Đình
và lễ hội đình Tân An, TX.Thủ Dầu Một, Bình
Dương
(Đình Bến Thế)
LÊ GIANG - HẠ TRÚC - Bảo tàng Bình Dương
Tọa lạc tại ấp 1, xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương, đình Tân An cách trung
trung tâm tỉnh lỵ khoảng 7km về hướng bắc và cách
UBND xã Tân An 500km. Đến di tích, có thể
theo đường quốc lộ 13 từ thị xã Thủ Dầu Một đến ngã 3
Suối Giữa rẽ trái, chạy thẳng đến UBND xã Tân An,
sau đó rẽ về phía trái khoảng 500m là đến
di tích. Đường đến đình được rải nhựa nên rất thuận
lợi khi đến đình, phương tiện đi lại có thể bằng xe
máy, ô tô...
Như tất cả các ngôi đình Bình Dương được
xây dựng vào thời kỳ đầu tiên, đình Tân
An nằm trong vùng trung tâm chợ, gần bến sông Bến
Thế (nên người trong vùng quen gọi là đình
Bến Thế, chợ cũng gọi là chợ Bến Thế) là địa điểm
thông thương giao lưu buôn bán của người dân
địa phương và giữa địa phương này với những người nơi
khác đến nên sầm uất, thịnh vượng. Theo phong thủy
và cũng là do tín ngưỡng của dân
làng, đình nằm trên một gò đất cao, mặt
hướng ra sông Sài Gòn tiện cho việc bà con
trong vùng hoặc những nơi khác tới tham dự lễ hội trong
dịp Kỳ yên khi phương tiện đi lại của người dân trước
đây chủ yếu bằng thuyền bè.
Đình được xây dựng vào năm 1820 bởi lớp cư
dân đầu tiên đến vùng đất này sinh cơ lập
nghiệp. Ban đầu đình chỉ là mấy gian nhà lá
đơn sơ nên đặt tên chữ là “Tương An miếu”, do
nhân dân của 4 xã: Tương Bình (nay là
Tương Bình Hiệp), Tương An (nay là Tân An), Tương
Hòa (nay là Định Hòa) và Cầu Định (nay
là Hòa Định) lập để thờ thần Thành Hoàng
Bổn Cảnh, vị trí đình được đặt tại làng Tương An.
Khoảng 30 năm sau đó, tiên tổ dòng họ Nguyễn
(làm chức Ban biện) đứng ra chủ trì xây dựng lại
ngôi đình với quy mô lớn, có hình
dáng như bây giờ. Mặt khác, dòng họ Nguyễn
là một trong những lớp cư dân đầu tiên đến
vùng đất Tân An khai hoang lập nghiệp và có
công trùng tu ngôi đình làng nên
được dân làng tôn làm “Tiền hiền - Hậu hiền”
và được thờ trong ngôi chánh điện để tỏ lòng
thành kính.
Vào ngày 19 tháng 11 năm Tự Đức thứ 21 (1869), vua
Tự Đức ban sắc phong cho đình Tân An nhằm công nhận
ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành
Hoàng để nhân dân biết mà thờ tự. Sắc phong
luôn được cất giữ tại Nhà thờ dòng họ Nguyễn (hiện
là nhà ông Nguyễn Tri Quan). Theo sắc vua Tự Đức
ban thì vị thần được thờ chính trong đình
là Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Ngày 26-4-2004, đình Tân An được UBND tỉnh
Bình Dương ký quyết định công nhận là Di
tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hàng năm,
đình Tân An được Nhà nước cấp kinh phí
trùng tu, bảo quản thích hợp và lễ hội đình
Tân An được tổ chức theo định kỳ hàng năm “cúng
nhỏ”, đáo lệ 3 năm “cúng lớn”..
Đình được xây dựng theo lối kiến trúc sắp đọi, 4
mái, gồm 3 khu chính. Bước qua cổng đình trước
tiên ta gặp nhà võ ca là nơi đoàn
hát bội biểu diễn những năm đáo lệ Kỳ yên.
Nhà võ ca mới được Ban quý tế đình (chủ
trì là ông Lê Văn Út - Trưởng Ban
quý tế) đứng ra xây dựng để đáp ứng nhu cầu thưởng
thức môn nghệ thuật của bà con khi tới cúng
đình trong dịp lễ hội.
Khu chánh điện là nơi đặt 15 bàn hương
án nối tiếp nhau, là nơi trưng bày lễ vật tế hiến
thần linh trong dịp lễ; là nơi thể hiện rõ nét
nhất bàn tay tài hoa của những người con đất Tân An
qua nghệ thuật trang trí, tạo hình hoa quả mà
các nghệ nhân thể hiện trong mỗi dịp Kỳ yên; qua
hàng loạt hoành phi, câu đối, án thờ. Những
hoành phi, câu đối trong đình có nội dung ca
ngợi cảnh quê hương đất nước thanh bình, thịnh đẹp, ca
ngợi công đức to lớn của thần. Đặc biệt nơi án thờ đặt
giữa khu có một bài thơ Đường 4 câu tả cảnh của lưu
vực sông Hoàng Hà của Trung Quốc với cảnh trời xanh
nước biếc không gian mênh mông làm cho người
đến viếng đình liên tưởng đến quang cảnh hữu tình
của đình Tân An - Bến Thế mà ông Trần Trọng
San đã tạm dịch như sau:
Vầng hồng đã tựa non cao
Sông Hoàng cuồn cuộn chảy vào biển khơi
Muốn xem ngàn dặm xa xôi
Bên lầu Quán Tước trông vời núi sông.
Ngoại trừ một số ban thờ ghi rõ tính danh của vị thần
được thờ như ban thờ tiên sư - bậc thầy dạy nghề (nói
chung) cho dân chúng trong làng từ buổi đầu lập
làng cho đến ngày nay, kể cả nghề làm hương chức
xưa, cán bộ ngày nay; ban thờ nữ bách tính,
nam bách tính; bàn thờ Tổ quốc đặt tượng
Bác Hồ như là thờ người đứng đầu đất nước; còn lại
là các vị thần theo ngưỡng dân gian (như Thổ thần
là vị thần cai quản đất đai, phù trợ nông dân
được mùa bội thu, đời sống phát triển), các vị
phúc thần, danh nhân hữu công. Và hệ thống
thần linh phức tạp xoay quanh thần Thành Hoàng gắn với
những tín ngưỡng và nghi lễ riêng đã
tô đậm thêm nét đặc thù của các
ngôi đình ở Nam bộ nói chung, đình Tân
An nói riêng.
Cuối cùng là hậu điện – nơi thờ thần Thành
Hoàng Bổn Cảnh, tả ban, hữu ban và tiền hiền, hậu hiền.
Điện thờ thần Thành Hoàng được ngăn cách với khu
chánh điện bằng vách ngăn, có bệ để mỗi người khi
bước chân qua cửa đều phải cúi đầu kính cẩn trước
thần và tăng thêm vẻ tôn nghiêm, thần
bí, trang trọng nơi gian thờ. Ban thờ thần Thành
Hoàng có 3 bậc: bậc một dùng để chưng lễ vật trong
các nghi lễ; bậc hai dùng dâng hương, đăng,
trà, rượu; bậc ba nghinh sắc thần, bậc này còn gọi
là bàn thần. Bàn thần là nơi đặt sắc phong
sau nghi lễ thỉnh sắc, trên vách phía sau
bàn thần có ghi chữ “Thần” bằng chữ Hán.
Khác với đền miếu thờ nhân vật lịch sử, hiếm thấy
đình làng thờ hình tượng cụ thể. Dù sao chữ
“Thần” - biểu tượng được thờ ở đây có lẽ cũng phù
hợp với đặc điểm tính chất của thần Thành Hoàng,
đối tượng tín ngưỡng mang tính khái niệm biểu
trưng của một phiếm thần hơn là một thực thể lịch sử - xã
hội. Vượt qua nhận thức “Thành Hoàng là thần bảo
vệ thành lũy, hào lũy” nguyên nghĩa gốc từ Trung
Quốc, hoặc “vị thần đại diện cho vua để bảo vệ toàn dân,
trong làng” mang tính chính thống và phổ
biến cả nước, thần Thành Hoàng trong tâm thức người
Việt ở Nam bộ chủ yếu là “Thành Hoàng Bổn Cảnh”
với nghĩa đó là “vị thần của cộng đồng dân cư” địa
phương tại chỗ (không nhất thiết là một ngôi
làng khép kín như ở miền Bắc) nó đồng
hóa và gần gũi với anh linh những thế hệ đi trước
có công lao mở đất, lập làng, dựng ấp (Tiền hiền
khai khẩn) và có công trạng mở trường, lập chợ, đắp
đường (Hậu hiền khai cơ) cũng như bao gồm các hồn thiêng
của anh hùng, liệt sĩ hóa thân cùng
khí thiêng sông núi và cả các
thần thánh thiêng liêng đang ngự trị tại vùng
đất mới hoặc mang vào từ vùng quê cũ ở miền Bắc,
miền Trung... Và một điều như đương nhiên, thần
Thành Hoàng là nam thần, mang khí dương,
đem lại sức mạnh cho muôn loài, muôn vật.
Phía bên trái bên phải thần là Tả ban,
Hữu ban – lực lượng hầu cận, phò tá Thần. Tiền hiền, Hậu
hiền là những bậc tiền bối có công xây dựng
và trùng tu ngôi đình trong những
ngày đầu thành lập. Họ là lớp cư dân đầu
tiên đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp, khởi đầu
cho quá trình hình thành và
phát triển của cư dân Tân An ngày nay.
Phía đông, tây là khu nhà trù,
là nơi dùng để tổ chức tiệc trong những ngày tế
lễ. Nơi đây cũng có những câu “chào” bằng
tiếng Hán đón tiếp các vị khách tới viếng
đình, thể hiện lòng hiếu khách của bà con
nơi đây.
