thế giới văn minh. Họ tự tìm gỗ cất nhà,
tự may dệt lấy mà mặc. Họ không dùng xe hơi bao
giờ. Họ tự chế xe không có bàn đạp mà
dùng bàn chân để khởi động chiếc xe. Họ cũng
không dùng đến truyền hình, radio hay microwave,
bếp gas, bếp điện. Họ sống giản dị, đạo đức, thật thà trong niềm
tin vào các đấng thiêng liêng dưới sự
lãnh đạo của một vị tộc trưởng. Họ sống bằng nghề nông
nhưng không sử dụng máy cày máy kéo,
không xài phân hoá học bón cây,
không dùng thức ăn gia súc bán sẵn ở chợ để
chăn nuôi. Cuối tuần họ luân phiên đến nhà của
nhau để cùng cầu nguyện và vui chơi. Họ không uống
rượu ngày Chúa nhật, khiến cho cả thành phố
Lancaster cấm bán rượu ngày đó luôn.
Ngày N+3: Sau một ngày và đêm vui chơi thoả
thích với gia đình cô em, chúng tôi từ
giã rồi lên xe hướng về Philadelphia. Nội trong buổi
sáng sớm hôm ấy, chúng tôi đã
có mặt tại cố đô nầy. Vì là thủ đô đầu
tiên của nước Mỹ, nên có quá nhiều các
di tích lịch sử để xem. Thì giờ eo hẹp, chúng
tôi chỉ kịp xếp hàng vào xem hai địa điểm
đáng lưu ý nhất: một là nơi đặt Liberty Bell
(Chuông Tự Do) và hai là Independence Hall. Liberty
Bell không biết có từ bao giờ, và tôi cũng
không có thì giờ tìm hiểu để biết nó
đã được đem đặt tại đây từ hồi nào. Điều tôi
được biết là người ta chỉ dóng chuông lên khi
có những sự kiện chính trị quan trọng xảy ra trong
thành phố hay trong cả phạm vi quốc gia. Chuông
không to lắm, cũng không phải được đúc bởi hợp chất
gì đặc biệt, nhưng giá trị lịch sử của nó rất cao
vì ngoài mục đích nói trên,
Chuông Tự Do còn được xem như là một biểu tượng cho
lý tưởng tự do của Hoa Kỳ, trong khi hầu hết phần còn lại
của thế giới thời đó còn chìm đắm trong các
chế độ quân chủ phong kiến hoặc độc tài. Chuông Tự
Do đã từng có một lằn nứt trước đây và
đã được hàn lại. Hiện đang có một lằn nứt
khác khá to trên chuông, nhưng người ta muốn
để vậy như một bảo tàng vật chứ không muốn hàn lại
nữa. Có người bảo hai lần chuông nứt đã ngẫu
nhiên xảy ra trùng hợp với hai thời điểm bắt đầu hai cuộc
thế chiến thứ nhất và thứ hai. Hư thực ra sao, tôi
không được rõ.
Còn Independence Hall, nơi mà Bản Tuyên Ngôn
Độc lập đã được long trọng công bố trước thế giới
và toàn dân Mỹ, nhờ đó mà 13 thuộc
địa đầu tiên của Anh Cát Lợi trở thành Hiệp Chủng
Quốc Hoa Kỳ. Toà nhà lịch sử nầy rất hoành
tráng, nằm chễm chệ ngay trong lòng thành phố, rất
gần với chỗ đặt Chuông Tự Do. Bên trong toà
nhà luôn luôn có vài lính
gác mặc quân phục thời kháng chiến chống Anh bồng
súng trường qua qua lại lại trông rất đẹp và oai.
Tại đây còn lưu lại đầy đủ những hình ảnh và
các đồ vật xưa quí liên quan đến Bản Tuyên
Ngôn Độc lập nói trên.
Đến buổi trưa khi mọi người đã đói bụng, ông anh
cột chèo người Mỹ của tôi nói: “Chúng ta
phải rán tìm cho được món Philly Cheese Steak
Sandwish ăn mới ngon vì đây là món ăn nổi
tiếng nhứt vùng nầy”.Quả không sai, món sandwich
nầy thơm ngon vô cùng, nhưng phải ăn nóng. Steak
bầm nhuyễn trộn lẫn với cheese thật dẻo, thêm một ít nấm
tươi, củ hành và ớt xanh. Tất cả được kẹp trong 2
lát bánh mì nóng hổi. Buồn ngủ gặp chiếu
manh, đang đói ăn vào thật hết ý! Sau khi ăn lunch
xong, chúng tôi lên xe hướng về New York. Vài
giờ sau chúng tôi đã có mặt tại cổng
vào thành phố. Cổng vào là một đường hầm
mang tên Lincoln Tunnel rất dài băng ngang qua dòng
sông Hudson to lớn như biển. Đường hầm đầy nghẹt xe cộ,
nhích mãi mới ra được phía đầu kia. Đến đầu kia
cũng chẳng hơn gì,lại nhích mãi mới về đến
khách sạn. Sau buổi ăn tối ở nhà hàng Thái
kế bên khách sạn, tất cả mọi người đi tắm rửa nghỉ ngơi.
