Dầu Tiếng: Chiến Tranh và
Hòa Bình
Lưu Thanh Bình
1. Dấu lặng trước cơn bão :
Năm 1972, năm thứ tám Mỹ đổ quân trực tiếp vào
miền Nam, khi ấy dư luận Mỹ đã quá ngán ngẫm về một
cuộc chiến tranh xa xôi tốn kém về người và của, nên
Hiệp Định Paris là lối thoát hợp lý nhất, Hoa Kỳ chấp
nhận hy sinh đồng minh để rút quân trong danh dự. Sau ngày
27.1.1973, ngày Hiệp Định có hiệu lực thì tình
trạng ngưng chiến theo kiểu da beo xảy ra khắp miền Nam, dù hoà
bình chỉ là tạm thời nhưng cũng thắp lên hy vọng
vọng cho bao người, bao gia đình. Tại Dầu Tiếng, ranh giới là
suối Dứa và suối Làng Hai. Hai bên bờ suối là
hai màu cờ khác nhau. Buổi chiều, bên này bên
kia ngầm thỏa thuận để lần lượt xuống suối tắm giặt. Trong kia là
vùng an dưỡng, bệnh xá Miền. Còn chợ Trị Tâm
thì hàng hoá đầy ắp vì đường liên tỉnh
từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng thông suốt, xe đò Sài
Gòn - Dầu Tiếng, Bình Dương - Dầu Tiếng chạy liên tục,
dĩ nhiên phải mượn đường qua Tây Ninh ( Khiêm Hanh) vì
Bến Súc đã là vùng giải phóng từ lâu.
Do phải chạy vòng nên đường xa gấp đôi và giá
cước cũng gấp đôi. Ai cũng biết phân nửa số hàng hoá
đó đi về đâu, nhất là xà bông, pin đèn,
vải nylon (để may võng), thuốc tây, hàng gia dụng và
lương thực thực phẩm. Thân nhân ra vô thăm viếng nhau
cũng dễ hơn. Và dĩ nhiên buôn lậu vô “trỏng” là
nghề một vốn bốn lời, nhất là thuốc tây nên nếu gọi
Trị Tâm là một thị trấn hậu cần của Mặt Trận GPMN cũng không
ngoa. Khi đó bán kính an ninh của Trị Tâm chỉ
có hơn 2 km mà thôi. Trên bản đồ, nhà
đánh dấu đỏ chi chít. Đường Trường Sơn, Molotova mở đèn
chạy sáng đêm mà không còn sợ B52 nữa.
Giống như dân đi biển nhìn trời và bọt sóng
có thể đoán trước cơn bão, người Dầu Tiếng bình
thường cũng có thể đoán được những gì đang diễn ra
trong rừng cao su với những dòng chảy tiếp tế liên tục không
dứt từ ngoài thị trấn vào. Đó là dấu hiệu báo
trước một cơn bão sấm sét sẽ đổ ụp xuống nay mai.
Sau Tết Ất Mão1975, Dầu Tiếng bước vào mùa khô,
nắng gay gắt và bụi mù bốc lên theo từng chuyến xe
hối hả chạy xuôi ngược. Không khí của Dầu Tiếng giống
với vùng cao hơn là đồng bằng, nhiệt độ ngày đêm
chênh lệch rất lớn, nhất là cái nắng khô hanh
ban ngày rất khó chịu. Những dãy nhà mái
tôn đứng im lìm, không gian nóng bức như đặc quánh
lại. Buổi tối, gió núi và sương mù từ đồn điền
cao su mênh mông thổi về, nghe như trong gió có
tiếng xôn xao mơ hồ. Ban ngày, người ta gia cố vòng
đai phòng thủ bằng những bao cát cao chất ngất. Radio loan
báo tin thất thủ Phước Long kèm mấy bài hát
rên rỉ nghe não lòng. Khi ấy, chương trình viện
trợ khẩn cấp 300 triệu đô cho miền Nam đang nằm trên bàn
họp của lưỡng viện Hoa Kỳ, và phái đoàn đại biểu sắp
sang Sài Gòn. Chính quyền toan dùng lá
bài thất thủ PhướcLong làm áp lực với Mỹ, nhưng đó
chính là con dao hai lưởi, và quả nhiên chì
mất mà chài cũng chẳng còn. Tiền không có
mà tinh thần chiến đấu thì sa sút thảm hại. Cộng thêm
phán đoán sai lầm về hướng tiến công chủ lực của quân
đội miền Bắc (Ban Mê Thuột chứ không phải Pleiku), xem như số
phận đã an bài. Và số phận cũng đã chọn quê
hương Dầu Tiếng phải đổ nát tan hoang để Sài Gòn còn
được nguyên vẹn.