Hai bên tiền đình, phía trước võ ca
là hai miếu có kiến trúc cổ, dáng vẻ cổ
kính thờ Bạch Mã Thái giám - phương tiện đi
lại của thần và thần Hổ - thần cai quản núi rừng được coi
như những lực lượng hộ vệ cho thần Thành Hoàng. Ở
đây ta thấy rõ nhất đặc trưng dung hợp, tích hợp
thần linh vì có nhiều tượng thờ các vị thần
khác: Thổ địa...
Như phần lớn những đình tại Bình Dương, phía trước
đình là “đài xã tắc”, là nơi thờ
thần Đất và thần Lúa nếp, biểu tượng của thần đất đai,
mùa màng. Thờ Xã tắc là cầu mưa thuận
gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống sung
túc, đất nước thái bình. Trên đài vẽ
hình Nghê chở án thư phỏng theo tích
nghê chở hình tượng Hà đồ trong lịch sử Trung Hoa;
trên hai vai tạc hình thần Hổ đang trong tư thế sẵn
sàng đối phó với mọi nguy hiểm nhưng không hung dữ.
Cảnh quan nơi đây biểu trưng cho sự tôn nghiêm của
một ngôi đình: tĩnh lặng, u nhàn nhưng lại vô
cùng sinh động, rộn rã, tưng bừng trong mỗi dịp hội
làng; là nơi cho chim chóc yên ổn bay về
trú ngụ mỗi chiều, hình ảnh cây đề vặn mình
vươn lên trên cổng đình, rễ cây trùm
phủ cổng đã trở thành một hình ảnh lãng mạn
đi vào những cuộc triển lãm ảnh đẹp, trở thành
hình ảnh biểu trưng đặc sắc khi nhắc tới cảnh quan đình
Bình Dương.
Theo đúng lệ xưa “tam niên đáo lệ Kỳ yên”,
vào những năm Tí, Mão, Ngọ, Dậu tính theo
lịch 12 con giáp là những năm đình Tân An
đáo lệ tổ chức Kỳ yên trong dịp Hạ điền chạp miễu. Lễ hội
diễn ra trong 3 ngày 3 đêm từ 14 đến 16-11 là dịp
trăng sáng để bà con thuận tiện vui chơi và đi
lại. Đây cũng là dịp thủy triều dâng cao và
theo quan niệm của nhân dân đó là điềm của
mùa màng bội thu, của vạn vật tốt tươi, của tiền của dồi
dào...
Kỳ yên là dịp để những nông dân trước
là bày tỏ tình cảm của mình với thần linh,
sau là dịp gặp mặt nhau bàn luận công việc
làm ăn và bày tỏ tình cảm, trao đổi kinh
nghiệm. Trong lễ hội Kỳ yên, một mặt người nông dân
đền ơn thần linh đã phù trợ, giúp sức cho họ vượt
qua khó khăn trong cuộc sống, được “hòa muôn, triệu
triệu; được an cư, lạc nghiệp, được quốc thái, dân an”.
Nó có vị trí rất quan trọng trong đời sống
tâm linh của người dân vậy nên trước lễ hội Ban
quý tế đình phải chuẩn bị thật chu đáo để lễ hội
diễn ra không có sơ suất gì.
Ban quý tế đình Tân An gồm 30 người, trước
ngày lễ hội diễn ra 1 tuần, Ban quý tế đình họp
lại và phân công thành những ban: ban tiếp
tân có nhiệm vụ đón khách; ban trật tự giữ
gìn an ninh trong khi diễn ra lễ hội; ban nấu nướng phụ
trách việc mua sắm, làm tiệc; ban tài chính
phụ trách việc chi tiêu; ban lễ vật có nhiệm vụ
nhận và trả lễ vật bà con dâng cúng. Với
tính cách khoáng đạt, tâm lý “mở” giờ
đây công việc của đình làng không chỉ
là đặc quyền của nam giới mà các bà,
các mẹ biết lo toan công việc cũng được mời vào Ban
quý tế đình, tham gia công việc nấu nướng,
cúng tế. Năm nào đáo lệ cúng lớn, Ban
quý tế đình liên hệ mời đoàn hát
trước 1 tháng, tìm người tài đức làm lễ
xây chầu, phát thiệp mời Ban quý tế những
đình lân cận để giao lưu... Những người trong Ban nghi lễ
trước khi tham gia hoạt động làm lễ phải tắm rửa sạch sẽ
để tẩy uế (quán tẩy).
Việc dọn dẹp vệ sinh đường sá dẫn đến đình, quét
dọn, vệ sinh những ban thờ, mọi ngõ ngách trong
đình được tiến hành. Hàng loạt những câu
đối, tấm liễn viết chữ Hán bằng mực đỏ với nội dung cầu cho
dân khang vật thịnh, cầu cho mùa màng tươi tốt, cầu
cho lễ Kỳ yên năm nay được thành công... được trang
hoàng trên từng cột đình. Cửa hậu điện và
tất cả những cánh cửa khác trong đình được mở rộng
để đón bá tánh tới cúng đình. Đặc
biệt ở cổng đình người ta đào hai rãnh hai
bên, chỉ chừa lại một lối đi ở giữa chỉ vừa một người đi để khi
tới cổng đình ai cũng phải đi chậm lại, phải từ tốn, khiêm
nhường trước thần. Không chỉ có Ban quý tế
đình mà mỗi người dân trong làng cứ mỗi dịp
Kỳ yên cũng nô nức chuẩn bị lễ vật. Từ trước khi lễ hội
diễn ra khá lâu họ đã đăng ký trang
trí 15 bàn trong gian chánh điện vì theo
quan niệm gia đình nào được trang trí sẽ gặp nhiều
may mắn trong năm nên những gia đình có nhiều
đóng góp xây dựng, tu bổ đình sẽ được ưu
tiên. Mỗi gia đình sẽ chuẩn bị thật chu đáo cho ban
thờ mà mình phụ trách. Bởi lễ hội là dịp
trưng bày tài nghệ, sự khéo léo của
dân chúng. Thể hiện qua những con rồng, phượng kết bằng
trái cây, hoa lá, qua cách trang trí
mâm thờ; qua những mâm xôi, các loại
bánh trái của chị em phụ nữ làm lễ dâng thần
vừa thể hiện lòng thành, vừa mong thần phù hộ cho
gia đình sang năm mạnh khỏe, làm ăn phát đạt.
Công việc chuẩn bị đến chiều ngày 13 phải hoàn tất
để làm lễ thỉnh sắc nghinh thần về đình.
Lễ thỉnh sắc (6 giờ 30 phút ngày 14)
Lễ Kỳ yên được bắt đầu bằng nghi thỉnh sắc thần, tiến hành
vào 6 giờ 30 phút ngày 14-11. Ngay từ 5 giờ 30
phút Ban nghi lễ đã tập trung đông đủ tại
đình, ăn mặc chỉnh tề, tắm rửa thân mình thật sạch
sẽ, mỗi người lo phần việc của mình để nghi lễ diễn ra thật trọn
vẹn.
Sắc thần vốn là một văn bản do vua ban ra lấy danh nghĩa
công nhận hoặc gia phong tước hiệu cho một vị thần thánh
nào đó (ở đây chủ yếu là cho thần
Thành Hoàng ở các đình làng) nhưng
thực chất đó là sự thể hiện ý chí chủ quan
muốn khẳng định quyền lực của triều đình phong kiến.
Ngoài yếu tố ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến hoặc do
tâm lý truyền thống, do nguyện vọng muốn được
“chính danh”, muốn “hợp thức hóa” ông thần của
làng mình (cũng tức là sự công nhận đất
làng) và thần thánh hóa, tăng thêm
tính thiêng của thần, người nông dân Nam bộ
khi long trọng nghênh đón và giữ gìn sắc
phong của vua ban dường như trước sau vẫn có một tâm
lý phổ biến và hợp tình hợp lý rằng: Sắc
thần chính là một biểu tượng của truyền thống dân
tộc, của mối liên hệ không thể cắt đứt giữa làng với
nước, một mối quan hệ Nhà – Làng – Nước không phải
chỉ tồn tại trong tâm thức sâu thẳm của cộng đồng mà
còn là một nhu cầu văn hóa tinh thần bức
xúc pha lẫn màu sắc sinh hoạt tâm linh của những
con người tha phương trên vùng đất mới, nhất là ở
vào các thời điểm đất nước chịu nhiều biến động đau
xót lúc ấy... Lễ thỉnh sắc thần hay lễ rước thần trang
trọng, rầm rộ mở đầu lễ hội Kỳ yên hàng năm ở các
ngôi đình Nam bộ xưa nay ắt hẳn có mang những yếu
tố văn hóa tinh thần đặc biệt như vậy.
Nội dung Sắc thần tại đình Tân An như sau:
Phiên âm:
Sắc Tương An Thành
Hoàng chi Thần.
Nguyên tặng Bảo An Chính
Trực Hữu Thiện chi Thần hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng tứ
Kim phi ưng cảnh mệnh miễn niệm thần hưu, khả gia tặng Bảo An
Chánh Trực Hữu Thiện Đôn Ngưng chi Thần, nhưng chuẩn
Bình An huyện, Tương An xã y cựu phụng sự thần kỳ tương
hữu bảo ngã lê dân.
Khâm tai.
Tự Đức nhị thập nhất niên thập
nhất nguyệt thập cửu nhật.
Tạm dịch:
Sắc phong cho Thần Thành
Hoàng đình Tương An. Trước tặng là Thần Bảo An
Chính Trực Hữu Thiện, giúp nước phò dân linh
ứng tính đã lâu. Nay ta ít đức lãnh
sứ mạng lớn, liên miên nghĩ đến công ơn Thần,
nên gia tặng Thần hiệu: Bảo An Chánh Trực Hữu Thiện
Đôn Ngưng. Lại chuẩn cho xã Tương An huyện Bình An
thờ phụng thần như cũ. Còn Thần thì có
trách nhiệm bảo vệ cho dân của ta.
Kính vậy thay.
Tự Đức năm thứ 21, ngày 19
tháng 11 (1869).