Riêng tôi và đứa con rễ vẫn còn có
nhiệm vụ thăm hỏi tìm thêm tin tức để phác thảo
chương trình cho chuyến đi chơi ngày mai, sao cho, chỉ
trong một ngày một đêm, những nơi đáng quan
tâm nhất phải đến cho được. Bởi lẻ ai cũng biết là cơ hội
trở lại đây là rất hiếm.
Ngày N+4: Sáng dậy, sau khi điểm tâm dằn bụng xong,
chúng tôi kéo nhau xuống đường hầm ngay trước cửa
khách sạn, mua vé trọn ngày (daily ticket) của hệ
thống xe điện New York, rồi bắt đầu đi thăm trạm thứ nhất: Statue of
Liberty. Nhưng trước hết hãy nói sơ qua về hệ thống xe
điện (metro) nầy. New York là một trong ba thành phố
đông dân nhất nước Mỹ, cũng là một thành phố
nổi tiếng về nạn kẹt xe. Vì thế hệ thống metro ở đây giữ
vai trò chủ chốt trong lưu thông công cộng. Theo một
bản thống kê mới thực hiện gần đây, vào lúc
New York bị mất điện bất ngờ, thì có từ bảy đến
tám triệu người sử dụng metro mỗi ngày để di chuyển trong
thành phố. Chúng tôi thật quá ngạc
nhiên về sự tiện lợi, rẻ tiền và cực nhanh của phương tiện
nầy. Từ khu Central Park đến khu Manhattan, mà cực Nam là
bến phà đi Liberty Island, metro chạy không đến nửa giờ
đồng hồ, trong khi nếu lái xe phải mất đến nhiều giờ vì
kẹt xe hơn là vì quá xa.
Sau khi lấy vé lên phà, chúng tôi được
vận chuyển ra một đảo nhỏ tên Liberty Island, nơi đặt Tượng Nữ
Thần Tự Do. Đảo không xa đất liền bao nhiêu vì
phà chạy không bao lâu đã đến. Từ
ngoài biển nhìn vào đất liền, chúng
tôi thấy choáng ngợp với vô số những cao ốc ngổn
ngang trong thành phố. Phản chiếu trên làn nước
biển xanh rờn, New York như một bức tranh thuỷ mạc thật lộng lẫy. Gần
đến bờ, có một chiếc tàu nhỏ mang dòng chữ US
Coast Guard xuất hiện chạy sát chiếc phà, dường như để
xác nhận lần cuối trước khi cho phà cặp bến. Rồi chiếc
phà nhẹ nhàng cặp bến. Sau khi xem bản đồ hướng dẫn,
chúng tôi tiến về phía bức tượng. Một màu
xanh lục che phủ bức tượng đồng to tướng, đứng hiên ngang giữa
đại dương, tạo cho du khách một cảm xúc dạt dào
khó tả khi lần đầu tiên được nhìn tận mắt, rồi để
lại tâm hồn họ một ấn tượng khó quên. Được biết
màu xanh ấy chính là lớp hoen rỉ do hơi nước biển
tạo thành, dù vậy, vẫn không làm hại bao
nhiêu cho bức tượng. Du khách lũ lượt đi, đứng, nằm, ngồi
đủ thế dưới chân tượng để chụp hình hay quay phim.
Tôi không để ý bức tượng cao bao nhiêu, nhưng
thấy mọi người đều phải ngẩng đầu lên thật cao nếu muốn xem hết
bức tượng. Hiện nay vì lý do an ninh, người ta tạm ngưng
cho du khách vào tham quan phía bên trong
bức tượng. Tôi từ giã Nữ Thần Tự Do với một cảm
giác bâng khuâng nửa vui nửa buồn. Vui vì
mình và gia đình đã may mắn đến được bến bờ
tự do, để hôm nay được nhìn thấy tận mắt Nữ Thần Tự Do.
Buồn vì nghĩ đến còn biết bao nhiêu người
trên thế giới nầy, kém may mắn hơn mình, vẫn
còn phải lặn hụp trong vũng lầy của phong kiến, của quân
phiệt, của độc tài và tư do dân chủ giả hiệu.
Rời Statue of Liberty, chúng tôi được phà chở trả
về đất liền. Ngay sau đó chúng tôi lại dùng
metro đi về khu Chinatown. Đây là một Trung tâm
Thương mãi cực kỳ sầm uất của người Hoa ở New York. Họ
bày hàng ra tận lề đường để buôn bán,
giá rất rẻ mà chất lượng cũng rất “bèo”, thế
nên chúng tôi chẳng mua sắm gì cả, chỉ tham
quan cho biết sự tình thôi. Đến xế trưa, tôi chợt
nghĩ: “Đã đến phố Tàu sao không thử vịt Bắc kinh?”.
Cả nhà đồng ý. Ăn xong chúng tôi lại lấy
metro đi thăm toà nhà cao nhất nước Mỹ hiện nay, mang
tên Empire State Building and Skyride. Toà nhà nầy,
Chinatown, khu Times Square và World Trade Center, những nơi
chúng tôi sẽ đến sau đây, đều toạ lạc trong khu
Manhattan, phía Nam của Central Park. Đây nầy là
khu thương mại nổi tiếng nhất thế giới. Trở lại với Empire State
Building, toà nhà chọc trời nầy nằm trên một con
đường khá nhỏ nhưng đầy nghẹt người qua lại, và là
nơi làm việc của nhiều cơ quan chính phủ, cũng như một số
business lớn của tư nhân. Điểm đặc biệt là toà
nhà có một cột thu lôi cao chót vót
trên đỉnh nóc, giống như tên gọi Skyride vậy.