2. Chiều 11 tháng 3 bên kia sông nhìn về
Dầu Tiếng:
Tôi vẫn còn nhớ nắm cơm do sư cô ân cần
trao cho chiều hôm đó, chỉ kèm chút muối đậu
mà sao ngon quá. Sáng tinh mơ, do chạy trối chết
băng sông nên trên mình tôi chỉ có
bộ pyjama và quơ vội cái mắt kiếng cận. Lúc ra đến
bờ sông đứng chờ đò, tôi mới thấy tiếc cái đồng
hồ Longins mới sắm và cái bóp trong có giấy
tờ tùy thân cùng tiền bạc. Nhưng biết làm sao,
vầy là cũng hơn bao người rồi. Ngoảnh nhìn về bên kia
sông, một vùng trời đầy tang thương, từng bựng khói
đen bốc lên kèm tiếng ì đùng không dứt.
Quanh tôi là những ánh mắt lo lắng đăm đắm nhìn
về thị trấn, nơi ấy còn tài sản tích cóp bao
nhiêu năm, còn những người thân kẹt lại giữa hai làn
đạn. Và bọn người hôi của đang thả sức lùng sục. Trời
gần về chiều, dòng người qua sông càng lúc càng
đông mang theo bao nhiêu tin tức mới, càng gây
thêm hoang mang lo lắng. Cánh đồng Bến Củi đông nghịt
người hỗn độn xuôi ngược tới lui tìm thân nhân
bị tản lạc và lo chỗ trú qua đêm.
Xế chiều thì có tiếng máy bay gầm rú
nghe đinh tai điếc óc. Những chùm đạn pháo phòng
không nổ lụp bụp trên bầu trời, in lên nền trời xanh những
cụm mây trắng nhỏ. Hai chiếc F5 đảo lượn vài vòng rồi
chúi xuống trút bom khu vực cổng Hãng, nơi có
mấy chiếc T54 đậu trong sân. Rồi nghiêng cánh bay thẳng
về Biên Hoà. Ngay tại đầu cầu Tàu, có một lô
cốt dã chiến bằng bao cát, mái tôn. Chiều hôm
đó, mấy chiếc tăng T54 lù lù bò từ trong
ấp 4 ra và thong thả chỉnh hạ nòng trực xạ. Những quầng lửa
đỏ pha cam phụt ra từ nòng súng trông như hoa chuối.
Chỉ hai lượt là thổi bay nóc và còn trơ mấy
bao cát vương vãi.
Dân Dầu Tiếng quá quen với tiếng đề pa của trọng pháo,
nếu là một tiếng cốc khô khốc thì nhanh chóng
cúi xuống, khoảng vài giây sẽ có tiếng rít
xẹt ngang trên đầu. Còn nếu viên đạn rơi xuống gần
thì dĩ nhiên không thể nghe được tiếng đề pa mà
chỉ nghe ( hoặc không còn được nghe mãi mãi)
tiếng ầm ầm cùng đất cát văng đầy người.
Có rất đông người trú trong một lò gạch
ven sông, đêm hôm đó một số đã bị thương
vong do một quả pháo lạc. Tôi may mắn đã rút
ra ngoài đám ruộng trống từ chiều, do không chịu được
không khí ồn ào chật hẹp. Không ai ngủ được
vì tâm trạng rối bời, vì đạn pháo, những tiếng
la hoảng bất chợt, tiếng trẻ nít khóc và hoả châu
giăng đầy trời. Tiếng súng giao tranh chỉ còn nghe nhiều hướng
chi khu, nhất là lựu đạn còn các nơi khác nghe
rời rạc hoặc im hẳn tiếng súng.
Khi trời sáng thì đám đông hàng
ngàn người rùng rùng chuyển động, không ai bảo
ai cùng kéo về hướng làng 2 Bến Củi, về sau mới biết
do quân Giải Phóng mở một khoản trống cho người dân chạy
lánh nạn khỏi vùng chiến sự. Lần đầu tiên tôi
thấy tận mắt nón tai bèo, súng AK băng cong báng
gỗ và cờ xanh đỏ. Rất nhiều người ở trần chỉ mặc độc chiếc quần xà
lỏn, nhìn biết ngay lính đào ngũ nhưng đối phương cũng
chỉ khoác tay cho qua, không ai bị bắt giữ. Có lẽ vì
đông quá (khoảng 5 ngàn người). Qua khỏi Bến Củi chừng
hai km thì tôi và người bạn phát hiện ông
quận trưởng bận quần xà lỏn đội nón lá rách
tay cầm roi chăn bò lẫn trong đàn bò và đoàn
người lánh nạn trong khi phía sau lưng, bên kia sông
tiếng súng đạn đánh nhau còn ầm ầm (đa số sĩ quan chi
khu đều chết vùi thây trong giao thông hào. Sau
này chỉ phân biệt được nhờ tấm thẻ bài). Cũng giống
như vậy là đồn suối Dứa, do bị vây bốn phía nên
hầu như tất cả đều nằm lại tại đồn.Riêng hai đại đội tăng phái
của tiểu đoàn ĐPQ 354 đóng ở vòng ngoài đều
trở thành tù binh, bị dẫn bộ cắt rừng về Kà Tum trước
khi thanh lọc. Riêng đồn pháo binh đóng tại ấp Một, mãi
đến đêm 13 mới tự động tan hàng, khi đó quân số
chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.
