Dầu Tiếng - Trị
Tâm
Lưu Thanh Bình
(Tặng anh Nguyễn Viết Tân, người bạn đồng hương mới quen )
Những nẻo đường quê hương:
Tên gọi Trị Tâm chỉ có kể từ năm 1955.
Nghe giống như …bình định. Thời kỳ 55-63 là thời kỳ huy
hoàng, sung túc nhất của Dầu Tiếng. Lúc bấy giờ,
diện tích trồng cao su của Michelin vươn ra đến Minh Thạnh (
Bình Long); so với Bến Cát, Chơn Thành, Trảng
Bàng… thì Trị Tâm sung hơn nhiều. Mà ở
đâu có chợ thì ở đó có người
Tàu. Họ hùn nhau mở trường dạy tiếng Hoa cho con em, gần
Đình Dầu Tiếng và bến đò qua Bến Củi. Có ba
trục đường giao thông chính nối Trị Tâm với
bên ngoài : con đường thứ nhất đi lên hướng Bắc
xuyên qua rừng cao su, hàng cây hai
bên khép tán che rợp mát nhưng ban
đêm hơi rờn rợn, qua làng 2, làng10, làng
18, Long Hoà, qua cầu Thị Tính (đoạn này gọi
là suối chứ không phải sông vì là đầu
nguồn) rẽ trái ra quốc lộ 13 đi Tây Nguyên. Con
đường này đi qua những địa danh ngộ nghĩnh như Căm xe, Cà
toong, Ván Hương. Tạm giải thích như sau : Căm xe
là một loại cây cứng chắc, dùng làm …căm xe
bò hoặc làm trụ nọc tiêu. Cà toong là
con cà toong, tức là con nai. Ván Hương (hoặc
Giáng Hương),một loại danh mộc có mùi thơm, thớ gỗ
có những đường vân rất đẹp dùng làm đồ mộc
gia dụng. Có khi nhà giàu dùng làm …
hòm (nam Huỳnh Đường, nữ Ván Hương). Hiện xe khách
liên tỉnh Chơn Thành - Đồng Xoài - Tây Ninh
xử dụng con đường này. Con đường thứ hai chạy theo hướng
Tây qua Cầu Tàu bắc qua sông Sài Gòn
đi Khiêm Hanh (sau này gọi là Dương Minh
Châu), tỉnh Tây Ninh. Vùng này có đồn
điền cao su khá rộng nhưng không phải của hãng
Michelin mà là hãng SIPH. Những năm chiến tranh
ác liệt, con đường liên tỉnh này trở thành
độc đạo nối Dầu Tiếng ( Trị Tâm) với bên ngoài.
Những trận đánh kinh hồn giành quyền kiểm soát con
đường gắn liền với địa danh như Truông Mít, Bàu
Đồn, Suối Ông Hùng, Ngã Ba Đất Sét…
Đào đường, đắp mô, đắp chà, gài trái
nổ, phục kích… diễn ra như cơm bữa, người ta chỉ thống kê
số người chết của hai bên chứ có ai biết rõ số mất
mát, thống khổ của người dân thường vô tội
đâu. Hầu như ở Dầu Tiếng mỗi nhà đều có tổn thất
cả. Năm 1975, mình lẫn trong đám dân tản cư
lánh nạn, chạy bộ suốt con đường từ Bến Củi đến Ngã Ba
Đất Sét, khoảng mười cây số. Giữa đường gặp đám dưa
hấu. Cả đoàn người xông vô vặt trụi. Có em
còn nói thầy vô giữa đám trái lớn hơn
ngoài đây. Thật xấu hổ, đúng là bần
cùng sinh đạo tặc. Và cuối cùng, con đường huyết
mạch phía Nam cặp theo sông Sài Gòn
xuôi về Thủ Dầu Một, qua Bến Tranh, Bến Súc, Rạch Kiến,
Rạch Bắp, Tân An. Năm 1965 sau trận Đường Long thì con
đường này đứt hẳn. Bến Súc trở thành đậu
luôn chớ không phải xôi đậu nữa. Dầu Tiếng, Bến
Cát, Phú Hoà Đông trở thành 3 đỉnh
của vùng Tam Giác Sắt. Đi lại phải mượn đường qua
Tây Ninh. Cũng vì vậy mà cuộc sống người dân
chịu ảnh hưởng của Tây Ninh nhiều hơn Bình Dương: nhập đạo
Cao Đài, chuyện học hành của con em, chuyện khám
chữa bệnh, giao thông buôn bán, cưới xin… giống như
Tân Uyên sau này, dù nằm trong địa phận
Bình Dương nhưng gắn bó với Đồng Nai hơn.