Từ Empire Building nhìn quanh, chúng tôi thấy
có một bảng quảng cáo rất to: “The World Largest Macy”.
Không bỏ lở cơ hội, chúng tôi đến đấy ngay, hy vọng
tiệm to chắc giá hạ. Nhưng chúng tôi đã thất
vọng, vì dường như người ta đã tính luôn
giá thuê building to đắt tiền nầy vào trong
giá hàng hoá, rốt cuộc chúng tôi
chẳng ai mua được gì. Ngay cả tiệm Gap khổng lồ gần đó
cũng thế. Hơi thất vọng về việc mua sắm tại vùng Nữu Ước nầy,
chúng tôi lấy metro đi thăm World Trade Center để xem sau
vụ khủng bố 11 tháng 9 nơi nầy ra sao. Chỉ còn là
một bãi đất trống có rào dây kẽm chung quanh
mà thôi, vì thế mới có tên mới
là Ground Zero.
Tuổi già sức yếu mà đi quá nên ngất ngư,
chúng tôi quay về lại khách sạn tắm rửa nghỉ ngơi,
đợi đến tối sẽ hay, vì còn ít nhất là một
nơi cần tham quan nữa. Và rồi khi màn đêm bắt đầu
buông xuống, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành
trình bằng metro. Nhưng các con tôi muốn lo cho bao
tử trước đã. Tôi hỏi ý kiến ông anh cột
chèo. Anh ấy bảo: “Đến Philadelphia thì ăn Philly Cheese
Steak Sandwish, còn đến New York thì phải ăn New York
Corned Beef Sandwish”. Tôi hỏi: “Thế còn New York Steak
thì sao?” Anh ấy nói: “Đó chỉ là thịt
bò cắt theo kiểu dân New York hay dùng, chứ
không phải nấu theo kiểu New York”. Rốt cuộc chúng
tôi đành phải tạm dùng Italian Pizza tại một tiệm
ăn Ý trong khu Times Square vì xứ lạ quê người,
tìm mãi không ra, thôi thì bạ
đâu ăn đó cho xong đặng còn đi chơi tiếp.
Lòng vòng hoài không nên, đường phố
New York ban đêm nghe nói nguy hiểm lắm.
Dùng dinner xong, chúng tôi ra phố hoà nhập
vào dòng người đang tấp nập qua lại. Người đâu
mà đông đến thế. Điểm tập trung đông đảo người nhất
là mặt tiền của hai toà nhà buôn bán
Thị trường Chứng khoán Nasdaq và Dow Jones. Đặc biệt
phía trước và trên lầu của Nasdaq có một
màn ảnh điện tử thật to trình chiếu thường trực cho
công chúng xem mọi loại tin tức mới nhất đang xảy ra
trên toàn thế giới. Đó cũng là nơi mà
mỗi đầu năm Dương lịch Macy tổ chức New Year Parade và vẫn được
trực tiếp truyền hình.Về đêm, nơi đây rực rỡ
và lấp lánh với hàng triệu bóng đèn
các loại, trông hấp dẫn làm sao!
Còn nhiều nơi đáng xem nữa, chẳng hạn như Financial
Building, hay Trung Tâm Central Park, Madison Square v.v… nhưng
không có nhiều thời gian nên chúng tôi
đành lưu luyến chia tay New York. Nếu như đồng tiền bao giờ cũng
có hai mặt, thì bên cạnh cái vẽ hào
nhoáng đến phát khiếp ấy, New York cũng bộc lộ một số
những điểm khá tiêu cực. Chẳng hạn, khi băng qua đường,
khách bộ hành New York không cần biết có đến
lượt mình chưa, cứ nhào đại xuống đường mà băng
qua vì chẳng xe nào dám cán. Đúng
vậy, ai muốn phiền phức làm gì, thôi đành
nhường đường cho họ qua cho rồi. Đến nỗi có người đã
nói đùa thế nầy: “New York cái gì cũng tốt,
trừ New Yorker”.Tôi nghĩ chắc tại mấy ông Mỹ trắng
thích nói đùa như vậy vì nơi đây
có quá nhiều người da đen và những khu vực như
Brooklyn, Harlem, hay Central Park về đêm, đã từng nổi
tiếng là xã hội đen. Riêng tôi, tôi
chưa có nhận xét gì rõ rệt, vì
đã có đến hai lần chúng tôi bị lạc đường khi
đi metro lần đầu tiên trong đời, cả hai lần đều được các
bạn người da đen tận tình giúp đỡ đến nơi đến chốn. Xin
một lần nữa cảm ơn các bạn.
Ngày N + 5 Sau một ngày thật dài xuôi ngược
từ Khu Central xuống tận cùng phía nam bán đảo
Manhattan, cả nhà chúng tôi đều chìm đắm
trong giấc ngủ xa nhà. Dù vậy, sáng sớm hôm
sau, mọi người cũng rán đánh thức nhau dậy để sẵn
sàng cho một chuyến viễn du khác.