Nghi thỉnh sắc, lễ vật gồm một tợ thịt heo, một đĩa trái
cây, một bình bông để trang trí, ba nhang đại
và hai đèn cầy tiểu. Tất cả các lễ vật được đặt
trong đĩa, mỗi đĩa do một ông trong Ban nghi lễ rước từ trong
bàn chánh điện ra tới long đình đặt ngoài
cổng đình, trong đàn xã tắc rồi kính cẩn
đặt vào trong long đình. Nhang đại chỉ được thắp
lên khi rước sắc từ nhà tiền hiền về đình.
Vốn dựa vào hình thức là một nghi lễ rước quan đại
thần của triều đình xưa, lễ Thỉnh sắc thần của đình
Tân An là một trong những nghi thức tô đậm nhất
màu sắc chính thống (truyền thống) theo khuôn mẫu
phong kiến cho thần Thành Hoàng và cho lễ hội
đình nói chung. Đi đầu đoàn rước thường là
phải có cờ “lệnh”, hai bên là lễ bộ cùng với
các nghi trượng khác... Lại có hai bảng đề những
chữ “Túc tĩnh” (đứng yên) và “Hồi tị” (lùi
ra) ở hai mặt của mỗi bảng dẫn trước để dẹp đường cho thần đi qua. Tiếp
theo là các đồ tự khí, tượng trưng cho uy quyền
của thần như cờ soái, ấn kiếm, võng, áo
mão... rồi đến long đình bên trong đặt các
lễ vật. Đi theo đoàn rước ngoài Ban nghi lễ đình
mặc áo dài khăn đóng màu vàng
(màu chỉ dùng trong nghi thỉnh sắc và hồi sắc),
màu xanh, quan viên chức sắc và nhân
dân địa phương còn có những thanh niên, thiếu
nữ đóng vai “Lễ sinh”, “Đào thài”, đặc biệt
là đội “Lính áp hầu” đầy đủ nón
chóp, quần áo đỏ nẹp vàng đùi quấn
xà cạp, tay cầm giáo... Mặc dù vậy, đám
rước sắc ấy vẫn chủ yếu mang không khí hội hè
đình đám với tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng nhạc
và có cả múa lân hết sức vui vẻ, náo
nhiệt...
Đoàn rước bắt đầu từ đình tới nhà tiền hiền Nguyễn
Tri Quan – nơi cất giữ sắc thần, cũng là di tích được
UBND tỉnh Bình Dương xếp hạng Di tích cấp tỉnh. Long
đình được đặt ngoài cổng, đoàn rước sắp xếp lại
đội hình, mũ áo chỉnh tề, Ban nghi lễ bái lạy theo
lời xướng của ông chánh tế rồi lần lượt bưng lễ vật
làm lễ Thỉnh sắc thần. Lễ vật trước tiên đặt trên
bàn thờ vua Thành Thái đặt giữa nhà, Ban
nghi lễ thắp đèn nến, dâng hương đại, dâng lễ vật
lên án thờ cao nhất nơi sắc thần được trang trọng đặt
trên đó mà mỗi lần làm lễ thỉnh, hồi sắc
người ta phải bắc thang để rước sắc thần xuống hoặc đặt sắc trở lại.
Ông chánh tế đọc lời khấn nguyện rước thần về đình
chứng dự lễ hội. Vị trưởng lão đội sắc thần trên đầu
nghinh tới long đình, ông chánh tế vai đeo gươm của
thần đi phía sau. Khi sắc thần đã được đặt trong long
đình thì vị trưởng lão sẽ mang thanh gươm của
thần. Tất cả mọi người trong đoàn rước đều bái lạy tại
bàn vua Thành Thái, lễ sinh cầm nến, các
bà, các chị theo đoàn rước mỗi người cầm ba
nén hương, đoàn rước lên đường rước sắc thần - thần
về đình.
Trên đoạn đường nghinh sắc bán kính 1km từ
đình thần, qua nhà tiền hiền, với ý nghĩa để thần
biết cuộc sống của người dân, để ban phát lộc cho rộng
rãi, long đình và sắc thần ghé thăm chợ -
trung tâm kinh tế trong toàn xã, những gia
đình dọc đường, cả các thần thuộc tín ngưỡng
dân gian ngự ở các miếu với ý nghĩa mời về “chung
vui” lễ Kỳ yên. Long đình đi tới đâu, không
khí hội hè nô nức tới đó, đoàn người
tham gia vào lễ nghinh thần ngày một nhiều, một
đông hơn. Có người còn tranh tới chạm tay
vào long đình, vuốt lên đầu, lên mặt con trẻ
mong con cháu mình được lộc thần mà sáng
dạ, thông minh... Khi đoàn rước tiến tới gần cổng
đình, trong đình nổi mõ, trống, chiêng, mỗi
thứ 3 hồi, nhang đèn được thắp sáng để đón
Ông về. Tiếng trống mõ trong đình, tiếng trống
mõ của đoàn rước cứ quyện lấy nhau tạo thành
không khí vô cùng tưng bừng, rộn rã
mà lại rất linh thiêng.
Mõ, trống, chiêng là 3 tự khí luôn
có trong đình Nam bộ. Trước khi tế, lấy vải đỏ phủ
cái mõ, cái chiêng, cái trống;
bên cạnh ba nhạc khí này, cắm ngọn nến, đốt
cháy, phải chăng gợi sự quan trọng lửa thời xưa, âm thanh
và ánh sáng rất cần thiết. Mõ là
khí vật riêng chỉ ở đình thờ thần Thành
Hoàng mới dùng – nơi chăm sóc trực tiếp việc
làng thời xưa. “Mõ”, chữ Hán gọi là
Thác, theo Đào Duy Anh, là miếng gỗ để đánh
canh ban đêm. Đình ở Nam bộ, đánh mõ gọi
là Kích thác. Phải chăng đây là bảo
lưu một lệ hồi xưa, nghe tiếng mõ thì dân
làng hiểu là họp dân hoặc báo động trộm
cướp, giờ đây tuy không còn nhưng tại đình
làng nó còn giữ vai trò tinh thần, mang
tính chất tượng trưng.
Đoàn rước tiến vào từ cổng chính, qua nhà
võ ca, qua chánh điện để bước vào hậu điện. Trước
tiên vẫn là đèn nến, là hương – vật soi
đường, dẫn đường đi trước rồi đoàn rước lần lượt theo thứ tự
tiến vào sau. Ông từ trông coi đình và
một vị trong Ban nghi lễ (ở đây là ông Út
Đen, vị chịu trách nhiệm chính trong lễ Kỳ yên năm
nay) đã đứng sẵn hai bên ban thờ Ông, đón lễ
vật của đoàn rước đặt lên ban thờ. Dưới lời xướng của
ông chánh tế, ông trưởng lão quỳ trước
án thần làm lễ rồi đặt khánh sắc thần lên
bàn thần, vẫn phủ vải đỏ (khánh đặt sắc thần luôn
đóng lại và phủ vải đỏ, chỉ khi nào làm lễ
mới được mở ra). Ban quý tế và những người trong
đoàn rước đồng lai bái, bà con – lúc
này đã có mặt tại đình thấy thần về cũng
nô nức tiến vào bái lạy.
Ông chánh tế thay mặt bà con khấn mời thần an vị.
Giờ đây mọi hoạt động của buổi lễ đều đặt dưới sự giám
sát của thần, không khí trong đình trở
nên linh thiêng, trang trọng hơn, không ai dám
tùy tiện vì sợ thần trách phạt.
Lễ thỉnh sanh (14 giờ ngày 14)
Nghi thỉnh sanh (thực ra là Tĩnh sanh vì tĩnh có
nghĩa là trong sạch, tinh khiết) là nghi thức xin
ý kiến thần, trình con vật sẽ tế thần khi con vật
còn sống. Để thần vui lòng mà phù hộ, ban
nhiều phước lộc cho làng thì lễ vật để dâng
lên thần không thể tùy tiện, sơ sài và
qua đó cũng thể hiện lòng kính ngưỡng của người
dân. Trước đây con vật dùng tế thần là
trâu và diễn lễ “sát ngưu tế thần”. Dần
dà, do điều kiện ngày càng khó kiếm
trâu tế thần nên bà con làm lễ xin dâng
heo thay trâu. Heo tế thần phải là heo đực, tuyền sắc
(vì theo quan niệm của dân gian, heo lai là heo
không thuần chủng, không tinh khiết), khỏe mạnh, ngon thịt,
không có dị tật. Giải thích về nghi thỉnh sanh,
các vị tiền bối trong làng kể rằng: sở dĩ có nghi
thỉnh sanh, có Ban nghi lễ thay mặt thần kiểm tra vật tế
là do trong làng có một truyền thuyết. Truyền
thuyết kể rằng trong làng có một anh chàng rất
thông minh, láu cá có lần tới xin thần ban
cho điều ước nguyện. Anh ta hứa với thần rằng nếu được toại nguyện anh
ta sẽ cúng thần một con heo lang. Thần đồng ý mà
cho điều nguyện của anh ta thành sự thật. Anh chàng
vì nghèo, vì láu cá nên
đã mang một củ khoai lang tới cúng tạ ơn thần. Đợi
lâu không thấy, thần hiện về báo mộng mà quở
rằng: trước đây nhà ngươi có hứa tạ ta một con heo
lang, tại sao đã thất hứa. Anh ta mới cãi đã đem
củ “lang” tới tạ rồi. Thần biết mình mắc lừa mà
không làm gì được. Vì vậy sau này lễ
vật dâng lên thần, thần yêu cầu phải kiểm tra xem vật
tế có đúng là thật không và phải kiểm
tra lúc heo còn sống. Trong mỗi năm Kỳ yên,
tùy theo khả năng của từng đình mà có thể
có từ một tới hai hoặc ba con “heo tế”. Nhưng chỉ con heo đầu
tiên mới cần phải thực hành lễ Thỉnh sanh, kiểm tra heo,
những con sau đó được yết để tế mà không cần phải
trình thần. Theo kiêng cữ ở đây, người dân
trong làng kiêng không nuôi, bán heo tế
thần và khi đi mua heo làm lễ người ta không
nói đây là heo để tế thần vì nếu biết người
bán sợ sẽ buôn bán không phát đạt.