3. Sau ngày 30.4.1975:
Hồi đó thỉnh thoảng có một chiếc xe chạy vòng
vòng quanh thị trấn giống như quảng cáo tuồng hát
xưa kia, nhưng không phải quảng cáo mà là
thông báo dân chúng tập trung “4 giờ chiều
sân bay” để xem toà án quân sự cách
mạng xét xử công khai. Chiếc xe này (hiệu Daihatsu)
của một người buôn bán ngoài chợ, sau này cũng
được trưng dụng trong chiến dịch đổi tiền và cải tạo tư sản công
thương nghiệp. Cụm từ “4 giờ chiều sân bay” một thời rất nổi tiếng,
cùng với những phiên toà không luật sư và
thẩm phán.
H. nguyên là nhà thầu củi cao su, cưa cây
gãy đổ và già cỗi, cũng là nhân vật trung
gian giữa Tây chủ đồn điền và bộ phận kinh tài Mặt
Trận GPMN. Nghĩa là nhận tiền thuế từ Hãng Michelin rồi đem
vô rừng nộp. Nhưng không đưa đủ mà ngắt lại một khúc.
Đồng thời làm gián điệp cho cả hai bên, nên công
cũng lắm mà tội cũng nhiều. Khi bị toà án quân
sự Thủ Dầu Một tuyên án tử hình thì ông
khụy xuống, đi không nổi phải có người dìu lên
xe ( không hiểu sao khi tội nhân đứng nghe đọc bản án
thì được nhìn tự do, chỉ khi tuyên án xong thì
mới bị bịt mắt).
Một ông khác là sĩ quan Ban hai (An ninh điều
tra), nghĩa là “có nợ máu với nhân dân”.
Bị cán bộ Dầu Tiếng xuống Sài Gòn lùng bắt và
chở về xử tội. Khi nghe tuyên án thì ông đứng
thẳng người, đưa mắt nhìn quanh và khẽ nhếch mép. Theo
lời kể lại, khi đến hiện trường trong lô cao su ông ta còn
xin ba điều: một là cho vợ con lãnh xác về chôn,
hai là cho uống một ngụm nước (?), và ba là xin xử bắn
chứ đừng chém. Vừa dứt lời thì một người bước ra nạt lớn :
“ĐM mày, trước kia mày tra khảo ba tao tới chết mày
có cho ổng uống nước không? …”
( bỏ một đoạn)
Thực ra bộ đội chính quy miền Bắc rất thân thiện và
dễ gần, thậm chí còn hơi… ngây thơ nữa. Họ nhìn
quanh cái gì cũng lạ lẫm cả. Ngán nhất là mấy
tay 30, chỉ cần nghe tiếng nhạc vàng phát ra từ nhà
ai là đàng hoàng bước vô tịch thu cái
máy hát ngay. Khi đó người ta định nghĩa nhạc vàng
rất đơn giản: tất cả nhạc nào không phải nhạc đỏ ( nhạc cách
mạng ) là nhạc vàng. Cũng như toàn bộ sách ngoại
văn đều là phản động, kể cả từ điển. Đường từ Dầu Tiếng về Bình
Dương qua Bến Súc đã lưu thông trở lại mặc dù
rất xấu, đá xanh lởm chởm, ổ gà ổ voi lu bù nên
bác tài cho xe chạy tránh bên phải rồi lại đánh
tay lái qua trái liên tục. Mỗi xã, mỗi ấp đều
đổ ra đường làm cổng chào và chốt gác, quan
trọng nhất là một cây tre đực làm barie sơ sài
nhưng bất khả xâm phạm, một đầu cột một tảng đá to, đầu kia
cột ghịt vào một cây cọc cắm sâu xuống đất, khi thả lỏng
dây ra là tự nhiên thanh chắn sẽ ngóc đầu lên.
Đường thì xấu, xe thì chật cứng người ta và hàng
hoá, lại cứ dừng liên tục vì chốt gác nên
từ Dầu Tiếng đến Bình Dương chỉ 60 km mà bò từ sáng
đến xế trưa mới tới. Đến bây giờ tôi vẫn còn ớn khi hồi
tưởng lại hình ảnh của mấy tay du kích quàng khăn sọc
carô đen trắng, súng lăm lăm cầm tay, mặt hầm hầm như đang
tìm kẻ thù giai cấp trên xe. Tất cả hành khách
đều phải xuống xe đi hàng một qua trạm, bên trong có
mấy cặp mắt nhìn lom lom thấy ghê. Trong khi đó một người
lên xe đi suốt từ đầu trên xuống đầu dưới, quan sát kỹ
cả dưới gầm ghế, không bỏ sót một vật gì. Rồi có
tiếng quát: bịch -gạo -ai -đâây, bao - than - ai - đâây?
(im lặng). Như vậy là đồ vô chủ, đáng phải bị tịch thu
(bây giờ tôi nghĩ họ cũng còn sống cả vì khi ấy
họ còn trẻ lắm. Có khi nào họ nhớ lại và cảm
thấy xấu hổ không nhỉ? Thực ra họ cũng chỉ là cấp thừa hành).