Lái xe trở lại đường hầm Lincoln, cửa ngõ ra vào
New York, với bao nỗi niềm quyến luyến vì chưa thưởng thức được
bao nhiêu di tích lịch sử cũng như những công
trình cực kỳ hiện đại của thành phố nầy, thì
đã vội chia tay, hỏi ai không bàng hoàng lưu
luyến? Trời bỗng nhiên nổi cơn mưa nhe,ỉ làm tôi
chợt nhớ đến mấy câu thơ trong bài thơ Paris của thi sĩ
Nguyên Sa:
Mai tôi ra đi chắc trời mưa
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào rồi cũng phải xa nhau...
Lấy Freeway 95 South đi một lúc rồi rẻ qua Toll road Garden
State Parkway trực chỉ Atlantic City thuộc tiểu bang New Jersey. Chỉ
vài giờ sau, chúng tôi đã có mặt tại
một casino lớn nhất miền đông Hoa Kỳ. Casino Atlantic toạ
lạc ngay bên bờ biển Đại Tây Dương, ở một vị trí rất
hữu tình, rộng rãi và thoáng
mát, hoàn toàn khác hẳn với
vùng sa mạc khô cằn Las Vegas. Đến đây, ai
không thích chơi bài có thể đi dạo bờ biển
hóng gió hay ngắm nhìn bikini đủ màu đủ
kiểu đang tung tăng ngoài bãi cát trắng
xoá, hoặc nhảy xuống tắm luôn cũng được vì nước
biển ở đây ấm chứ không lạnh như nước biển California. Số
lượng casino ở đây không nhiều như ở Las Vegas, cái
nầy cách cái kia khá xa, có thể dùng
xe di chuyển dễ dàng. Ở đây còn một điều
khác biệt với Las Vegas nữa, là không thấy mấy tấm
quảng cáo (flyer) bậy bạ tung toé đầy đường. Tôi
nghĩ chắc Tiểu bang New Yersey không công nhận cái
nghề không vốn xưa như trái đất ấy như ở Nevada. Tuy
có khác nhau về môi trường, nhưng mọi thứ
khác thì hầu như giống nhau. Cũng có mặt
các “đại gia” như Harrah, Ceasar, Tropicana Casino v.v... của
Las Vegas tại đây. Cũng đầy đủ mấy “món ăn chơi” như
máy kéo, poker, black jack, roulette v.v. Cũng đầy
dãy những “con nhạc lạc bầy” mặt mày buồn hiu, tay
xách lon tiền thua gần sạch, cố đi tìm một bàn
đánh bạc hoặc máy kéo khác xem may ra
có hên hơn không.
Nhưng làm sao có được! Nếu ai đã từng đọc qua
quyển sách “Las Vegas, Địa ngục rực rỡ” của tác giả Mai
Lộc (?) chắc đã thấu hiểu điều nầy. Theo tác giả, trong
các môn chơi bài, kéo máy là
môn chơi có tỉ lệ thua cao nhất vì dàn
máy kéo của các casino đã được lắp đặt sẵn
một hệ thống computer để điều chỉnh ăn thua, lại còn được
các nhân viên kiểm toán định kỳ kiểm tra hằng
giờ đề phòng bất trắc. Người làm sao thắng nổi
máy. Cũng theo ông, nếu biết rành rỏi cách
chơi, thì black jack hay xì dách là
môn chơi có tỉ lệ thắng tương đối nhiều hơn mấy môn
khác. Tuy vậy, người thắng cuối cùng vẫn là chủ
chứa, tức casino dealer. Theo luật chơi, nhà cái (dealer)
được quyền ăn nhà con ngay khi nhà con kéo
bài bị quắt (trên 21) mà không cần
trình làng bài của mình. Trong môn
black jack Mỹ, đặc biệt là ở Las Vegas, bài của
nhà con luôn luôn lật ngửa dù muốn kéo
nữa hay không, còn bài của nhà cái
thì úp một con tẩy. Người ta phỏng đoán có
đến 50% các ván bị quắt. Như vậy, 50% tỉ lệ thắng trước
hết là của dealer, còn lại 50% tỉ lệ thắng chia hai giữa
người chơi và dealer (lại dealer nữa). Rốt cuộc, người chơi chỉ
được 25% tỉ lệ thắng mà thôi. Đã vậy còn
phải bỏ tiền “xâu” đều đều từ đầu tới cuối trận đánh. Chơi
càng lâu thì tiền xâu càng nhiều. Cuối
cùng, hầu như tất cả số tiền đánh cược từ từ vào
túi dealer hết.
Xem vậy, chúng ta mới không khỏi ngạc nhiên tại sao
Bellagio Casino, một sòng bài hiện đại và qui
mô nhất ở Las Vegas, cho biết họ đã lấy lại được 170 triệu
đô la tiền vốn đã bỏ ra xây cất và bắt đầu
có lời chỉ sau một năm hoạt động.