Nghi thỉnh sanh là một trong chuỗi những nghi thức quan trọng
sau lễ Thỉnh sắc như lễ Túc Yết (lễ nghênh chào
và ra mắt thần), lễ Đàn Cả (lễ tạ ơn thần), tế tiền hiền,
hậu hiền là những lễ thức có ý nghĩa, nội dung, vị
trí riêng nhưng hình thức gần như tương tự nhau gồm
các bước nhạc lễ khai lễ, lễ sinh dâng lễ vật,
chánh tế đọc văn tế.
Thực hành nghi lễ có học trò lễ, chánh tế
và bồi tế, ngoài ra còn có tể giả (người
yết heo) có nhiệm vụ dắt heo lên trình Ông
và mang heo đi yết. Tất cả đều mặc áo dài khăn
đóng, màu xanh có bông.
Trước khi thực hành nghi lễ người ta chuẩn bị một con dao, mấy
tờ vàng bạc đã được se tròn lại đặt trên đĩa
cát, hương, đăng, trà, rượu. Tất cả được sắp xếp
trình lên bàn hội đồng. Ngoài ra người ta
còn chuẩn bị một túi nilông để có thể hứng
phần không sạch của vật tế, tránh làm ô uế
trước thần. Các vị trong Ban nghi lễ đứng ngay ngắn theo đội
hình. Heo sống đã được tắm rửa sạch sẽ, cột chặt lại
trên đòn, khiêng tới trước bàn hội đồng.
Nghi lễ được thực hiện tuần tự theo lời xướng của xướng quan, qua
các bước: niệm hương, dâng hương, dâng rượu. Đến
đây, xướng quan xướng “Tĩnh sanh”, ông chánh tế
và tể giả và những người tham gia nghi lễ mỗi người cầm 1
cây đèn, 3 tờ vàng bạc đi phía sau lễ sinh
bên hữu đi vòng quanh con heo xem có tì
tích gì không. Nếu không có gì
thì mới đốt 3 tờ vàng bạc, đổ rượu rồi dùng dao
kê miết một đường ngay ở cổ heo coi như thần chấp nhận lễ vật
và tễ giả mới dắt heo đi yết. Ban chấp sự dâng trà
lên thần. Lễ tất.
Trước đây heo sẽ được cột vào một thân cây
trước cổng đình, người đồ tể đặt chậu dưới máng yết heo,
trong rắc 1 ít muối. Chuẩn bị xong người ta đặt heo
lên máng, người đồ tể cầm dao chọc vào yết hầu sao
cho chỉ một nhát dao là huyết chảy ra thật nhiều, thật
mạnh vì người ta tin rằng huyết càng chảy mạnh thì
may mắn trong năm đó càng lớn. Khi huyết heo chảy ra
người ra lấy keo hứng 3 chén huyết heo, 3 chung lông heo,
lấy giấy đỏ bịt lại. Khi làm heo xong, đem heo lên
cúng phải có 3 chén huyết và 3 chung
lông heo đó. Sau phần nghi lễ, một vị trong Ban trị sự đem
keo huyết đó chôn tại một gốc cây trong khuôn
viên đình. Giờ đây, khi trình heo tế
lên thần, người ta chở heo đến nhà ông tể giả
và yết heo tại đó nhưng vẫn lấy huyết và
lông cho vào keo, chôn dưới một gốc cây tại
đình. Vì vậy ông tể giả trước khi khiêng heo
đi sẽ lấy mấy tờ vàng bạc để bịt miệng chung mao huyết.
Nghi xướng: cung tay thì 2 học trò lễ lên
bái nhau một bái xoay ra bái ông trưởng
lão và người tể giả. Mỗi người cầm 1 cây đèn
và 3 tờ vàng bạc, học trò phía hữu đi
trước, ông trưởng lão và người tể giả đi theo sau,
đi đến con sanh, đứng lại đó chờ người học trò lễ
còn lại ở tại nghi xướng, tĩnh sanh, xướng:
- Tĩnh sanh: Ông trưởng lão và học trò lễ
và người tể giả đi vòng quanh con heo xem có
tì tích gì không, xong rồi mới đốt 3 tờ
vàng bạc ấy rồi giao cho tể giả, còn người học trò
trở lại nghi xướng.
Khi làm heo phải lấy 3 chén huyết heo và 3 chung
lòng heo, lấy giấy đỏ bịt lại đến khi làm heo xong mang
heo lên cúng phải có 3 chung huyết và 3
chung lông heo.
Lễ Thỉnh sanh kết thúc tốt đẹp nghĩa là thần đã
chấp nhận lễ vật của dân làng, đồng ý những mong
ước, những lời cầu cúng mà chánh tế đã thay
mặt bà con dâng lên thần trong lời khấn nguyện.
Không khí lễ hội trong đình lúc này
thật sinh động, nô nức, bà con trong làng, người
phương xa tới. Tất cả đều đổ về đình tham gia cúng thần.
Lễ vật thường là xôi, thịt heo luộc, thịt heo quay, hoa,
quả và một số bánh trái địa phương bà con
tự làm. Tất cả phải được trang trọng rước tới đình bằng
cách đội đầu hoặc gánh, không được bưng bê
vì sợ bị ô uế. Xôi được đặt trong thúng,
bên trên che bằng lá chuối, heo quay hay heo sống
cũng được trang trí, được phủ bằng giấy đỏ, bên trên
cắm một con dao. Lễ vật mang tới đình trước tiên phải được
đặt trên bàn trong gian nhà trù, Ban tiếp
tân đứng nhận, kiểm tra lễ vật rồi mới đưa vào cúng
thần để tránh tình trạng lễ vật để không theo trật
tự hoặc có gia đình để lễ vật quá lâu. Đem
tới cúng đình, khi về ai cũng xắt lại một phần lễ vật để
lại đình, góp vào bữa tiệc đình, chỉ đem
một phần về gọi là lấy lộc cho những người trong gia đình
và mang biếu bà con nơi xa.
Gánh hát bội mà Ban quý tế đình
thuê cũng đến vào buổi chiều. Khi tới đình, trưởng
đoàn hát mặc theo lối diễn thay mặt cho gánh
hát bưng bàn thờ tổ đến trước cổng đình, đứng đợi.
Một người trong Ban nghi lễ đã có thỏa thuận từ trước
cũng mặc áo dài khăn đóng bước ra đón.
Trưởng đoàn hát trình bày lý do, xin
được vào phục vụ thần trong dịp Kỳ yên rồi rước bàn
thờ tổ đến trước bàn thần. Cả gánh hát cùng
vào bái lạy thần, bàn thờ tổ sẽ được rước xuống
dưới nhà võ ca nơi đoàn hát nghỉ lại.
Lễ Túc yết (19 giờ ngày 14)
Tiếp sau lễ Thỉnh sanh là lễ Túc yết: khi heo đã
được mổ bụng, làm sạch, bày trong máng trên
bàn hội đồng trước khánh thần, đầu con vật xoay về hướng
bàn chánh thần, bên cạnh đặt một đĩa lòng,
trên lưng cắm 1 con dao, cùng lễ vật của bà con
dâng cúng. Chủ lễ và Ban chánh tế, Ban
nguyện hương ngồi chứng dự.
Lễ Túc yết, tức là Ban tế lễ gom lại, trình diện,
diễn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ
ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là
buổi cúng Tiên thường. Đây là một trong hai
lễ chính, quan trọng nhất của lễ hội Kỳ yên vì vậy
thời gian diễn ra lâu hơn, cách thức chặt chẽ hơn, gồm hai
phần: nghi thức và đọc chúc văn.
Thực hiện nghi lễ trong nghi Túc yết gồm học trò lễ,
ông chánh tế và đào thài. Học
trò lễ gồm 16 lễ sinh được phân công đứng ở
các bàn nghi và xếp thành hai hàng
để dâng lễ vật. Khi dâng lễ vật, lễ sinh bước theo trống
nhạc, chân vẽ chữ “bát” tiến về bàn thờ thần.
Tùy theo tiếng nhạc mà lễ sinh bước mau, thưa nên
cuộc lễ cũng có thể kéo dài hay rút ngắn.
Có tất cả 6 đào thài, là người của
đoàn hát. Từ Hán – Việt âm gốc của
thài là thai, đây là tiếng tôn xưng
đối với người trên, như gọi các người trên là
thai tiền. Do tránh tiếng đào thai nên đọc trại
là đào thài. Đào thài, mỗi bên
tả ban, hữu ban 1 vị đi phía sau lễ sinh, 4 người ở giữa khi
dâng lễ vật, tùy theo tuần cúng, đào
thài vừa đi vừa thài. Đào thài chỉ tham gia
hai lễ chính là lễ Túc yết và lễ Đăng cả.
Bắt đầu từ bàn chấp sự (bàn dành cho các vị
thần quản trị ngôi đình trong lệ Kỳ yên có
nhiệm vụ chứng chiếu lòng thành, chấp nhận nghi lễ),
đào thài đi sau lễ vật, thài theo nhịp trống
vào đến bàn thần. Kết thúc thài khi lễ sinh
hoàn tất nghi lễ dâng lễ vật. Trong cả hai lễ đào
thài giống nhau gồm các bài: thài tuần
hương, tuần sơ, tuần á, tuần chung, ẩm phước, thọ tợ, tuần
trà và phần chúc với nội dung dâng lễ vật
lên thần và cầu chúc cho thần “thánh thọ
vô cương”, tạ ơn thần đã ban phước trước nay và
mong thần tiếp tục ban nhiều phước lộc cho bá tánh
nhân dân, cầu cho “người no nhà đủ thảnh thơi”,
“thánh đức thôn trung vững bền”...
Trong nghi thức tế lễ, nhạc lễ chiếm một vị trí rất quan trọng.