Nhiều khi hành khách đã đi bộ qua trạm, lên xe
gần đủ nhưng phải chờ một hai người còn kẹt đứng năn nỉ bỏ qua cho
một hai món hàng cấm. Bị cấm nghiêm ngặt nhất là
thịt bò, thịt trâu vì đó là sức kéo
nông nghiệp. Nhà nào muốn hạ thịt thì phải làm
đơn xin phép. Nên lúc bấy giờ bò bị rắn cắn, bò
đạp trái, bò té giếng …lu bù, toàn là
lý do chính đáng cả.
Xin kể câu chuyện đố vui về bắt dế nhủi. Đầu đề như sau: có
10 tàn thuốc, biết rằng cứ 3 tàn thì quấn ( hút)
được 1 điếu.Vây làm sao với 10 tàn thì quấn
(hút) được 5 điếu ? Thoạt tiên thì nhiều bạn nghĩ
dễ ẹt : lấy 9 tàn quấn hút được 3 điếu. Hút xong
còn lại 3 tàn thì quấn hút được 1 điếu nữa.
Vị chi là đã được 4 điếu.Và còn 2 cái
tàn. Đến đây là bí chắc. Lời giải như sau :
mượn ai đó một cái tàn , gộp lại 3 tàn quấn
thành một điếu.Hút xong trả lại cái tàn cho
người ta!!.
4. Số phận thầy cô giáo Dầu Tiếng:
Sau ngày hoà bình, tôi theo dòng
người hồi cư trở về Dầu Tiếng trình diện chính quyền mới.
Giáo chức được xếp chung loại với thơ ký quận, thông
tin chiêu hồi, nhân viên bưu điện, y tá … bỏ
chung vào một rổ gọi là nguỵ quyền. Không phải sinh
hoạt chính trị ba ngày mà là tập trung học tập
tại chỗ. Chúng tôi bước vào bài học thứ nhất:
đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta. Xen kẻ là
những ngày lao động cực nhọc: lá tranh được những người
lính đang học tập cải tạo cắt và sau đó xe máy
kéo của công ty cao su chở về sân trường, phần còn
lại là của thầy cô giáo: chẻ lạt, đánh thành
tấm và đưa lên lợp mái. Cả tỉnh Bình Dương
khi ấy chỉ ở Dầu Tiếng mới có cảnh tập trung cải tạo thầy cô
giáo. Một mảnh đất đầy thù hận và bạo lực. Vậy mà
khi có lịnh từ Ty Tiểu Học, thả thầy cô giáo ra chuẩn
bị khai giảng năm học mới, nhiều người vẫn còn hậm hực (!). Sau này
khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1990, qua báo chí tôi
được biết không hề có phân biệt đối xử giữa người Đông
Đức và Tây Đức. Thậm chí nhà nước Tây Đức
(CHLB Đức) vẫn trả lương hưu cho công chức Đông Đức bình
thường bằng quỹ của CHLB Đức. Và cũng vì không có
phân biệt đối xử nên bà Merkel, một người sinh ra và
lớn lên dưới chế độ XHCN Đông Đức mới trở thành Thủ
tướng Đức, một quốc gia có nền kinh tế đứng đầu châu Âu.
Hay ở Nam Phi, khi chế độ Apartheid sụp đổ, dưới chế độ hoà giải
hoà hợp của Nelson Mandela không hề có tịch thu tài
sản hay trả thù dân da trắng, cũng như ông vẫn duy
trì bộ máy chính quyền gồm rất nhiều người trí
thức, những công dân ưu tú của quốc gia. Vì vậy
ông mới được trao giải Nobel hoà bình. Cũng xin nhắc
lại ông Nelson Mandela đã phải chịu ngồi tù 27 năm ròng
rã vì tội đấu tranh cho quyền bình đẵng của người da
đen. Và Nam Phi nay là một cường quốc ở lục địa Phi Châu.
Giờ nhìn sang nước láng giềng Campuchia, chế độ Polpot từng
bị lên án là khát máu, là dã
man, là diệt chủng, là bài tập thực hành chủ
nghĩa Mao trên xương máu của người dân vô tội,
nhưng bây giờ chỉ có lèo tèo mấy ông già
sắp xuống lỗ phải ra toà, và Campuchia là một quốc
gia đã bãi bỏ án tử hình từ lâu. Trở
lại chuyện Dầu Tiếng, những năm sau đó, giáo viên
bỏ nghề hàng loạt vì đồng lương dưới - mức - sống - tối
- thiểu. Đồ đạc trong nhà lần lượt đội nón ra đi. Những
đồ cổ nay tái xuất giang hồ: cối đá, xe ngựa, xe than, thuốc
rê, Xuyên Tâm Liên trị bá bệnh. Thầy giáo
áo bỏ ngoài quần, mang dép lê. Phần các
cô thì áo dài cắt thành áo ngắn,
không còn đâu cảnh những tà áo dài
tha thướt, yểu điệu đi giữa sân trường, tay cầm cây dù
màu sặc sỡ nữa. Có lần tôi xót xa nhìn
các cô đứng túm tụm, chia nhau từng thìa nhỏ
bột ngọt, đó là tiêu chuẩn của mỗi người/tháng.