Chúng tôi muốn ghé thăm nơi đây vì
bà xã tôi có hai người bạn học cũ làm
việc trong casino nầy. Cô ấy đến thăm bạn nhưng vì
không có hẹn trước nên tìm hoài
không gặp. Chúng tôi ăn trưa theo lối tự chọn
(buffet) tại một casino mới mở: Borgata. Sau mấy hôm ăn uống qua
loa, cuối cùng chúng tôi thưởng thức được một bửa
ăn tuyệt vời! Buffet thịnh soạn ngon và rẻ tại các casino
là lý do quyến rũ nhất khiến tôi thỉnh thoảng chở
vợ và những người thân từ các tiểu bang xa đến đi
vui chơi ở Las Vegas. Chúng tôi dành khoảng một
tiếng đồng hồ kéo máy 5 cent cho vui, với giao ước
chỉ được thua tối đa là 2 tờ 20 đô thôi. Khoảng một
tiếng đồng hồ sau đó, chúng tôi kéo nhau dạo
chơi trên bãi biển Atlantic, vừa để ngắm nhìn
thiên hạ tắm biển, vừa để hít vào phổi bầu
không khí trong lành cho cơ thể được thư
giãn.
Nhưng rồi cơn mưa từ đâu kéo đến. Miền Đông mưa
nhiều mà cũng thường nặng hạt hơn bên nầy.
Chiều hôm ấy chúng tôi từ giã Atlantic Casino
dưới cơn tầm tả. Không biết có ai đó trong
chúng tôi có cảm giác bàng
hoàng lưu luyến như khi rời New York sáng sớm hôm
nay không, chứ riêng tôi thì không.
Casino vẫn thường là nơi mà mọi người hâm hở khi
đến và uể oải lúc ra về vì thua nhiều được
ít. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, chúng tôi
về đến nhà bà chị ở thành phố Fairfax, Virginia.
Ngày N + 6 Hôm nay, theo chương trình, chúng
tôi sẽ đi thăm những địa điểm nổi tiếng tại thủ đô
Washington. Anh chị vợ tôi nói là cần ở nhà
chuẩn bị bữa cơm thật ngon tối nay để chiêu đãi
chúng tôi. Sau khi thăm hỏi bà chị đường đi nước
bước ở thủ đô nầy, chúng tôi nhờ chị ấy đưa đến một
trạm metro gần nhà nhất. Metro hay xe điện ngầm ở đây
không tấp nập như ở New York. Ở New York metro thường di chuyển
hoàn toàn dưới mặt đất, chuyến trước cách chuyến
sau chỉ vài ba phút. Còn ở Washington, metro di
chuyển trên cả hai địa thế, khi đi đường hầm, lúc
thì đi trên đường. Hành khách da màu
không đông đảo và số lượng metro chở khách
không đến liền liền như ở New York. Điểm giống nhau cơ bản
là metro ở đâu cũng là phương tiện rẻ tiền tiện
nghi, sạch sẽ và nhanh chóng nhất.
Cách nhau chỉ một dòng sông Potamac, Virginia
bên nầy, còn bên kia là Thủ đô Hoa
Thịnh Đốn. Sau khi qua một chiếc cầu thật dài mang tên
Tổng Thống Theodore Rosevelt, nối liền tiểu bang Virginia với thủ
đô Washington D.C. là chúng tôi đã đến
địa phận của thủ đô. Metro ngừng lại trên đường 23,
chúng tôi xuống tàu trước cửa Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ
rồi bắt đầu thả bộ về hướng Nam thành phố. Trở lại một
chút với Tổng Thống Theodore Rosevelt. Được biết, ông
là vị Tổng thống trẻ nhất nước Mỹõ. Khi lên nhiệm
chức ông chưa đầy 43 tuổi. Nhưng có người nói John
F. Kennedy mới là vị Tổng thống trẻ nhất. Thật ra, khi lên
nhiệm chức Tổng thống, Jonh Kennedy được 44 tuổi. Còn vị Tổng
thống gìa nhất nước Mỹ là ơng Ronald Reagan. Khi rời Tồ
Bạch Ốc, ông được 77 tuổi.
Qua khỏi Constitution Ave. thì đến một lăng tẩm cao ngất trước
mặt, đó là Đài Tưởng Niệm Tổng Thống Abraham
Lincoln (Lincoln Memorial). Vừa đến nơi chúng tôi cảm thấy
choáng ngợp ngay vì dập dìu tài tử giai
nhân, bao gồm mọi sắc tộc trên toàn thế giới với
trang phục đủ màu đủ kiểu, tạo nên một khung cảnh vui tươi
nhộn nhịp vô cùng. Đài Tưởng Niệm hình
như được xây bằng những tảng đá xanh thật cao to,
tôi rất tiếc đã không nhớ rõ kích
thước. Hình dáng giống như một chiếc hộp hình chữ
nhật không nấp nằm ngang, mặt sau phẳng kín quay về
phía dòng sông Potamac, mặt trước rỗng, bên
trong có tượng Tổng Thống Abraham Lincoln, người đã tranh
đấu thành công cho việc xoá bỏ hoàn
toàn chế độ nô lệ trên toàn nước Mỹ, để rồi
đã phải gục ngã vì lý tưởng nhân
quyền cao cả đó. Tượng đài nầy được bầu chọn là
tượng đài đẹp nhất thủ đô.