Rừng,
núi, sông, hồ:
Dầu Tiếng là địa phương duy nhất trong tỉnh
Bình Dương có rừng, có núi, có
sông, và đồng ruộng. Chưa kể sau này
còn có hồ nữa. Không hiểu sao người ta gọi
là sông Sài Gòn mà không gọi
là sông Dầu Tiếng. Theo một tài liệu nghiên
cứu*, sông Sài Gòn bắt nguồn từ Lộc Ninh chảy qua
Bình Long, Dầu Tiếng, Bến Súc, Thị xã Thủ Dầu Một,
Lái Thiêu, Sài Gòn… rồi nhập với sông
Đồng Nai tại Nhà Bè mà xuôi ra biển. Tổng
cộng dài gần hai trăm cây số.
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về..
Năm 1973 mình có dịp đi chơi Phú Quốc bằng
đường thủy. Đến Nhà Bè quả nhiên sông rộng
lớn quá sức, nhìn bờ xa xa chỉ là một đường viền
nhỏ. Gió sông lồng lộng, ai nấy tha hồ hóng
mát. (Nhưng chỉ một lát, khi ra đến cửa biển thì
tất cả im phăng phắc vì say sóng). So với Sài
Gòn thì dân Dầu Tiếng là dân … thượng
lưu chứ còn gì nữa. Nếu ta tắm sông thì ba
ngày sau, dòng sông chảy về tới Sài
Gòn đó. Nghe sướng chưa. Một lần mình đi Dầu Tiếng
bằng tàu khách từ bến chợ Thủ . Ngồi rêm hết
mình mẩy, đến ba giờ chiều mới đến nơi. Sau này
ít khách quá nên tuyến đường thủy này
cũng dẹp luôn.
Rừng Dầu Tiếng giống như các rừng miền Đông
nói chung có nhiều cổ thụ như sao, sến, gõ, dầu,
xà cừ, bằng lăng, căm xe, ván hương, vên vên…
Riêng Dầu Tiếng chắc là có nhiều cây … dầu
chứ sao. Bây giờ ở Đình Dầu Tiếng và khu vực cổng
Hãng cũng còn một số. Khi người Pháp đến đây
lập đồn điền, một phần lớn đất rừng bị mất đi, nhường chỗ cho trồng cao
su. Chỉ còn lại cánh rừng nguyên sinh phía
tây bắc gồm cả dãy núi Cậu và vùng
giáp Bình Long. Chiến tranh lại giữ cho rừng gần như
nguyên vẹn. Nhưng hết chiến tranh thì rừng bị tàn
sát không thương tiếc. Đến cuối thập niên 70 thế kỷ
trước thì cơ bản hoàn thành việc phá rừng.
Kể cả những cây to mọc chênh vênh lưng chừng
núi không biết làm sao đem xuống được. Cuối
cùng là việc dọn vệ sinh lòng hồ thủy lợi Dầu
Tiếng, chuẩn bị tích nước. Nói chung là khai
thác trắng. Nên trái gùi, dây
mây, trái cơm nguội, hột lừ ươi chỉ còn là
kỷ niệm.
Núi Cậu thực ra là một dãy núi gồm
bảy
ngọn, cao thấp lô xô chạy dài từ bắc xuống nam. Hồ
thủy lợi Dầu Tiếng dựa vào chân núi phía
Bình Dương nên cảnh đẹp hơn phía Tây Ninh.