Nhạc lễ bắt đầu nghi thức tế và lễ sinh dựa vào tiếng
trống để bước lễ. Nhạc lễ Việt Nam xuất hiện từ thời nhà Đinh
(968), nhưng đến đời nhà Trần (1225) nhạc lễ mới được chú
trọng phát triển và được sử dụng rộng rãi
không phân biệt thành phần xã hội. Nhạc lễ
Việt Nam là sự kết hợp của ba dòng nhạc: nhạc Việt, nhạc
Hoa và nhạc Champa. Song dòng nhạc Champa chiếm vị
trí quan trọng trong nhạc lễ Việt Nam bởi tính chất ai
oán, sầu thảm của nó. Nhạc lễ sử dụng trong cúng
đình là nhạc bát âm (8 loại âm thanh)
gồm: âm kim (kim loại), âm thạch (âm đá),
âm ty (âm lụa), âm trúc (âm tre),
âm bào (âm sanh), âm thổ (âm đất),
âm cách (âm da), âm mộc (âm gỗ). Nhạc
công của ban nhạc thường có 7 nhạc công nhưng cũng
có thể gồm 4 nhạc công như dàn nhạc lễ tại
đình Tân An là đủ. Tùy vào nội dung
thỏa thuận giữa Ban nhạc lễ và Ban quý tế đình
mà nhạc lễ có thể phục vụ cả những khi có người
tới cúng thần hoặc chỉ phục vụ nhạc khi lễ sinh thực hiện nghi
lễ tế thần và phối hợp với nhạc của đoàn hát bội
khi đoàn hát diễn. Phục vụ lễ kỳ an, trong từng nghi
cúng, Ban nhạc lễ lần lượt thực hiện bài bản với từng
loại nhạc cụ.
Dưới sự hướng dẫn, qua lời xướng của xướng quan, nghi lễ được thực
hành tuần tự, đầy đủ. Mỗi ban đều lo nhiệm vụ của mình.
Trên bàn hội đồng nơi Ban nghi lễ tề tựu đặt một chiếc
giá sơn đỏ, bên trên gác chúc văn
đã gấp lại; trên bàn nhỏ đặt hương, đăng,
trà, quả, rượu. Trong ánh đèn sáng trưng,
trong không khí khói hương nghi ngút, trong
sự trang hoàng lộng lẫy của gian chánh điện, nghi
cúng vừa có không khí nô nức,
háo hức của hàng ngàn bà con chen
vào xem, vừa có cái trang nghiêm của nghi
lễ. Tiếng mõ, tiếng trống, tiếng chiêng lần lượt nổi
lên rồi hòa quyện, đan xen vào nhau vang lên
trong không gian thần thánh tựa như tiếng gọi của cả trăm
năm, tụ hội hồn thiêng đất trời. Con người, thần thánh,
thiên nhiên chưa khi nào lại gần nhau đến thế. Nhạc
lễ tiếp lệnh, tiến ra giữa bàn hội đồng đánh bản “tiếp
giá nghinh thần” mời rước thần cùng tất cả các vị
phước thần, các vị thần tín ngưỡng dân gian, tiền
hiền, hậu hiền, anh hùng liệt sĩ về cùng chung vui,
cùng ban phước lộc trong lễ Kỳ yên.
Khi nhạc sanh tựu vị là tới phần thực hành nghi lễ của lễ
sinh. Lễ sinh chân bước lễ theo chữ “bát” trong tiếng nhạc
của các bài Hạ, Nam, Đảo, tay bưng khay lễ vật gồm
dâng một tuần hương, 3 tuần rượu, một tuần trà, một tuần
hoa quả dâng lên bàn thần, tả ban, hữu ban, tiền
hiền, hậu hiền. Mỗi bàn đều có một vị trong Ban nghi lễ
túc trực để tiếp nhận lễ vật đặt lên bàn.
Đào thài thài sau lễ sinh, ăn mặc rực rỡ mà
kín đáo, tay cầm quạt phe phẩy, miệng hát
bài thài tạo nên một quang cảnh dập dìu như
sóng rất đẹp mắt.
Khi hết ba tuần rượu, ông chánh tế sẽ đọc chúc văn.
Chúc văn là bản văn ca ngợi công đức của thần
và cầu xin ân đức thần. Trước đây chúc văn
được đọc với lời lẽ ê a, như tụng kinh, rất khó nghe
và được viết bằng chữ Hán trên nền giấy đỏ. Nay
người chấp sự đọc theo kiểu cải cách, dễ nghe hơn và
âm vẫn là âm tiếng Hán nhưng là chữ
quốc ngữ do đã được phiên âm ra.
Chúc văn đọc xong được đốt rồi lấy rượu rảy lên để gửi lời
khẩn cầu của bá tánh cho không riêng thần
Thành Hoàng mà cho cả tập hợp phúc thần
theo tín ngưỡng dân gian được mời về cùng “phối
hưởng” trong ngày lễ Kỳ yên. Đốt chúc văn xong lễ
sinh tiếp tục dâng một tuần trà, một tuần hoa quả. Lễ tất.
Các vị trong Ban nghi lễ đồng bái lạy rồi lui ra.
Một nghi lễ đầy đủ gồm 74 bước. Mỗi bước đều mang tính chất
trang nghiêm, tạo nên một không gian lễ hội linh
thiêng, thần thánh mà chỉ có trong
không gian đình, trong niềm kính ngưỡng vô bờ
mà lòng tin của người dân gửi gắm vào mới
có được. Thế mới biết rằng, không chỉ trong thời gian đầu,
do xa xứ, tha hương, do cần một chỗ dựa tinh thần vững chắc để dựa
vào trước một thiên nhiên hùng vĩ, kỳ
bí con người ta mới tin, mới thờ thần Thành Hoàng
mà tín ngưỡng đó đã ăn sâu vào
gốc rễ tâm hồn người Việt, trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong đời sống tâm linh của mỗi làng
xã, mỗi con người để đứng trước biến đổi không ngừng của
xã hội giá trị văn hóa đó vẫn bất biến.
Sau lễ Túc yết người ta đem heo xuống xẻ thịt, chế biến
thành các món ăn phong phú, đa dạng
tùy vào bàn tay khéo léo của Trưởng
Ban hậu cần. Nhưng dù gì, một heo cúng cũng phải
được luộc lên, đầu heo đặt trên bàn chánh,
các bàn: tiền hiền, hậu hiền, tiên sư, nam nữ
bách tính... mỗi bàn một be sườn, một tợ thịt heo
luộc, một khúc lòng; riêng bàn Thần
Nông đặt nọng heo. Nước luộc heo dùng nấu cháo phục
vụ bà con và những người túc trực tại đình
về khuya. Bà con lúc này kéo tới
đình rất đông vì tiết mục chính phục vụ
bà con – phần hội sắp bắt đầu – tiết xây chầu đại bội
và diễn tuồng.
Tiết xây chầu đại bội (21 giờ ngày 14)
Ở Nam bộ, khi người ta nhắc đến lễ hội thường kèm theo câu
nói cửa miệng “yến diễn ca xướng”, nghĩa là khi
đình đám thì phải có tiệc tùng diễn
xướng, trong đó hát bội và ca nhạc tài tử
là chương trình không thể thiếu. Riêng phần
hát bội trong cúng đình vốn vừa là
hình thức sinh hoạt văn nghệ, giải trí với chương
trình hát tuồng hào hứng (phần hội) vừa là
nghi thức nghiêm túc với tiết mục Xây chầu, Đại bội
và Tôn vương, Hồi chầu để mở đầu và kết thúc
chương trình hát tuồng đó (mang tính chất
lễ). Căn cứ vào lời lẽ chúc tụng, ta có thể
đoán chắc việc Xây chầu bắt nguồn từ thời Gia Long.
Xây chầu còn gọi là lễ Khai tràng, sẽ được
cử hành sau lễ Túc yết của đình và trước lễ
Đại bội của đoàn hát. Bởi “đuôi Xây chầu, đầu
Đại bội” và trong tâm thức của dân gian xây
chầu - đại bội là một nghi lễ rất quan trọng, nếu tổ chức trọn
vẹn sẽ thuận gió hòa mưa, mùa màng tươi
tốt, cuộc sống ấm no, hạnh phúc muôn nhà... Ta
có thể hiểu là phần cầu an khi xong phần tế lễ vậy. Xưa,
nông nghiệp là gốc của sự phát triển, là yếu
tố căn bản để vua ngồi vững trên ngôi báu, dân
không nhiễm tật xấu, nảy sinh trộm cướp, nghe lời xúi giục
kiểu “sấm truyền” dị đoan mê tín. Muốn ổn định thời tiết,
ổn định trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo
sự vận hành của trời đất mà kim chỉ nam là Kinh
Dịch, với thuyết Âm Dương, Bát Quái (càn,
khảm, cấn, chấn...), ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Việc
Xây chầu nhắc nhở nguyên tắc ấy. Làng xã nằm
trong vũ trụ lớn. Xây chầu, nói đơn giản, là
dùng tiếng trống chầu, đánh rõ từng tiếng, để
khuyấy động, nhắc nhủ hòng đổi mới trời đất với việc dùng
âm thanh và ánh sáng. Phải có ngọn
nến cháy nên giá đặt cái trồng (gọi trống
này là Thái cực), trống phải sơn màu đỏ,
mặt trống vẽ hình tròn âm dương.
Vì tầm quan trọng đó, lễ Xây chầu được chuẩn bị rất
kỹ càng. Kỹ từ người đứng xây chầu đến thời gian
xây. Người đứng xây chầu phải là một cụ cao
niên trong làng, có sự hiểu biết, có đạo
đức, có cuộc sống mẫu mực và con cháu đề huề bởi
người nào không hội đủ những tiêu chuẩn đó,
nếu đứng xây chầu sẽ không trấn yểm được tà
khí, có thể gục ngay tại sân đình hoặc về
thọ bệnh mà mất. Thời gian xây chầu mỗi dịp một thay đổi
chứ không cố định một giờ do giờ xây chầu phụ thuộc
vào giờ thủy triều. Người hiểu biết sẽ tính giờ con nước
lên cao nhất trong ngày và lấy đó là
giờ làm lễ vì theo quan niệm của người xưa đó
là giờ tốt nhất. Đó là tâm thức của cư
dân sống bằng nông nghiệp, của những con người vùng
sông nước.