Trước mặt tượng đài là một khung cảnh ẩn chứa nét
đẹp tuyệt vời và hết sức hài hoà theo phong thuỷ
Trung Hoa. Từ trên trung tâm tượng đài đi xuống, du
khách bước xuống nhiều bực thềm tam cấp dốc và rộng. Đến
cuối bậc thềm là một hồ chứa nước hình chữ nhật nằm theo
chiều đứng, hồ có nước trong xanh quanh năm với rất nhiều
vòi phun, vài đàn vịt tàu đang lả lướt
trong hồ. Đặc biệt, chung quanh bờ hồ người ta trồng rất nhiều
cây anh đào do chính phủ Nhật Bản tặng.Vào
đầu xuân hoa anh đào nở rộ phản chiếu lóng
lánh xuống mặt hồ, tạo thành một hình ảnh tuyệt
vời làm ngẩn ngơ hàng ngàn ngàn du
khách. Xa xa phía bên kia hồ là Đài
Tưởng Niệm Tổng thống Washington, vị tổng thống đầu tiên của Mỹ
quốc. Washington Monument có hình dáng như một
cây bút chì, nổi bật trên vùng trời
Hoa Thịnh Đốn. Đây là một công trình kiến
trúc có một không hai rất nổi tiếng khắp thế giới.
“Cây Bút Chì” nầy lúc nào cũng in
hình của nó xuống mặt hồ, tạo thành một tổng hợp
phản chiếu liên hoàn trên mặt hồ cùng
lúc cả 2 tượng đài Tổng Thống Lincoln và
Washington bên cạnh những cánh hoa anh đào hồng
thắm vô cùng độc đáo. Vì thế người ta gọi
đó là Hồ Phản Chiếu (Reflecting Pool).
Tượng đài Tổng thống Washington, như vừa nói, được
nhân dân Mỹ xây dựng để tưởng nhớ công ơn vị
anh hùng dân tộc đã có công đầu trong
cuộc chiến dành độc lập từ tay đế quốc Anh. Ông đã
từng là Đại tướng chỉ huy một đội quân non trẻ với trang
bị thiếu thốn đủ mọi thứ. Vậy mà nhờ tài thao lược của
ông, quân đội Hoa kỳ cuối cùng đã đánh
bại đoàn quân hùng mạnh nhất thế giới lúc
bấy giờ của mẫu quốc Anh, đem lại nền độc lập vĩnh viễn cho Hoa Kỳ
ngày nay. Ông cũng được toàn dân kính
phục vì đã không tham quyền cố vị, cương quyết
không ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba để nêu tấm gương tôn
trọng hiến pháp cho các thế hệ mai sau, mặc dầu ông
rất được lòng dân chúng . Hiến pháp Hoa Kỳ
qui định không một vị tổng thống Hoa Kỳ nào được quyền ứng
cử quá 2 nhiệm kỳ. Tuy nhiên sau nầy lịch sử Hoa Kỳ cũng
có một ngoại lệ. Do tình hình thế giới chiến
tranh, tổng thống thứ 32 Franklin Delano Rosevelt đã được
toàn dân tín nhiệm đến 4 nhiệm kỳ cho đến
lúc sắp sửa kết thúc thế chiến thứ hai thì
ông mất. Tháp Bút Chì nầy cao 555 feet,
là một kiến trúc cao nhất thủ đô, được nhìn
thấy từ mọi nơi trong thủ đô, có thể dùng thang
máy lên đến tận đỉnh tháp, và từ đó
sẽ nhìn thấy mọi cảnh quan, mọi sinh hoạt trong thủ đô.
Từ tượng đài Abraham Lincoln nhìn ra, như đã
nói, phía trước là Reflecting Pool. Xa hơn một
chút là Tháp Bút Chì (Washington
Monument). Bên phải Lincoln Memorial là Korean War
Veterans Memorial với bức tượng đồng đen ghi lại hình ảnh chiến
đấu của các quân nhân Hoa Kỳ trong cuộc chiến Triều
Tiên để tưởng nhớ các chiến binh Hoa Kỳ đã hy sinh
cho cuộc chiến nầy. Bên trái Lincoln Memorial chính
là công trình mà tôi hằng mơ ước được
đến xem. Bức Tường Đá Đen (Black Wall) tưởng niệm 59
ngàn cựu chiến binh Hoa Kỳ đã hy sinh trong chiến cuộc
Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial). Bức tường hình
thành bởi hai tấm vách đá khổng lồ, hình
như nguyên tảng , cạnh trên cắt hơi xiên. Hai
vách đá mài màu đen lóng lánh
ráp lại nhau như hình hai cánh én tại một
góc tù khoảng 100 độ. Trên tường có những
đường kẻ dọc theo chiều thẳng đứng thành từng ô dọc, mỗi
ô được đánh số thành từng năm. Bức tường được thiết
kế bởi một sinh viên khoa kiến trúc của Đại học Yale
tên là Maya Lin. Được biết, từ 20 năm nay, Bức Tường
Đá Đen nầy được nhiều người đến chiêm ngưỡng và
khấn nguyện nhiều hơn bất cứ đài tưởng niệm nào
trên toàn quốc Hoa Kỳ. Tên họ của những người
lính tử trận được ghi khắc vào tường đá theo thứ
tự thời gian, mỗi năm một cột, từ người chết trước đến người chết sau
cùng. Tại đây có người bán giấy mỏng
và viết chì đặc biệt, du khách có thể mua
để in lại trực tiếp từ trên bức tường, họ tên thân
nhân đã tử trận của mình.