Cùng với núi Bà Rá ( Phước Long) và
núi Bà Đen( Tây Ninh), đây là điểm tận
cùng của dãy Trường Sơn. Đứng trên đỉnh núi
Cậu, những ngày trời trong bạn sẽ thấy rõ hai Bà
hai bên. (Đừng nghĩ bậy nha). Nằm trong lòng chảo lưng
chừng núi, hồ Than Thở đẹp hơn hồ trùng tên ở
Đà lạt vì còn nguyên dáng
nguyên sơ chưa có bàn tay con người. Thật ra ba hồ
đều chung một dòng suối chảy liên hoàn từ
trên cao xuống. Nước trong chảy vòng vo quanh mấy
khóm trúc mát rượi, gió núi thổi vi
vu, đá lạo xạo dưới chân. Thật yên tĩnh. Xa xa hồ
Dầu Tiếng mênh mông là nước, kéo dài
lên tới Tân Châu (Tây Ninh) và
Bình Long (Bình Phước). Rừng ở đây là rừng
tái sinh, cũng là rừng phòng hộ nên cấm lữa
nghiêm ngặt lắm. Theo lời dân địa phương, vài năm
gần đây chim thú bắt đầu trở về sinh sống thành bầy
đàn. Vòng ra phía trước núi có
chùa Thái Sơn của Thầy Sáu, khách thập
phương tấp nập, nhìn bảng số xe có đủ các
vùng miền. Bờ hồ Dầu Tiếng có nhiều quán ăn thiết
kế trang nhã, nhiều cây cảnh làm du khách
cảm thấy thoải mái, giãm bớt mệt nhọc vì leo
núi, chơi suối . Gió từ ngoài mặt hồ thổi
vào lồng lộng. Mặt nước gợn sóng xô vào
vách đá. Đặc sản ở đây là cá
lòng hồ, tươi rói và thịt ngọt lắm. Lẩu cá
lăng nấu ngót ăn với bún. Húp nước lèo nghe
tê tái. Và uống rượu chứ đừng uống bia. Tiếc
là cũng như vườn cây Lái Thiêu, quán
xá thi nhau chặt chém du khách, nên
các bạn hãy cẩn thận hỏi giá trước khi ăn. Nếu
còn thì giờ thì xuống bãi, ra đảo chơi. Vịt
nuôi ở đây mập ú, rẽ rề. Người bán làm
lông luôn nếu có yêu cầu. Đi chơi núi
chơi hồ, cảnh trời chiều đẹp hơn buổi sáng nhưng đường xa phải
về, làm sao ngắm hoàng hôn trên mặt hồ được.
Ngoái nhìn sau lưng, dãy núi Cậu
chìm trong sương mờ, đẹp lắm.
Măng le,
cây
nắp bình:
Cây le thuộc họ tre, bề ngoài giống như
trúc nhưng đặc ruột như tầm vông. Ở Dầu Tiếng thì
le có khắp nơi, nhưng mọc tập trung nhiều theo triền núi
và bờ sông. Sau những cơn mưa đầu mùa chừng hơn
tháng là bắt đầu mùa măng. Măng đem về lột
võ, nấu sôi cho kỹ, vớt ra để ráo nước, đập dập
và kho với thịt ba rọi xắt mõng. Ngọt hơn măng mạnh
tông, măng tre tàu. Nên đầu mùa giá
hơi cao. Nhưng ghiền lắm. Có thể nói, không biết ăn
măng le không phải dân Dầu Tiếng.
Đúng ra phải gọi là dây nắp bình
vì nó mọc lan trên mặt đất như chùm bao,
hà thủ ô. Hoa nó giống như cái túi
nhỏ, đáy sâu và vách trơn, bên
trên có miếng nhỏ có thể khép lên
miệng túi. Kiến, côn trùng ngửi mùi mật ngọt
nơi đáy túi bò vào được nhưng ra
không được. Những năm đi dạy trong làng 18 mình
thường vô núi Cậu kiếm củi, dây nắp
bình có nhiều. Sau này kể lại, chúng bạn
thường nghi ngờ, mình ức lắm. Bạn nào ở Dầu Tiếng
xác nhận giùm, mình rất cám ơn.
Cọp,gấu, chim
đa đa:
Theo những bậc lão làng, thời chín năm
cọp Dầu Tiếng còn “lềnh”. Ấy là vì nai, mễn, chồn,
cheo có nhiều. Sau này, súng lớn, súng nhỏ
càn rừng quyết liệt quá nên thú cạn dần.
”Ông” rút về trên Miên, miệt Đônnakiri,
Rattanakiri.. Lạ một điều là ở Dầu Tiếng có rất nhiều
nhà trang trí đầu minh, nai, gấu, bò tót..
ở phòng khách nhưng tuyệt không thấy dấu vết cọp.