Hình thức xây chầu:
Xây chầu có ba hình thức: Xây chầu văn,
xây chầu võ, và xây chầu bán văn
bán võ. Tại đình Tân An, nghi thức theo
xây chầu văn. Phần đầu của lễ Xây chầu là phần nghi
thức tế do Ban nghi lễ đình đảm trách, cũng gồm
các phần: niệm hương, dâng hương, dâng rượu, đọc
chúc văn. Khi chúc văn được đọc xong, Ban trị sự dẫn
người xây chầu nhập đàn. “Đàn” Xây chầu
không phải trên một đàn cao mà được thực hiện
ngay trong khoảng trống tại gian chánh điện và cũng
không trước bàn nghi nào. Trong khoảng trống
đó người ta đặt một trống cái trên đặt dùi
trống. Mặt trống được phủ khăn đỏ. Xây chầu gồm 3 phần.
+ Phần thứ nhất: Bắt đầu nghi lễ ông bái cầm hai
chéo khăn đỏ, trên có đặt dùi trống rê
xung quanh và khấn những câu có nội dung nói
lên ý nghĩa của lễ Xây chầu:
1.
Kích cổ kỳ đường thấu tứ phương
2.
Thinh chấn huyên thiên phu thượng hạ
3.
Điền nhiên động địa đáo đàng tràng
4.
Xuân thu huyết thực tế như tại
5.
Hương hỏa nghi sanh ứng hữu thường
6.
Ủng hộ quốc gia tăng phước khánh
7.
Huê phong kiến chúc thọ vô cương
+Phần thứ hai: ông bái và nhất nhất cử động của
người xây chầu đều mang ý nghĩa:
1.
Nhất bái thiên thiên gián phúc
2.
Nhị bái địa địa gián nghinh tường
3.
Tam bái thánh thần an định vị
4.
Phò trì hương đãng thọ thiên thu
5.
Nguyên đường kim thánh thọ vô cương
6.
Minh tề bổn cảnh thiên hạ thái bình
7.
Nguyên chư lão tiêu diệt, chấp tri thủ trung chỉ
+ Phần thứ ba: Mỗi câu đọc xong ông đánh một tiếng
trống: “Chánh thần ứng, tà thần khứ”.
Thơ phù viết:
Chánh thần ứng, tà thần khứ
Nhất trừ tai ương, nguyện chủ tai tiêu diệt
Nhị trừ tà quỉ
Tam tống hung tai
- Nhất trịch thiên linh gián phúc (nhịp dùi
trống 1 tiếng)
- Nhị trịch trừ địa sát tai ương (nhịp dùi trống 1 tiếng)
- Tam trịch trừ tà ma, lai khê thủ (nhịp và
cúi đầu)
Tùng tư hương đãng thọ miên trường
- Nhất điểm thông thiên thiên thượng chí
(đánh 1 tiếng)
- Nhì điểm thấu địa địa thần lai (đánh 1 tiếng)
- Tam điểm chánh thần an định vị (đánh 1 tiếng)
Phò trì hương đãng thọ thiên thu
Tiền phát cổ tam thinh (đánh 3 tiếng)
Hậu phát cổ tam liên
Nhất liên thấu triệt thiên đình (đánh 1 hồi
27 tiếng)
Nhị liên thấu triệt thông trung giới (đánh 1 hồi)
Tam liên thấu triệt long cung (đánh 1 hồi là đủ 3
hồi)
PHẢN NHẤT TRỊCH
Cầu thỉnh thánh thần cổ tam thinh (đánh 3 tiếng)
Chư thánh chư thần đồng tụ hội
Tùng tư hương đãng thọ miên trường
Nguyên đương kim Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hoàng đồ củng cố Quốc kế kỳ xương
Bắc đẩu qui tôn tinh thần lai tiếu ngạo
Bác thiên xuân động bái nô xa nhất
kích
KÍCH TAM THINH
Nhất thinh nguyện sắc thấu thiên đình (đánh 1 tiếng)
Nhị thinh nguyện quốc thái dân an (đánh 1 tiếng)
Tam thinh nguyện hương đãng bá tánh nhân
dân (đánh 1 tiếng)
nam phụ lão ấu phường xã Tân An hòa
bình khương thái.
LỄ THÀNH
Qua nghi lễ Xây chầu ta thấy đó là hình thức
mượn sức mạnh của thần tiễu trừ tà ma, quỷ mị, tai ương, hung
tai; dùng tiếng trống khai thông thiên địa, khai
thông nguồn sức mạnh trong trời đất làm cho “chánh
thần ứng, tà thần khứ” ban phước thọ cho dân, ủng hộ quốc
gia tăng phước khánh, làm cho “quốc thái dân
an”, mùa màng, vạn vật tươi tốt, người người no đủ, hạnh
phúc. Nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam phải
chăng phảng phất đâu đây, ta nhớ đến trống đồng Ngọc Lũ
(Đông Sơn), những hồi trống của nhạc đời Tây Sơn.
Dùng triếng trống để tế thần, đồng thời huy động thần lực,
trí tuệ của dân tộc. Cũng có thể coi đây
là nghi lễ cầu mưa của cư dân nông nghiệp mà
tiếng trống là tiếng sấm báo hiệu những cơn mưa mang đến
sự tốt tươi, sự phát triển, sinh sôi, nảy nở của cây
trồng.
Kết thúc lớp khai tràng, ông chấp sự đánh 3
hồi trống, bao nhiêu tiếng không quan trọng nhưng sao cho
tới 3 tiếng trống cuối cùng (rục... rục... rục) thì tiếng
trống chiến trên sân khấu của đoàn hát cũng
đáp lại và lễ Đại bội bắt đầu.
Lễ Đại bội tiến hành ngay sau lễ Xây chầu. Lễ này
do các nghệ nhân đoàn hát bội đảm
trách. Lễ Đại bội có nguồn gốc từ cung đình nhằm
ý nghĩa giải thích một cách hình tượng
thuyết dịch lý từ thái cực sinh lưỡng nghi, rồi tam
tài, tứ tượng, ngũ hành, bát quái
thông qua hình thức nghệ thuật cụ thể là bằng
các màn múa (kèm các lời cầu
chúc mưa thuận gió hòa, dân khang vật
thịnh...). Ở các đình thần Nam bộ cũng bắt chước lễ
này nhưng được thu hẹp trong phạm vi làng xã
và những lời chúc tụng không phải cho vua quan
mà là cho dân làng. Theo các
nhà nghiên cứu thì từ bội là thuật ngữ người
xưa dùng để chỉ một trò diễn trong lễ cầu siêu cho
người chết, có từ thời Lý đi kèm với lẽ
cúng của Phật giáo: “Trong chay ngoài bội”. Sau
đó dùng để chỉ một loại hình nghệ thuật:
Hát bội. Tiết mục Đại bội gồm 5 màn:
Trước tiên là màn Thiên Lôi mở cửa
trời. Màn múa thể hiện cảnh trời đất còn hỗn mang
– hình tượng thái cực và rồi Thiên Lôi
bằng lưỡi búa tầm sét của mình tạo ra sấm
sét, cho mưa xuống mới tạo thành sự sống của con người
mà thần thánh hóa bằng việc “mở cửa trời”.
Thái cực sinh lưỡng nghi – hai nghi: nghi âm và
nghi dương thể hiện bằng hình tượng mặt trăng và mặt
trời. Màn múa thể hiện sự tuần hoàn, trôi
chảy của thời gian, sự vận động của vạn vật trong thời kỳ trời đất mới
phân chia. Có cảnh nhật thực rồi nguyệt thực và
cuối cùng là sự vận động, tuần hoàn trơn tru để
tạo mưa thuận gió hòa.
Màn thứ 3 là màn 3 ông Phước, Lộc, Thọ tay
cầm bình bông, hoa quả hát lời chúc
phúc, lộc, thọ cho dân, cho xã Tân An. Lời
chúc mang nội dung cầu cho non nước thịnh giàu, dân
khang vật thịnh, cầu cho bội thu sản phẩm, mùa màng tốt
tươi. Có sự thỏa thuận trước giữa Ban quý tế đình
và đoàn hát bội về nội dung cầu chúc do đặc
điểm của người dân nơi đó sống chủ yếu bằng nghề
gì. Nếu là nghề nông thì bài
hát chúc cho mùa màng bội thu, là
nghề ngư thì cầu cho cá tôm đầy thuyền...
Bình bông và hoa quả là lễ vật dâng
lên thần, Ban nghi lễ đình cử người nhận lễ vật và
ngược lại sẽ “lì xì” lại cho đoàn hát.
Lưỡng nghi sinh tứ tượng, màn thứ 4 là sự xuất hiện của 4
vị thần cai quản bốn phương đông, tây, nam, bắc. Bốn vị
còn mang ý nghĩa “phong điều vũ thuận”, “hải yến tứ
phương”. Mỗi thần trong tay cầm một tấm liễn viết bằng chữ Hán
màu đen trên nền giấy đỏ có nội dung nguyện cầu,
chúc tụng:
“Kích cổ tam thông đãng đãng chức dân
phúc lý
Hoàng dương nhất cục hi hi nhân vật hòa bình
Lập vũ ca tràng chí tại nhĩ hà văn thủ lạc
Trần chung cổ cục tâm tồn hương hội thừa hoan”
Nội dung lời chúc của những tấm liễn là do người am hiểu
lễ nghĩa, am hiểu chữ Hán trong địa phương viết, thay mặt
nhân dân mà viết nên lời chúc, lời
nguyện dâng lên thần. Bằng động tác múa đẹp
mắt, 4 vị thần lần lượt xếp thành 3 chữ Hán: Tứ
Thiên Vương. Kết thúc màn múa ở chữ Vương,
ông từ sẽ nhận 4 tấm liễn này dán lên
trên 4 cột đình trong chánh điện.