Đúng là “miếng ăn là miếng tồi tàn”. Ôi
những con người chấp nhận số phận, nhẫn nhịn chịu đựng và nuốt cục
nghẹn vào trong. Giờ điểm lại: người còn kẻ mất, kẻ ra nước
ngoài người về thành phố, kẻ chuyển nghề người bỏ dạy. Chuyện
cũ như nước trôi qua cầu, nay hầu hết tóc đã muối nhiều
hơn tiêu, hồi tưởng lại sao luống ngậm ngùi. Còn những
người cao giọng giảng về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính
vô sản; những người đã từng nổi giận vì bị chê
Phòng Giáo Dục giống sạp trái cây Cầu Ngang thì
giờ đây sở hữu hàng trăm héc ta cao su, đi xe hơi ở
nhà biệt thự. Cũng có (tuy hơi hiếm) những con ngưòi
ngay thẳng bộc trực sống cuộc đời liêm khiết như anh Ba H, khi sát
nhập Dầu Tiếng và Bến Cát làm một huyện thì
anh là Trưởng Phòng Giáo Dục, sau đó chuyển
về làm trưởng phòng tổ chức công ty cao su Dầu Tiếng
đến khi về hưu. Một cuộc đời đạm bạc và không màng tư
lợi.
5. Vài kỷ niệm thời dạy học ở Dầu Tiếng:
Có người nói nghề dạy học là nghề đưa đò,
vì các em ngày một tiến bộ: cấp hai, cấp ba, đại học
và đi làm, còn thầy năm này qua tháng
nọ cứ lấy sự tiến bộ của mấy lứa học trò làm vui. Vui vì
được thấy em thành đạt, vui hơn khi được thấy em ngày thành
gia thất, bây giờ càng vui hơn vì được các
em mời thầy đến mừng các em ngồi làm sui. Bởi vì
thầy cô tiểu học là người khai tâm mở trí thuở
ban đầu cho con trẻ. Mỗi người phụ trách một lớp vài mươi
em, dạy tất tần tật các môn, gặp nhau mỗi ngày nên
học trò cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ hành vi thái
độ ứng xử đến những điều căn bản như nét chữ viết, bản cửu chương,
cách bao bìa dán nhãn, bảo quản tập sách,
dạ thưa, chào hỏi, nói chung là học ăn học nói,
học gói học mở… Các bạn nào đã từng có
con nhỏ học tiểu học đều biết các cháu xem lời thầy cô
là đúng tuyệt đối, nói gì là răm rắp
nghe theo, phụ huynh không được “nghi ngờ”. Nên kỷ niệm về
thầy cô tiểu học cũng in sâu đậm trong trí các
em hơn là các thầy cô dạy môn sau này.
Ở Dầu Tiếng, ngày 2 tháng 9 hàng năm là ngày
các em mời thầy cô cũ về họp mặt. Rất nhiều em giờ là
cán bộ lãnh đạo trong ngành cao su. Nhớ lại năm1978
khi tôi đang dạy học ở làng 18 (hiệu trưởng cũng phải đứng lớp
vì thiếu giáo viên), khoảng 10 giờ sáng thì
nghe xôn xao cuối lớp, hỏi thì có em nhanh nhảu trả
lời dạ thưa thầy nó bị…xỉu. Sao vậy, sao xỉu? Dạ thưa thầy nó
đói. Trời ơi, con trẻ sao khổ thế này! Tôi muốn rớt
nước mắt mà phải kìm lại, giả lảng qua chuyện khác:
xức dầu, bắt gió và cho em về sớm. Thực ra lúc đó
tôi cũng đâu có ăn sáng (và chắc nhiều
người cũng vậy). Không biết bây giờ em có còn
nhớ thầy không, nhưng chuyện hôm đó theo tôi đến
tận bây giờ. Tôi còn nhớ chỉ vài ngày sau
thì trên radio có thông báo bộ đội Việt
Nam đánh qua Campuchia.
Năm 1976 tôi dạy lớp năm trường Định Thành, lớp cuối
cấp một vì có nghiệp vụ sư phạm chính quy. Lớp toàn
học sinh nam, học rất giỏi; mặc dù trường lớp tạm bợ vì
sau chiến tranh, lớp chỉ còn mấy bức tường, mái lợp tạm
bằng tranh. Thường đến tiết cuối là thầy trò đều oải, nên
tôi phải hâm nóng bằng mấy bài hát.
Không hiểu sao chúng khoái hát bài
“Bão nổi lên rồi” lắm, sau mới phát hiện chúng
trêu người bạn tên Sơn có cha tên Hai Bảo. Biết
vậy mà Sơn cũng gân cổ đập bàn hát to không
kém ai. (Đúng là phong cách Hướng Đạo. Bạn
trêu ta thì ta trêu lại!). Sơn bị sốt bại liệt từ nhỏ,
cả hai chân đều teo tóp, đi lại phải chống hai tay mà
lết. Nhà ba má em nghèo (ở ấp Hai) nhưng cũng cố cho
con ăn học, mong em có chút chữ nghĩa nuôi thân.