Hẳn các bạn xem hình ông Đốc Di còn nhớ cảnh
bắn chết cọp ở Hớn Quản (Bình Long), một khu rừng
liên thông với Dầu Tiếng. Nhân dịp, xin kể câu
chuyện cọp vồ người giữa phố chợ ban ngày: Thầy bói gieo
quẻ, phán rằng tháng đó, ngày đó…
thân chủ sẽ chết dưới nanh vuốt cọp. Dù ở Dầu Tiếng
lúc đó cũng không còn con cọp nào
nhưng ông ta rút về Sài Gòn cho chắc ăn. Cọp
vồ hả, có mà nằm mơ. Đúng ngày đó,
tháng đó, ông ngồi salon ngữa cổ cười khà
khà, lão thầy bói phen này mất mặt… Bổng
“ầm” một cái, nguyên một đầu cọp đang nhe nanh bằng gỗ từ
trên trần nhà rơi thẳng xuống đầu ông ta. Chuyện thứ
hai, có thật trăm phần trăm: sau ngày hoà
bình, bộ đội Trường Sơn về tiếp quản căn cứ TQLC Sóng
Thần. Ngày nọ, có mấy chú bộ đội nhà
ta ra chợ Lái Thiêu dắt theo chú hổ con đến tiệm
chụp hình vài pô kỷ niệm. Thế là bọn
chó chợ hùa ra … nhưng lạ thay khi đến gần nhận ra
“oan gia” thì chúng cúp đuôi riu ríu
lủi đi chỗ khác. Nên nhớ cả đời ông bà cha mẹ
bọn chó chợ cũng chưa hề biết mùi cọp là
gì, làm sao mà chúng biết được đó
là “hung thần” ?
Khoảng đầu thập niên 60 thế kỷ trước, gấu ở Dầu Tiếng
cũng
còn tuy không nhiều. Gần nhà mình có
vị trung uý ( lúc đó trung úy hách
lắm, chuyển từ quân đội Pháp qua) đóng quân ở
Dầu Tiếng đem về nhà một chú gấu con -gấu chó-
và cho bú sữa bình. Nhưng sau đó cũng
không sống nổi vì nhớ mẹ. Dĩ nhiên vốn dĩ gấu
là hung dữ rồi nhưng dữ nhứt là gấu mẹ. Nghe nói
có lần ở Sở Thú một gấu mẹ lọt xuống hầm gấu. Mọi người
đều xanh mặt lo cho gấu mẹ, nhưng không ngờ bọn gấu dưới hầm …
riu ríu dồn về một góc không dám ho. Nghĩ
cũng tội cho chúng quá. Hiện ở Dầu Tiếng có
vài trang trại gần núi Cậu nuôi gấu lấy mật.
Nhìn thấy cảnh bắn thuốc gây mê và
chích kim xuyên qua da thịt, chọc vào mật
rút dịch ra, sao thấy tàn nhẫn quá. Thôi,
không uống rượu pha mật gấu nữa. Một xê (cl) là hai
trăm ngàn đó chứ. Nhất là nghe bọn nó dụ
nữa: uống rượu mật gấu về vợ đánh không biết đau!
Cánh đồng Bến Củi rộng mênh mông, dài
theo bờ sông hàng mấy cây số. Phía trong
giáp mặt lộ đi An Nhơn Tây, Hố Bò, Bời Lời..
là những khu vườn xum xuê. Đó là nơi
trú ngụ lý tưởng của chim đa đa. Buổi trưa, bọn
chúng trốn nắng trong những bụi cây ven bờ nước, hoặc
trong đám cỏ mỹ cao ngập đầu. Khi trời mát thì
chúng ló ra kêu râm ran : Dắt bà
xã tà.. tààà.. Dắt bà
xã tà.. tààà. Âm thanh nghe xa
nghe gần, giống như chim bìm bịp của miền sông nước. Sau
này khi xa Dầu Tiếng thì tiếng kêu của chim đa đa
là một kỷ niệm khó quên với tôi.