Đứng trước một di tích đau buồn của lịch sử lòng tơi bổng
se thắt lại. Tôi lại nhớ về quê hương Việt Nam
yêu dấu, và nghe như vang vọng đâu đây mấy
câu hát trong một bài nhạc hùng ngày
xưa:
Còn quê hương là còn yêu thương
Còn quê hương là còn danh thơm
Còn quê hương là còn tất cả
Tất cả, tất cả những gì mình thiết tha.
Gần đó, chúng tôi thấy có mấy bức tượng đồng
đen ghi lại hình ảnh công tác dân sự vụ,
quân y, tiếp liệu, hậu cần... của các nữ quân
nhân Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam ngày xưa.
Các bức tượng rất cảm động nầy đều có ghi hàng
chữ: Women’s Vienam Veterans Memorial.
Xa hơn chút nữa là một kiến trúc hình thuỷ
tạ mà trong đó người ta thực hiện một Memorial
khác để tưởng nhớ đến những người đã ký tên
vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập làm cơ sở
pháp lý đầu tiên, từ đó khai sinh ra đất
nước và con người Hoa Kỳ ngày nay.
Chúng tôi tiếp tục đi về hướng trung tâm của
đô thị, nơi có vô số những di tích lịch sử
và những toà nhà hoành tráng rất nổi
tiếng của liên bang. Trước hết chúng tôi đến “thăm
ông Bush”.
Toà Bạch Ốc (White House), nơi gia đình ông ơ,ũ
là một toà building lộng lẫy, kín cổng cao tường,
rất xa tầm mắt của du khách chỉ được đứng ngoài
vòng rào nhìn vô. Toà nhà
có lẽ luôn luôn được quét vôi
màu trắng nên mang tên Bạch Ốc. Từ đầu thế kỷ
18 đến nay, tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ đều dọn vào ở
nơi nầy. Toà nhà nầy đã từng bị dội bom trong cuộc
chiến năm 1812 và là nơi được tham quan nhiều hơn bất cứ
building nào trên thế giới. Hiện nay vì lý
do an ninh, những chuyến thăm viếng bên trong đã tạm
ngưng. Qua lớp hàng rào chung quanh toà
nhà, người ta chỉ có thể thấy được khu Vườn Thượng Uyển
và sân cỏ mênh mông phía nam được cắt
tỉa chu đáo .
Địa điểm kế tiếp chúng tôi đến là Toà
Nhà Lập Pháp Hoa Kỳ (US Capitol). Từ White House đến Điện
Capitol đi bộ cũng khá xa, nên chúng tôi
quyết định ghé vào một tiệm gà chiên
bên cạnh F.B.I. Building ăn trưa, nhân tiện, xem thử
building nầy ra sao mà nghe nói cũng danh tiếng lắm.
Nói là xem mà chỉ liếc thôi chứ không
dám dòm kỹ hay quay phim nên chẳng thấy gì
vì sợ nhìn kỹ quá lở FBI nghi ngờ thì mệt
lắm. Thời đại khủng bố mà! (không phải “thời đại khủng
hoảng” như tựa đề một phim bộ nhiều tập đâu nhé!).
Rồi chúng tôi lần đến toà nhà của các
nghị sĩ và dân biểu liên bang Hoa Kỳ. Không
biết quờ quạng làm sao, chúng tôi lại vào
nhằm khu cổng sau Điện Capitol mà cứ tưởng là cổng trước.
Nhờ vậy mà tình cờ gặp được bà Loretta Sanchez
đang trên đường ra về sau buổi họp. Bà rất vui khi được
biết chúng tôi là dân Cali qua đây
chơi. Bà hỏi, nếu chúng tôi thích, bà
sẵn sàng chụp hình chung với chúng tôi. Thế
là có được mấy tấm hình kỷ niệm với bà.
Sau khi chia tay bà dân biểu của Cali, chúng
tôi vòng ra phía cửa trước Điện Capitol. Thật
là một khung cảnh tưng bừng náo nhiệt! Mọi người đứng
ngồi đủ kiểu ngay trước tiền đình Quốc Hội. Tương tự như White
House, US Capitol cũng toạ lạc trên một sườn đồi rất cao giữa
lòng thành phố. Từ trên đồi nhìn xuống
là cả một quang cảnh vừa đẹp mắt, vừa vui tươi sinh động với một
Hồ Phản Chiếu (Reflecting Pool) tươi mát nằm trong một
công viên hoa cỏ xinh tươi tên là Union
Square. Nhưng khác với White House, US Capitol không
có hàng rào vây quanh nên mọi người
tha hồ tiếp cận với những kiến trúc hết sức hoành
tráng của toà nhà. Nghe nói trước thời kỳ
khủng bố, du khách có thể vào bên trong để
tham quan các ghế ngồi của quí vị nghị sĩ và
dân biểu được thiết kế rất nghệ thuật và trang trọng .