Tiếc là khi đó đã có máy tính,
Internet gì đâu. Em học lực chỉ trung bình nhưng ngoan
và vui. Thường làm trò bằng cách vắt hai chân
lên cổ tức cười lắm. Một em học chung (tên gì tôi
quên mất) thường đến nhà chở bạn bằng xe đạp, Sơn tự trèo
lên baga một mình không nhờ ai, cũng có khi bạn
cõng em về. Giờ em ngồi sửa quẹt bơm ga ở ngã ba cây
Vừng , gần chợ chiều. Hôm rồi về thăm Dầu Tiếng thầy trò có
chụp chung nhau một tấm hình kỷ niệm.
Mấy năm ở Dầu Tiếng tôi tích lũy được nhiều kinh nghiệm
sống… còn, nhất là lĩnh vực nông nghiệp: sạ, cấy,
cắt, đập lúa; trỉa lúa gò, trỉa đậu, đặt hom khoai
mì; quơ củi trong lô, làm cỏ mía, đặt trúm
đặt lợp, đặt sa mùa cá chạy, thả đáy,trút đục,
đánh bẫy lủi. Nhậu rượu đế mồi cua đinh, cá chạch, tép
sống. Xin nói thêm về mùa cá chạy. Tháng
năm, khi những cơn mưa lớn đầu mùa đổ nước trắng đồng và
chảy ra sông suối, ấy là lúc cá sông ngược
dòng tìm nơi đẻ trứng. Cuối năm, khi trời dứt mưa và
trở gió thì cá lại theo nước xuống tìm đường
ra sông lớn. Đó là quy luật ngàn năm của tạo
hoá. Và con người cứ theo quy luật đó mà thâu
tóm sản vật của đất trời. Những cơn gió chướng (gió
Bấc) hiu hiu thổi vào lúc nắng sớm, người ta đặt những cái
lợp làm bằng tre đan tại những nút thắt, cá theo dòng
nước đổ chui vào nằm đó chờ người ta trút lợp, bao
nhiêu tôm tép, cá lớn cá nhỏ đều nhảy
tưng tưng (hoặc không đặt lợp mà thay bằng sàn tre đan
khít cũng được). Thêm bánh tráng rau sống nước
mắm ớt là được một bữa huy hoàng tại chỗ.
Có một dụng cụ để làm cỏ gốc khi cây cao su còn
nhỏ, dân Dầu Tiếng không gọi là cái cuốc mà
gọi là cái “xạc lai”. Hình chữ nhật cở hai bàn
tay người lớn, một góc có tai để tra vào cán.
Rất nhẹ, dễ dẫy cỏ, gom đống, kéo rê… đồng thời cũng dùng
để làm cỏ đậu, dễ luồn lách giữa hai gốc, hai hàng
đậu. Chỉ có dân làm cao su mới biết, khi hỏi dân
xứ khác có biết cái xạc lai không thì
họ hỏi lại “hả”, trông ngố lắm.
6. Xin giữ màu xanh cho quê hương:
Kinh tế Bến Cát bây giờ đã bỏ xa Dầu Tiếng rồi.
GDP đầu người cao hơn gấp hai, gấp ba Dầu Tiếng, giao thông hết sức
thuận lợi nên các dịch vụ như xây dựng, địa ốc, ngân
hàng, bệnh viện, vận tải… rất phát triển, tư nhân sắm
được xe hơi cũng nhiều hơn. Thị trấn Mỹ Phước dành hẳn phân
nữa đất đai cho các khu công nghiệp, khu dân cư mới. Bây
giờ nhìn chợ Bến Cát (cũ) đứng khép nép sao mà
tội nghiệp trong khi khu dân cư mới với mấy khu phố thương mại, siêu
thị thật hoành tráng. Nhưng cũng có một bộ phận mất
đất đai nhà cửa nghề nghiệp cho công nghiệp hoá, cho
các khu công nghiệp và hạ tầng giao thông. Rõ
ràng người ta chấp nhận hy sinh quyền lợi của một bộ phận dân
cư này để một bộ phận dân cư khác làm giàu.