Cây cao
su:
Dầu Tiếng có hai đợt di dân lớn từ miền Bắc
;năm 1945 gọi là dân “công tra”, chạy đói năm
Ất Dậu và năm 1954 gọi là dân “di cư”. Lạ nước lạ
cái, rừng thiêng nước độc, chưa từng thấy cây cao su
nói gì đến cạo mủ. Dân địa phương đa số theo nghề
ruộng rẫy hoặc buôn bán, có ai chịu làm
cái nghề đi giật lùi cực khổ này đâu. (Khi
cạo mũ phải đi giật lùi xoay tròn theo miệng cạo. Nhẹ tay
thì không ra mủ, nặng tay thì phạm vô
thân làm hư cây. Về sau vết thương để lại cục u,
nhìn là biết cạo phạm liền). Sự phồn vinh của Dầu
Tiếng sau này có phần đóng góp âm
thầm của hai lớp người kể trên. Đặc điểm lớp trước là tham
gia chống Pháp triệt để, còn lớp sau thì có
nhiều người theo Công giáo.
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng
Đó là chuyện hồi xưa,bây giờ đã
khác rồi. Hơn mười năm nay, mủ cao su đứng giá cao
liên tục trên thị trường nên đời sống công
nhân cũng dễ thở. So với công nhân công nghiệp
như may mặc, gốm sứ, da giày…thì công nhân
cạo mủ lương cao hơn nhưng cũng cực hơn. Ba bốn giờ sáng
là phải đội đèn ra lô rồi. Giống cây cũng cải
thiện dần, cho mủ nhiều và thấp tán hơn. Bây giờ
người ta không trồng ca-rô như hồi Pháp nữa
mà trồng khít hơn, cây cách cây hai
mét rưởi, hàng cách hàng bốn mét.
Ngược lại vòng đời của cây ngắn lại, chỉ còn
phân nữa( khoảng hơn hai mươi năm so với trước bốn năm chục năm).
Hôm rồi về Dầu Tiếng gặp lúc công nhân đang
trút mủ, tôi thấy ở bãi xe đa số là gắn
máy, chỉ lác đác một vài chiếc xe đạp. Cũng
mừng. Bà chị vợ tôi có mấy mẫu cao su ở Tha La, chị
cho biết một mẫu cao su trừ đi chi phí như thuê nhân
công, phân bón... thì một tháng cũng
còn hơn bốn triệu. Ở Đông Nam Bộ có bốn loại
cây trồng chính: tiêu, điều, cà phê,
cao su. Thay nhau mà lên voi xuống chó. Bây
giờ là thời hoàng kim của cao su và cà
phê. Thê thảm nhứt là cây điều. Người ta thi
nhau chặt hạ hàng loạt một loại cây mà mới
đây thôi nhà nước còn kêu gọi phủ xanh
đất trống đồi trọc (nghe nói mấy cơ sở chế biến xuất khẩu hạt
điều nhân nay phải nhập cảng hạt điều từ …Ấn Độ). Qua chơi
Tây Ninh thì nghe có khác, ở đây
có 3 M - khoai mì, mãng cầu, mía -
làm chủ lực. Nhưng không khá bằng trồng cao su.
Người Dầu
Tiếng giải nghĩa địa
danh Lái Thiêu:
Hơn ba mươi năm trước, một lần ghé chơi nhà
cô giáo C. dạy trường Định Thành. Thân phụ
cô là ông từ giữ đình Dầu Tiếng. Khi biết bọn
tôi là dân Lái Thiêu, ông mới vui
chuyện cắt nghĩa tên gọi độc nhất vô nhị đó như sau
: ông lái tên là Theo, mở bến lập chợ tại nơi
bây giờ là Cảng Hàng Dừa. Sau này đường bộ
phát triển nên ghe thương hồ phải vô sâu ngọn
rạch, chợ dời về vị trí hiện nay. Dấu tích còn lại
là mấy dãy phố cũ kỹ người Hoa, góc ngã ba
Thanh Yến - QL13 cũ, đường ra bến cảng. Sau giải phóng
dãy phố này hãy còn. Ông còn
kể thêm chuyện tấm vải điều bay từ nơi chợ cũ qua chợ mới, định
vị trên ngọn cây dầu trước nhà làng Tân
Thới là điềm thần linh dời chợ, lòng người hợp với
ý trời. Không biết chuyện kể có đúng sự thực
không, nhờ nhà nghiên cứu Hoàng Anh cho
ý kiến.