Bên trái công viên là một nơi danh
tiếng khác, Vườn Bách Thảo Hoa kỳ (US Botanic Garden).
Nơi đây trồng tất cả những kỳ hoa dị thảo của thế giới. Vốn ưa
chuộng cây kiểng, chúng tôi say sưa ngắm
nghía chụp hình quay phim hết loài hoa nầy đến
cây cảnh khác. Có những giống lan thiên
nhiên rất lạ và quí của các khu rừng nhiệt
đới Á châu. Tôi thấy có cả cây chuối
lá Việt Nam mình trong đó. Cũng có những
loại hoa xương rồng sa mạc đẹp lộng lẫy, không nhớ rõ
vùng nào. Rừng Phi châu cung cấp cho Vườn
Bách Thảo nầy nhiều giống cây muôn màu
muôn vẽ. Thảo mộc thường có tên khoa học khá
dài, khó đọc và khó nhớ nên rốt cuộc
xem nhiều mà chẳng nhớ tên nào cả.
Rời US Botanic Garden, chúng tôi nhắm hướng Đài
Tưởng Niệm Tổng Thống Thomas Jefferson. Tôi muốn đến thăm nơi
đây vì đọc lịch sử Hoa kỳ tôi rất nể phục ông.
Thomas Jefferson là vị tổng thống thứ ba rất tài ba của
Hoa kỳ. Trước đó, khi còn thượng nghị sĩ, ông cũng
đã nổi tiếng là nhà kiến trúc mọi
định chế dân chủ và tự do cho Liên bang Hoa Kỳ.
Người ta kể lại là ông có thể viết cùng một
lúc hai tay với hai ngôn ngữ khác nhau là
tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. Tổng thống Clinton cũng
biệt tài là có thể đọc nhiều bài viết
khác nhau cùng một lúc cho nhiều thư ký
đánh máy.
Trên đường đi đến nơi nầy, chúng tôi ghé qua
Bureau of Engraving & Printing. Nơi đây người ta in tiền
đô la Mỹ và cho công chúng lần lượt
vào xem công khai theo giờ giấc nhứt định. Tiếc là
chúng tôi đến nhằm giờ nghỉ nên không được xem.
Tiếp tục hành trình, chúng tôi thả bộ đến bờ
hồ Tidal, nơi có thể nhìn thấy Đài Tưởng Niệm
Thomas Jefferson xa xa bên kia bờ. Định nghỉ chân một
chút rồi sẽ cặp theo bờ hồ mà đi qua, nhưng thấy
bà xã và các cháu có vẻ mệt
mỏi rồi nên tôi “đành thất hẹn với ông, xin
ông thông cảm cho”. Kế hoạch dự trù băng qua
sông Potamac đến thăm Ngũ Giác Đài (Pentagon)
và Nghĩa Trang Arlington (Arlington Cemetery) của tôi cũng
tan thành mây khói vì lực bất tòng
tâm. Thôi đành hẹn lần khác vậy.
Chiều tối hôm ấy, đúng như lời hứa, anh chị vợ tôi
đã chiêu đãi chúng tôi một bữa ăn tối
thật linh đình. Bữa ăn ngon chưa từng thấy. Không phải
là cao lương hay mỹ vị gì, nhưng ai đã từng ăn đồ
ăn Mỹ nhiều ngày, khi ăn lại đồ ăn Việt Nam chắc sẽ cùng
cảm giác như tôi. Buổi tối hôm ấy, ông
bà còn tổ chức ăn mừng sinh nhựt thứ 18 cho
con gái út của tôi nữa.
Ngày N + 7 Từ giã anh chị, chúng tôi
lên đường trở về California. Khi phi cơ bắt đầu rời khỏi
phi trường Norfolk, lòng tôi bổng lâng lâng
khó tả. Hình như trời lại bắt đầu lất phất mưa. Và
một lần nữa cảm giác luyến lưu lại chợt đến trong tôi.
Có quá nhiều di tích lịch sử ở thủ đô
Washington mà một ngày thăm viếng thật chẳng thấm
vào đâu. Tôi nuối tiếc vì không
có nhiều thì giờ hơn để vui chơi với cảnh sông nước
hữu tình của miền Đông nầy.
Tượng Nữ Thần Tự Do và những cao ốc chọc trời của New York,
những di tích thời lập quốc Hoa Kỳ ở Pensylvania, khu thương mại
Eden của người Việt vùng Virginia, và nhất là
những di tích lịch sử như Vietnam Veterans Memorial, Lincoln
Memorial, Washington Monument... cùng những dinh thự quốc gia
như White House, US Capitol v.v. như vẫn còn lảng đảng trong
trí nhớ tôi. Và trong nỗi lưu luyến âm thầm
nào đó, tôi ngâm khẽ mấy vần thơ của thi sĩ
Nguyên Sa trong bài Paris:
Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì
nhìn đời trăm nghìn góc phố
Con đường dài thẳng mãi
có bao nhiêu...
...Dù hôm nay giữa một
ngày tháng bảy
Chiếc tháp ngà đang ướt
rũ mưa ngâu
Sông Seine về chân đang
bước xô nhau
Sẽ vịn ai cho đều dòng nước
chảy.
Miền Đông Hoa
Kỳ
Mùa Hè 2003