Tôi rất nghi ngờ hiệu quả của việc tái định cư. Cầm bó
bạc đền bù và chun vô mấy cái nhà hộp bốn
bề bê tông tường gạch ư?. Những người đã quen với cái
cuốc, máy bơm tưới, liếp rau luống cải, quen với cái liềm cắt
lúa cắt cỏ, giàn dưa leo, chiếc xe bò và những
liếp bánh tráng. Những người đã quen với việc tiện đâu
đái đó, đê mê ngữa mặt nhìn trời và
thưởng thức gió mát hiu hiu thổi, bây giờ tập làm
quen với bô tiểu bồn cầu. (Xin các bạn đừng cười, nếu ai đó
nói đái đường không khoái thì tôi
nói thật, đó là nói láo). Chuyển đổi nghề
nghiệp ư? Có ai thống kê dùm đời sống người dân
vài năm sau giải tỏa như thế nào ? Bao nhiêu % thành
công, bao nhiêu % thất bại ? Khi trao tiền đền bù là
xong phần trách nhiệm của nhà đầu tư rồi ư? Lái xe ôm,
cất nhà trọ, buôn bán nhỏ,… Người ta cứ hay đưa lên
gương điển hình như trồng chăm sóc hoa kiểng trong các
khu công nghiệp, tiểu thương, chủ nhà trọ… nhưng bỏ qua cảnh
ly tán, cốt nhục tương tàn vì đồng tiền đền bù
giải tỏa rẻ mạt, đó là chưa kể nguy cơ tha hoá do
có tiền đột xuất. Tôi biết có một trường hợp chồng
chăn vịt chạy đồng, vợ trồng lài (hái nhụy ướp trà),
ngủ một đêm thức dậy thành triệu phú. Việc đầu tiên
là sắm ngay sợi dây chuyền vàng đeo xệ cổ và
chiếc xe Dream II, vô nhà hàng karaoke, bia ôm
mà gót chân còn nứt và móng còn
dính phèn. Tự nhiên bạn bè nhiều vô kể.
Và “người ta” sao mà thơm quá còn vợ mình
thì chua lè.Và chuyện gì phải đến thì
đã đến… Đã lâu tôi không còn nghe
nói về anh ta nữa. Gọi là nạn nhân thì cũng đúng
mà cũng có thể không đúng. Trở lại chuyện quê
nhà, Dầu Tiếng có thể còn người nghèo, có
thể còn cảnh chạy gạo từng bữa , có thể còn có
những em nghèo học giỏi phải bỏ học dỡ dang vì gia cảnh. Nhưng
những cảnh đó không điển hình. Nếu hai vợ chồng cùng
là công nhân cao su, thì có thể lo ăn học
tươm tất cho hai đứa con. Làng 14, làng 18 đã có
trung học cơ sở (hết lớp 9), và làng 10 đã có
trường PTTH ( hết lớp 12). Cầu trời mấy ông quy hoạch đừng “hoạch”
quê hương (vợ) tôi, xin hãy giữ màu xanh cho con
cháu, xem như của để dành. Thế mạnh của Dầu Tiếng là
phát triển bền vững nhờ cây cao su, và du lịch sinh thái.
Đó là con đường thoát nghèo căn cơ lâu
dài. Nếu con đường Suối Giữa - Cầu Ông Cộ - Bến Súc hoàn
thành thì từ Sài Gòn, Thị Xã TDM đi Dầu
Tiếng có xa xôi gì ? Hồ Dầu Tiếng – Núi Cậu –
Chùa Thái Sơn - Hồ Cần Nôm là một khu du lịch
liên hoàn, ngay bây giờ đã là một nơi hành
hương nổi tiếng, các tour du lịch viếng núi Bà Đen
luôn luôn phải ghé qua núi Cậu trên đường
về. Chỉ hơi tiếc là trước chùa có hàng trăm sạp
bán hàng , quà lưu niệm mà có cái
nào của Dầu Tiếng đâu: muối ớt Trảng Bàng, bánh
tráng sữa, bánh tráng phơi sương, bánh tráng
mè, khô cá, khô bò, vòng mã
não, chuổi tràng hạt, hàng sơn mài, hàng
đồi mồi, nón quạt lá buông,thú nhồi bông,
kẹo dừa Bến Tre, quần áo sida ( second hand), mắt kiếng, dây
nịt, cây củ rễ thuốc Nam vô bịch…. toàn là đem
nơi khác tới. Hàng mây tre lá vắng bóng
hẳn (đủa tre, đủa xới cơm, rổ rá rế, liềm cuốc, đục, nơm, lồng
chim, giỏ bội…) trong khi chính đây lại là truyền
thống của Dầu Tiếng. Mỗi năm, Dầu Tiếng đều có tổ chức cuộc thi
chạy việt dã leo núi Cậu. (Một trong bốn cuộc thi leo núi
truyền thống đầu Xuân, ba cuộc thi kia là: Núi Chứa
Chan, Núi Bà Đen và núi Bà Rá).
Một hình thức quảng bá du lịch địa phương rất tốt. Hôm
rồi tôi khám phá được một bãi bồi ven hồ cỏ
xanh mướt rượt, tôi cứ đứng nhìn bồi hồi ước gì được
đưa các em Hướng Đạo Sinh đến đây tham quan cắm trại. Chỉ lo
nếu các nhà làm quy hoạch biết được, lên dự án
làm sân gôn hay trại ngựa giống thì…hu hu.
Hồ Dầu Tiếng
7. Ngày Tết, quê hương, đất nước, ông bà:
Thầy Gia Quang (ba của bạn Nguyễn Vinh Quy, tôi có nhắc
tới trong bài Sân trường yêu dấu) hiệu phó
trường Định Thành là bậc cha chú, khi bất đồng ý
kiến là ông quát : Mày biết cái gì?
Lúc tao đi dạy thì mày còn đang ở …Cuba lận.