Đua nhau về (
thượng) nguồn:
Về nguyên tắc khi thành lập các khu
công nghiệp thì phải có nhà máy xử
lý nước thải tập trung, nước sau xử lý đạt tiêu
chuẩn A Việt Nam mới được được đưa ra môi trường. Nhưng chi
phí xử lý để nước đạt chuẩn là không rẻ.
Xút, hoá chất lắng lọc, khử rắn, khử mùi, chi
phí nhân công, điện… nên lâu lâu
báo chí lại lên tiếng nơi này nơi kia
lén đổ chất thải ô nhiễm ra sông suối kênh
rạch. Vụ nhà máy bột ngọt Vedan giết sông Thị
Vãi (Bà Rịa) mới vừa êm êm thì
người em của Thị Vãi là … Thị Tính( Bến
Cát) lãnh đủ. Hàng trăm ngàn mét
khối nước ô nhiểm chưa qua xử lý của một nhà
máy ở Bến Ván, làm ô nhiểm cả một đoạn
sông Sài Gòn. Ngặt nỗi ở đó lại có
hai họng lấy nước sinh hoạt cho dân Thị xã TDM và
Sài Gòn. Thế là hồ Dầu Tiếng phải cấp tốc cho mở
bốn cửa đập, xả nước tống tháo đám ô nhiểm xuống hạ
lưu ra biển Đông. Nghe đâu sắp tới sẽ còn
vài ba Khu công nghiệp (KCN) đấu nối hệ thống nước thải ra
sông Thị Tính nữa. Dầu Tiếng có cụm công
nghiệp Thanh An. Phía bắc có KCN Chơn Thành.
Càng lên thượng nguồn giá đất càng rẽ
và xổ nước thải càng “êm”. Nếu kể cả các KCN
bên hữu ngạn, thuộc địa bàn thành phố thì
sông Sài Gòn đang gánh không dưới mười
KCN, mỗi KCN khoảng vài chục đến một trăm nhà máy.
Để đối phó, người ta dự tính lập một đường ống dẫn nước
từ Dầu Tiếng về Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh). Giống
như
đường ống dẫn khí đốt Nga-EU.
Xin
nhận nơi này
làm quê hương, dẫu cho … khó thương:
Hồi đó, tốt nghiệp Sư phạm Sài Gòn, gọi
là giáo học cấp bổ túc. Lương tháng hai
mươi mốt ngàn ba trăm đồng ( thiếu uý hình như
là hai mươi ba ngàn). Nếu hai vợ chồng cùng
là giáo chức thì có thề dành dụm
nguyên lương một người, còn nếu độc thân thì
lại không đủ xài. Mấy ngày trước khi làm lễ
mãn khoá và nhậm nhiệm sở, trường có tổ
chức đêm văn nghệ toàn trường (có Tâm
lý chiến sư đoàn 5 góp mặt với mấy màn
boléro bốc khói nữa). Khuôn viên trường
có nhiều ghế đá, cây cao bóng cả lắm, nhưng
mỗi gốc cây đều có từng cặp xí chỗ, ai đến sau
thì xin mời leo tường qua Đại học khoa học láng giềng.
Ngày chia tay đến gần, người ta không cần che giấu
tình cảm nữa, và nhà trường cũng cho xả
láng. Tổ chức đêm văn nghệ cũng là tạo điều kiện
cho các anh chị “cộng chỉ số”; thí dụ anh hạng một trăm,
chị hạng bốn mươi thì hai người sẽ chọn nhiệm sở ở vị trí
hạng bảy mươi. Với điều kiện phải ra Toà Đô Chánh
lấy cái giấy hôn thú đem về nộp cho trường. Sở dĩ
thứ hạng tốt nghiệp quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp
đến chuyện chọn nhiệm sở sau này. Và cái nhiệm sở
ấy nó quyết định đến cuộc sống của một người trong thời buổi
loạn ly máu lửa, kể cả học hành vì hầu hết đều
có ghi danh hàm thụ Đại học. Khi ấy quyền sinh sát
không phải nằm trong tay phòng tổ chức như bây giờ.