Tiếp theo là “Ngũ hành” - năm vật chất cấu thành
vũ trụ theo thuyết ngũ hành gồm: kim (kim loại), mộc (cây
cối), thủy (nước), hỏa (lửa) và thổ (đất). Thể hiện trong
màn múa gồm 4 nữ tượng trưng cho 4 “hành”
và một vị nam tượng trưng cho hành thổ - hành
trung tâm. Ngũ hành cũng hát lời chúc
bình an, may mắn, làm ăn phát đạt cho vùng
đất Tân An.
Màn cuối cùng gọi là màn “Gia quan tấn
tước” – phong tước cho thần cũng bằng tấm liễn màu đỏ viết chữ
Hán và đóng “cửa trời”. Đến đây màn
Đại bội kết thúc và cũng kết thúc ngày thứ
nhất của lễ hội. Bà con kéo nhau ra về hẹn ngày
hôm sau ra đình để cúng thần và thưởng thức
chương trình hát bội.
Người dân xem đại bội tuy không hiểu rõ nguồn gốc,
gốc tích của từng truyền thuyết, ý nghĩa của mỗi
màn diễn nhưng dựa vào những lời hát chúc
ai cũng biết rằng đây là màn diễn cầu phước cho
bá tánh, cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho
quốc thái dân an... và ai cũng bị cuốn hút
bởi những vũ điệu đẹp mắt, ấn tượng, sự hài hước, tươi vui
mà đoàn hát đem lại. Đó cũng là tinh
thần của mỗi người dân khi đi cúng đình vậy, vừa
thể hiện lòng kính ngưỡng, vừa mang về tâm trạng
tươi vui, phấn khởi và háo hức mong chờ những dịp Kỳ
yên sau.
Chương trình hát bội diễn ra trong 2 ngày, diễn 3
tuồng, ngày đầu diễn 2 tuồng: “Ngọc Kỳ Lân xuất thế”, “Lưu
Bị cầu hôn Giang Tả - người đẹp nhất Giang Đông”, tới
sáng 16 diễn tuồng “San Hậu thứ 3”. Tuy mỗi tuồng hát
và hát bao nhiêu tuồng là có sự thỏa
thuận giữa Ban quý tế đình và đoàn
hát nhưng dù diễn tuồng nào thì nội dung
chính là những cảnh đầu diễn cảnh loạn lạc và
những màn cuối bắt buộc chính nghĩa phải thắng gian
tà, kẻ xấu phải bị trừng trị... Như vậy, ngay trong bản
thân chức năng hát bội trong cúng đình cũng
không hoàn toàn là trò diễn văn nghệ
mang tính chất hội mà còn là mang
tính cách nghi lễ. Vì vậy phải có người
“cầm chầu” thay mặt thần khen khi đoàn hát diễn hay
và chê khi đoàn hát diễn dở, diễn
không hết tuồng. Người cầm chầu bình thường gõ
trống chầu khi diễn viên hát dứt câu, nhưng nếu diễn
viên hát dở hoặc muốn phê phán, ông cầm
chầu đánh trống chầu ngay khi người diễn viên cất tiếng,
gọi là “chặn họng” để diễn viên biết mà hát
tử tế. Nhưng ở đình Tân An này, do biết sự linh
thiêng của thần nên không diễn viên nào
dám sơ suất và tuồng nào cũng diễn ra đầy đủ nội
dung, thời gian và chất lượng.
Trước đây trong lễ hội Kỳ yên phần hội thể hiện không
rõ nét, chủ yếu là qua những tuồng hát của
đoàn hát bội. Có lẽ đó là dấu ấn
trong tâm thức của người dân trong những ngày đầu tổ
chức Kỳ yên. Nơi đây vốn hoang vu, rừng rú rậm rạp,
thú dữ lúc nào cũng rình rập quanh
vùng nên mỗi năm tới dịp bà con tề tựu đông
đủ cúng thần nhưng cũng không dám tập trung
lâu, chỉ dám tranh thủ cúng một buổi rồi mọi người
đưa nhau về vì vậy mà trong lễ hội đình
làng miền Nam thiếu vắng những trò chơi dân gian
rất phổ biến như lễ hội đình làng miền Bắc. Nhưng những
năm gần đây, đất nước hòa bình, đời sống của
bà con ngày càng được cải thiện, nâng
lên một tầm mới, nhu cầu tâm linh và thưởng thức
nghệ thuật cũng như tham gia những trò chơi dân gian
ngày càng được coi trọng. Vì vậy Kỳ yên năm
nay, dưới sự chỉ đạo của UBND xã, xã đoàn thanh
niên Tân An đã tổ chức những trò chơi như
ném còn, đẩy gậy, nhảy bao bố, thi đấu bóng
chuyền... thu hút nhiều thanh niên trong xã tham
gia tạo nên một không khí rất lễ hội và cũng
thật lành mạnh. Cây còn được dựng đơn giản,
không bằng tre và cũng không cao như trong
trò ném còn của các dân tộc ít
người anh em nhưng để ném quả còn xuyên qua được
trong vòng tròn quả thật không đơn giản. Bởi thay
vì làm bằng cát thì quả còn ở
đây là trái bóng tennis được bọc trong tấm
vải đỏ. Tuy không dễ nhưng đội nào cũng cố gắng ném
qua một lần vì trong tâm tưởng ai cũng tin rằng ném
qua được vòng tròn đó thì may mắn sẽ đến
rất nhiều trong năm.
Lễ tế tiền bối, hậu bối và chiến sĩ (10 giờ ngày 15)
Tế tiền bối, hậu bối và chiến sĩ là nghi lễ tưởng nhớ đến
công ơn “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ” - lớp người đầu
tiên tới khẩn hoang, có công lao lập ấp, lập
làng, xây dựng đình miếu và chiến sĩ trận
vong là những người có công khẳng định công
lao, giữ gìn từng tấc đất mà tổ tiên đã mất
bao mồ hôi xương máu khai khẩn, tạo dựng. Tế tiền bối, hậu
bối và chiến sĩ là nghi thức quan trọng không thể
thiếu trong lễ hội Kỳ yên, thể hiện một tâm lý
xuyên suốt, sâu sắc trong tâm thức người Việt:
lòng biết ơn tổ tiên mà trong nhà đó
là thờ ông bà, ra làng là thờ
Thành Hoàng, tiền bối, hậu bối và chiến sĩ -
dòng chảy lịch sử của những cuộc đấu tranh để có cuộc
sống ấm no, yên bình, hạnh phúc như ngày
hôm nay. Tế tiền hiền phía trước đình và tế
hậu hiền phía hậu đình. Tham gia nghi lễ có học
trò lễ, xướng quan và chánh tế. Lễ vật là
một tợ thịt, xương sườn, hương, đăng, trà, quả, rượu. Nghi lễ
cũng gồm các nghi thức: dâng hương, dâng rượu,
dâng trà, đọc chúc văn và đốt văn tế. Trong
nghi tế tiền hiền, hậu hiền có văn tế riêng. Viết rằng:
“Tiền đại kinh doanh, hậu nhân tấn kế quyền khai thiết lập, kiến
tạo. Đình từ tế trị phất mạnh vạn cổ phương danh, thiên
thu nghĩa khí. Công ký can đức ký trọng hải
tùng tiền công an thành chi chí đại vị
viên quan trưởng lão chi công quy vị hiền lương
tiên triết chi vị chứng thôn thần phi bạc cung trần chi lễ
bảo hộ thôn trung, phò trì hương lý”
là những lời tri ân công đức “tiền hiền khai khẩn,
hậu hiền khai cơ” và hôm nay Ban nghi lễ thay mặt
bá tánh soạn lễ mọn mời các vị về chứng dự
và “bảo hộ thôn trung, phò trì hương
lý”.
Chúc văn:
“Trịnh bổn thôn viên quan, công nhân viên
chức, hương chức tân cựu, nam phụ lão ấu, đại tiểu đẳng tư
nhơn đồng triết lệ tế tiền nhân. Chánh lễ cẩn vĩ
bàn soạn thanh chước kim ngân, hương đăng hoa quả thứ phẩm
chi nghi cảm chiêu tế du. Tiền đại tiên hiền tiên
triết chi vị tiền giảng, viên quan chi vị, tiền giảng dịch mục
chi vị, tiền giảng liệt sĩ chi vị.
Viết:
Tiền đại kinh doanh hậu nhân tấn kế quyền khai thiết lập kiến
tạo. Đình từ tế tự phát manh vạn cổ phương danh
thiên thu nghĩa khí. Công ký can đức
ký trọng khải tùng tiền công an thành chi
chí đại viên quan trưởng lão chi công quy vi
hiền lương tiên triết chi vị chứng thôn thần phỉ bạc cung
trần chi lễ bảo hộ thôn trung, phò trì hương
lý.
Ngưỡng lại.
Tiền nhân chi gia huệ giả.
Phục vi thượng hưởng”.
Chúc văn đọc xong được đốt và rưới bằng rượu theo
đúng tâm linh người Việt: như vậy lời khấn của mình
đã được “gửi” đi.
Lễ Đàn cả (19 giờ 30 phút ngày 15)
Lễ Đăng/Đàn Cả hay Đoàn cả là lễ chánh
cúng của lễ hội Kỳ yên, mang ý nghĩa tạ ơn thần.
Người dân bày lễ dâng cúng lên thần với
tâm nguyện tạ ơn thần đã cho những năm mưa thuận
gió hòa, dân khang vật thịnh. Nghi lễ quan trọng
không chỉ vì hình thức nghi lễ mà vì
bản thân tính chất của lễ đăng cả. Bởi nhớ ơn, tạ ơn, tri
ơn người mang lại ấm no, hạnh phúc, an bình cho bản
thân, cho làng xã mình là một trong
những nét tiêu biểu trong tính cách người
Việt. Vả chăng, dâng lễ vật tạ ơn thần là để tiếp tục mong
cầu những điều tốt đẹp khác nữa nên chẳng ai không
lễ thần với tất cả tấm lòng thành tâm của
mình.
Lễ vật dâng lên thần trong nghi Đăng cả là một heo
tế - heo đực, màu đen, không dị tật. Heo đã được
yết, mổ bụng, làm sạch, đặt trong máng trên
bàn hội đồng, ở giữa lưng heo có cắm một con dao,
bên cạnh là một đĩa lòng.