(Có khi còn ở dưới đầu gối của ba chớ không được Cuba
nữa). Ngẫm cho kỹ ông nói cũng đúng. Thân xác
này là hoa của đất, lớn lên từ đất mà. Hai tiếng
quê hương, đất nước, ông bà… coi vậy mà thiêng
liêng lắm. Nhất là chúng ta, những người được nuôi
lớn lên từ sản vật của đất Dầu Tiếng và nước mát của
nguồn sông Sài Gòn… Nếu lỡ có trăm tuổi thì
hồn phách cũng vượt đại dương mà về nơi chôn nhau cắt
rún. Ở dưới chắc không phân biệt địch ta gì đâu.
Ngày 25 Tết đi dẫy cỏ mả ông bà, tôi thấy ai cũng
tiện tay thắp vài nén nhang cho những nấm mồ bên cạnh
cho đỡ hiu quạnh, cũng là truyền thống hoà hợp tốt đẹp của
dân tộc ta đó. Riêng tôi thì cứ theo đúng
lệ cũ : mồng một Tết cha, mùng hai Tết vợ mùng ba Tết Thầy.
Nên mùng hai Tết về Dầu Tiếng là phải nghiêm chỉnh
chấp hành nếu muốn chơi xả láng mấy mùng còn
lại, có khi qua mùng tới mền cũng chơi luôn. Ngày
ba mươi cuối năm nay là ngày Thứ Bảy 13.2.2010. Thường lệ,
chiều hôm đó nhà của người Việt nào cũng có
mâm cơm cúng ông bà gồm thịt kho hột vịt, dưa giá,
bánh tét, tô canh khổ qua… mà rước ông bà
về ăn Tết với con cháu. Khấn hương xong, bạn hãy đứng nhìn
làn khói tỏa xem có lên cao thẳng như sợi chỉ
không. Ấy là ông bà đang chứng minh cho lòng
thành của bạn đó. Không biết bên Mỹ có
mảng cầu dừa vừa đu đủ xoài xài không. Đó là
ngụ ý muốn xin “ ngó lên thì không bằng
ai, ngó xuống nhiều “ai” không bằng mình” đó
mà. Xin nói thêm về trái khổ qua. Ba ngày
Tết, đến nhà ai cũng thịt kho tàu, hột vịt, dưa giá,
củ kiệu, bánh tét, củ cải mặn, bánh tráng…
thét phát ngán tới cổ họng. Chỉ còn canh khổ
qua là húp được. Đăng đắng hợp với khẩu vị đám cháu
ông Lưu Linh. Mà sao bây giờ trái lớn, dầy cơm,
và ít đắng quá. Một người bạn (là anh Giàu,
rể của lớp B5) chỉ cho bí quyết giữ cho trái khổ qua không
rục vì hâm đi hâm lại: bỏ nồi canh khổ qua vô tủ
lạnh, ăn tới đâu múc ra hâm lại tới đó ( nếu có
lò vi sóng thì càng tốt) như vậy lúc
nào võ cũng dòn (hình như ai cũng khoái
ăn võ hơn ăn thịt). Hồi nhỏ, tôi vừa mong Tết mau tới mà
cũng sợ muốn chết vì cái khổ chùi lư. Một bọc trái
khế chua để trước mặt kèm theo mớ giẻ vụn và chai dầu hôi.
Chà đi xát lại còn hơn Mỹ đi càn mà
nó không chịu bóng. “Teng” (xỉ đồng) ra đen thui cả
mấy ngón tay. Xong rồi đem phơi nắng, lau lại lần chót trước
khi đưa lên bàn thờ. Bây giờ có dịch vụ chùi
lư rồi, người ta treo bảng chùi lư … lấy liền đầy đường. Sướng thiệt.
Thứ hai là ngắt đuôi cọng giá trước khi làm dưa
(ngâm nước muối). Trời đất ơi. Chị em tôi cứ vừa làm
vừa thở dài sườn sượt như con gái bị ép gã vậy.
Thứ ba là lặt lá mai. Xong rồi phải hốt dọn gom đốt nữa chứ.
Giờ có dịch vụ cho mướn chậu mai ba ngày Tết hoặc mướn bảo
quản chăm sóc suốt năm, chớ nhà chung cư hoặc phố liên
kế lấy đâu ra mặt bằng mà chứa. Cuối cùng là
rửa nhà. Nghĩa là muốn lấy được tiền lì xì cũng
chua lắm. Ngày nay, đến Tết trai thanh gái lịch Dầu Tiếng
và vùng lân cận hay rũ nhau đi chơi núi Cậu,
lễ chùa Thái Sơn và tụ tập sinh hoạt tại hồ Than Thở.
Vui lắm. Tôi có đứa cháu vợ năm rồi phải bỏ thầu cả
trăm triệu mới được giữ xe khu du lịch Núi Cậu. Nếu được bỏ phiếu
chọn biểu tượng Dầu Tiếng tôi sẽ chọn hình ảnh dãy
núi Cậu và hồ Dầu Tiếng.Và con chim đa đa.
Lưu Thanh Bình
12 - 2009