Dù có là con ông cháu cha cũng
khó mà binh lắm. Thứ hạng công khai, và tổ
chức buổi lễ chọn nhiệm sở cũng công khai tại hội trường. Ở
đó có cái bảng phấn rất to, ghi rõ nhu cầu
từng tỉnh, từ Long Khánh, Bình Tuy dài dài
đến Ba Xuyên, Côn Đảo. Tổng số giáo sinh tốt ngiệp
năm đó gần bảy trăm. Còn nhớ, đầu bảng là Gia Định
cần hai mươi giáo viên thì chỉ loáng
cái, đến người hạng hai mươi hai là đủ chỗ. Có hai
người chọn về quê nhà nên người thứ hai mốt
và hai hai kể như gặp hên. Càng về sau thì
càng xa Sài Gòn. Cá biệt có bạn chọn
Phước Long thì được cấp vé máy bay đi Ban Mê
Thuột, theo đường Quảng Đức mà về nhiệm sở. Còn bạn
chọn Côn Đảo thì nhận một tràng pháo tay
nhiệt liệt. Khi mình đến lượt lên sân khấu
thì Bình Dương gần đủ, một trăm mười bốn trên một
trăm hai mươi, nghĩa là chỉ còn thiếu có
sáu chỗ. Hú hồn. Mỗi giáo sinh đứng trước micro
đều phải nói rõ ràng: ”Tôi xin chọn nhiệm sở
là…”, sau đó xuống bàn giáo vụ để nhận
công lịnh. Chưa hết, đó mới chỉ là chọn tỉnh. Khi
về trình diện Sở Học Chánh (Ty Giáo Dục), lại tiếp
tục màn hai: chọn trường.
Hội trường Toà Tỉnh Bình Dương, nhiều người quen
gọi
là Toà Bố, nằm trên một ngọn đồi có nhiều cổ
thụ, nhìn oai nghiêm lắm. Nhu cầu năm đó,
toàn Tỉnh cần bổ sung một trăm hai mươi giáo chức Tiểu
học. Mình hạng một trăm mười bốn, nghĩa là phải chờ một
trăm mười ba bạn chọn xong rồi mới tới phiên. Tội cho bà
chị họ của mình, chị làm việc ở Toà Hành
Chánh Tỉnh nên nhờ ai đó viết ra giấy một danh
sách thật dài, những trường “ an ninh” tốt để cho
mình chọn. Than ôi ! Cậu em quý hoá của chị
học giỏi quá, nên khi tới phiên chọn thì chỉ
còn tiểu học Định Thành (Trị Tâm) và
Bàu Ao (Phú Giáo). Đành chọn cái
trường trước vậy. Chị có hứa hè tới (1975) sẽ “lo” cho về
Lái Thiêu. Không ngờ dính mũ cao su
luôn tới nay. Riêng bạn chọn Bàu Ao nghe
nói sau đó “bị” mời vô vùng giải
phóng, ai cũng tội nghiệp. Ngày 30 tháng 4, lại
nghe bạn đeo xề xệ súng ngắn, làm “quân quản”.
Đúng là Tái Ông Thất Mã.
Lần chọn nhiệm sở ở Toà Tỉnh, có một kỷ niệm
khó quên. Một bạn quê ở Dầu Tiếng, học hành
chăm chỉ nên đạt thứ hạng cao. Bạn chọn trường Vĩnh Phú
(Lái Thiêu), sát ranh Sài Gòn. Sau
đó đổi chỗ với một bạn con nhà giàu học ..dỡ.. Hồi
đó, quy chế cho phép hai người được công khai đổi
nhiệm sở tại hội trường. Giá thoả thuận “bù lỗ” là
chín mươi bảy ngàn, tương đương một chiếc 67. Nhưng sau
đó thì anh nhà giàu … bẻ lời hứa, chỉ chung
năm mươi ngàn. Thế là có một màn thượng
cẳng tay, hạ cẳng chân ngay trước mặt bá quan văn
võ. Báo hại cả đám khoa bảng phải xúm
vô can ngăn, thật là mất thể diện hết sức. Còn
mình thì cấp tốc về mua bản đồ dò xem Trị
Tâm là cái xứ mô? Nhưng đó là
chuyện về sau này -lâm ly lắm- còn phần 1 đến
đây là hết rồi ./.
*hỏi đáp Sài
Gòn-TP Hồ Chí Minh- NXB Trẻ 2006
Mời xem thêm vài
hình ảnh Dầu Tiếng trong phần Hình ảnh quê hương
Bình Dương