Nghi thức diễn ra giống như đã “diễn tập” trong lễ Túc
yết. Nhưng thực hành nghi Đăng cả có nhiều học trò
lễ hơn, gồm 16 người và trên điện thờ thần có 6 học
trò lễ đứng ở 3 cửa hộ vệ cho thần, nghi thức được thực
hành trang nghiêm, cẩn trọng hơn. Khi dâng lễ vật,
học trò lễ tiến lên bàn thần bằng 4 hàng,
có Đào thài hát bài thài
phía sau. Nghi lễ qua 2 phần: phần đầu dâng hương, 3 tuần
rượu (sơ hiến, á hiến, chung hiến), dâng trà,
dâng hoa quả và phần thứ hai là thụ lộc thần: uống
phần rượu và ăn phần thịt, trái cây đã
cúng mang tính chất tượng trưng, ăn và uống thay
mặt cho dân làng.
Từng bước thực hành nghi lễ đều gợi đến việc nghênh
đón, tiếp đãi vua, quan thời xưa như khi xướng quan
hô: “Khởi cổ lịnh”: nhạc công đánh 3 hồi trống
lịnh. Đây là cái trống nhỏ, cầm tay, có
cán. Thời xưa, vua hoặc quan đại thần đi ngoài đường,
có tên quân hầu cầm loại trống này, chạy
phía trước, mở đường. Tiếng trống này giúp ta
tưởng tượng vị thần đang ở trên đường vào đình
miếu, đã tới ngoài cổng rồi. Nhạc lễ đánh bản
Nghinh Thiên Tiếp Giá, dành tiếp rước nhà
vua, tưởng tượng như vị thần đang ngự trên bàn thờ, thay
mặt cho nhà vua để nhận lời thỉnh cầu của dân làng.
Dâng rượu cho thần gọi là “Hiến tước”. “Tước” là
kiểu chén đựng rượu bằng đồng, thời cổ, thời đại đồ đồng. Tước
có 3 chân ngắn và 2 cánh ngạnh; vị thần
(hoặc quan to) cầm tước với 3 cái chân, đưa lên
miệng, ngửa mặt mà uống, nhờ 2 cái ngạnh tựa vào
má mà rượu không đổ ra ngoài.
Thời gian thực hành ở nghi Đăng cả khá lâu, khoảng
hơn 1 tiếng. Ban nghi lễ thực hành nghi lễ với những động
tác trang nghiêm, chậm rãi. Những người lớn tuổi
xem lễ, rảnh rang có thể thư giãn tinh thần trong bầu
không khí đầy ánh sáng lung linh của nến,
giọng thôi thúc liên tục của nhạc lễ, thêm
màu sắc và bước đi cách điệu của học trò
lễ. Những bước đi của học trò lễ như mô phỏng phần
nào dáng đi của vũ sinh trước kia thường múa
dành cho ông hoàng, bà chúa thưởng
thức riêng ở cung điện, rồi du nhập vào phía đồng
bằng sông Cửu Long và Đồng Nai, trở thành
món ăn “bình dân” cho dân gian, khi khẩn
hoang. Những người cố cựu, bảo lưu truyền thống xưa, bảo đó
là sáng kiến của Tả Quân Lê Văn Duyệt, khi
ngài làm Tổng Trấn cai quản toàn Nam bộ. Ở Huế,
có múa hát riêng cho vua chúa
và hoàng tộc thưởng thức như là đặc quyền, đặc
lợi; vào Nam bộ, Lê Văn Duyệt với quyền hạn lớn như vị
Phó vương cũng tự xem mình đặc quyền đặc lợi không
kém và bình dân hóa những thứ giải
trí của giới quý tộc. Tham khảo những sách ghi lại
các kiểu đi theo hình chữ Hán thấy mỗi lần
dâng là một kiểu chân đi khác nhau. Nhưng do
điều kiện không có người truyền dạy cũng như đơn giản
hóa dần nên hiện ở đình Bình Dương chỉ phổ
biến kiểu chân đi chữ “bát”.
Tiếp ngay sau lễ Đăng cả là tuồng “Lưu Bị cầu hôn Giang Tả
- người đẹp nhất Giang Đông”. Bà con lúc này
tới đình càng đông, vòng trong vòng
ngoài bao lấy sân khấu đình, không chỉ
là những người lớn tuổi mà rất đông nam thanh nữ
tú vừa là cúng thần, vừa đi chơi hội.
Tôn vương
Tôn vương là hình thức mượn một tình tiết
trong phần kết của một vở tuồng được chọn trước - ở đây là
vở San Hậu có nội dung “Tôn vương tức vị” (với nghĩa
bóng là vua đăng quang và quân thần
chúc tụng) nhằm vừa kết thúc chương trình
hát bội vừa tạo ra hình tượng sân khấu hóa
các nhân vật quần thần trong triều đình đồng loạt
kéo xuống cùng với Ban tế lễ của đình cùng
vào chúc tụng thần Thành Hoàng để rồi sau
đó kết thúc phần hát bội trong lễ hội Kỳ
yên. Đây là một màn tuồng vừa mang
tính chất hội, vừa mang tính chất nghi lễ, có
ý nghĩa tâm linh rất lớn trong lòng mỗi người
dân. Đó là sự suy tôn của họ với vị thần
làng, là sự “chính danh” của thần trong xã
hội, đối với triều đình. Vì vậy lễ hội Kỳ yên trong
những năm đất nước còn loạn lạc ở đình Tân An
không có màn “tôn vương” mà chỉ
có “tôn tướng”. Đây cũng là một nét
thể hiện tinh thần của người dân đất Tân An, quyết
không cúi đầu hàng phục trước bè lũ
xâm lăng và được thể hiện vừa sâu sắc, vừa rõ
ràng qua một nghi lễ trong lễ hội đình làng.
Lễ đưa sắc
Tôn vương là kết thúc phần “hội” của lễ hội
và lễ đưa sắc diễn ra sau đó để kết thúc phần
“lễ”. Đây là nghi sắc là lễ đưa sắc thần về nơi tọa
vị - nhà tiền hiền Nguyễn Tri Quan và còn gọi
là hồi sắc. Nghi tiết thực hiện như nghi thỉnh sắc: từ đội
hình đoàn rước, lễ vật rước đến nghi thức thực
hành nghi lễ nhưng lộ trình ngược lại. Trước khi rước sắc
đi Ban nghi lễ đồng bái lạy, ông chánh tế khấn xin
rước thần hồi lại nhà. Long đình được đặt trước cổng
đình, đoàn đưa sắc đứng đợi theo thứ tự, ông trưởng
lão đội khánh sắc đi trước, ông chánh tế vai
mang kiếm thần theo sau. Khi khánh sắc đã được đặt trong
long đình, ông chánh tế hô “an thần vị du
long xa” như lời hiệu lệnh, đoàn rước lên đường.
Lời khấn nghi hồi sắc cơ bản như sau:
“Quê hương tế lễ an bày, các cao phẩm giá
hồi cung
Cung vi tôn thần thánh sắc cúng lễ hoàn
thành,
Khấu bái cung thần, thỉnh oai tựu vị”
Sắc thần lại được trang trọng đặt trên ban thờ nhà tiền
hiền để rồi 3 năm sau nghi lễ lại diễn ra, tuần hoàn, trôi
chảy trong dòng chảy văn hóa không bao giờ ngừng.
Tín ngưỡng không như tôn giáo là chỉ
dành cho những người tin theo một tôn giáo như Nho
giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo.
Tín ngưỡng xuất hiện rất lâu đời và có vị
trí quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người
dân. Đó là sự thờ phụng, sự tin theo nơi tiềm năng
vào những lực lượng siêu nhiên có tính
kế tục từ thời trước qua thời sau, từ thế hệ cha anh đến thế hệ con
cháu. Không bắt buộc, không giảng đạo lý,
không bắt tin theo nhưng ai cũng tin, cũng thành
tâm, cũng ngưỡng vọng, bởi đó là những phúc
thần, những người phù hộ cho cuộc sống của mọi người tốt đẹp. Lễ
hội theo tín ngưỡng cũng vậy, không bắt buộc nhưng lại thu
hút rất đông bà con đến tham dự. Ai cũng phải
ghé vào cúng rồi xin, rồi trong năm đó mới
yên tâm làm ăn được. Lễ hội các vị thần theo
tín ngưỡng diễn ra ở đình, miếu và ý nghĩa
nhất, rõ nét nhất, linh đình nhất, màu sắc
nhất vẫn là lễ hội diễn ra ở đình. Người dân
Tân An cũng mang theo những tiềm thức đó, thế hệ trước
truyền cho thế hệ sau từ ý nghĩa cho tới nghi thức và lễ
hội trở thành lễ hội cổ truyền, điển hình nơi đây,
là phong tục tập quán của địa phương. Nó
đáp ứng nhu cầu văn hóa tín ngưỡng, là chỗ
dựa tinh thần của nhân dân (hy vọng thần luôn
phù hộ cho dân làng sống bình yên...).
Mỗi năm Kỳ yên là dịp bà con trong làng tập
trung về đông đủ, tỏ lòng thành kính đối với
người có công bảo vệ xóm làng, thể hiện tinh
thần uống nước nhớ nguồn, là kế thừa nét văn hóa
cổ truyền ông cha để lại cũng như thể hiện bản sắc văn hóa
của cư dân người Việt. Thể hiện tinh thần đoàn kết,
trách nhiệm trong công tác chung của làng
xã. Giúp cho mỗi người dân trong địa phương cảm
nhận được nét văn hóa cổ truyền mà ông cha
để lại, có ấn tượng sâu sắc về lễ hội. Qua đó
có thái độ và hành động trân trọng
đối với những gì mà địa phương mình có. Thể
hiện mối quan hệ, giao lưu giữa các làng này với
làng khác, địa phương này với địa phương
khác (mời Ban quý tế đình, miếu bạn đến
cúng đình làng mình).
L.G - H.T