Đại Thắng Mùa Xuân Năm Kỷ Dậu 1789
hay Chiến Thắng Ngọc Hồi - Đống Đa


Lưu Thanh Bình

Chúng em,cựu học sinh Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương xin cám ơn Quý Thầy Cô  thông qua những bài giảng Việt Sử đã thổi vào tâm hồn chúng em lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

Lời nói đầu truyện :

Lịch sử Việt Nam suốt mấy ngàn năm dựng  nước và giữ nước của ông cha ta cũng là mấy ngàn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm .Từng tấc đất,từng ngọn cỏ thấm đẫm xương máu tiền nhân. Nếu vì ươn hèn hoặc lợi ích trước mắt mà hy sinh thành quả của tổ tiên, mặt mũi nào mà nhìn lại Người dưới suối vàng, bao nhiêu nước cho đủ gột sạch nỗi nhơ mà ngước nhìn đám con cháu hậu thế.

1. Dã tâm của phương Bắc:

Mùa đông năm Đinh Mùi 1787, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm vâng mệnh chủ soái là  Nguyễn Huệ ra Bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Thế quân mạnh như nước chảy, giết Nguyễn Trọng Duật ở Thanh Hóa, bắn chết Nguyễn Như Thái ở Ninh Bình, truy đuổi và chém chết cha con Nguyễn Hữu Chỉnh  ở Kinh Bắc. Vua Lê bỏ kinh thành, sống lẫn khuất trong dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị Tây Sơn lùng bắt. Sau đó, vua viết tờ sớ cầu cứu nhà Thanh, cử bọn quan văn là Trần Danh Án và Lê Duy Đản theo đường Lạng Sơn  sang Trung Quốc. Trước đó, Thái Hậu đang ở Cao Bằng cũng đã sai viên Đốc Đồng là Vũ Huy Túc sang Long Châu báo cáo cho bọn quan lại Thanh triều ở biên giới rõ cả. Bấy giờ là mùa thu năm Mậu Thân 1788. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị nhận được tin, bèn cho gọi bọn Nguyễn Huy Túc, Lê  Quýnh, Hoàng Ích Hiểu, Nguyễn Đình Quán, Nguyễn Quốc Đống và Nguyễn Đình Mai đến hỏi sự tình vua tôi nhà Lê. Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Sĩ Nghị nghe xong những lời trần tình của bọn quan lưu vong, đã quay sang  bảo đám liêu thuộc rằng: Nước An Nam từ đời Hán Đường là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ Đinh quật cường, mới trở thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho đến ngày nay, lại không thể giữ được nước. Hoặc giả trời khiến nước ấy lại làm quận huyện của Trung Quốc chăng?. Tờ tâu của Tôn Sĩ Nghị được vua Càn Long ưng thuận, đem đại binh đưa vua Lê về nước, trước mưu sự khôi phục cho cống thần, sau giương cao thanh thế thiên triều cho bọn mưu phản khiếp sợ. Cũng theo sách trên, ở mạn Thái Nguyên , Tuyên Quang có bọn dân phu chuyên nghề khai mỏ gốc ở Triều Châu cũng hăng hái xin được làm quân tiên phong vì thông thuộc đường xá và phong thổ, tình nguyện nhập vào đạo quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống (sau này đạo quân trên bị đánh tan tác tại Khương Thượng, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vận). Trước lúc xuất quân, Tôn Sĩ Nghị lại thảo tiếp một tờ sớ dâng vua Thanh, đại ý: ” Thần nghe họ Lê ở nước An Nam hèn yếu, sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ sang cầu cứu, bản triều theo nghĩa phải cứu giúp. Vã chăng, An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, nếu sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó lại cho quân đóng giữ, thì như thế là bảo tồn họ Lê mà đồng thời lại chiến được nước An Nam, một công mà hai việc vậy”.

Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quân Thanh kéo sang làm ba đạo: một do Tổng Dốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Đề Đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy theo đường ải Nam Quan qua Lạng Sơn kéo xuống, một do đề đốc Vân Nam Quý Châu là Ô Đại Kinh chỉ huy, đi đường Mông Tự qua Tuyên Quang tràn sang, một do Tri Phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống chỉ huy từ Khâm Châu qua Cao Bằng đổ xuống. Cả ba đạo quân đều xuất phát vào cuối tháng 10 năm Mậu Thân 1788. Đại quân đi thong thả như chốn không người không gặp kháng cự càng làm cho Nghị thêm cao ngạo. Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân 1788, đạo quân Lưỡng Quảng nhập thành Thăng Long, đạo quân Vân Quý đóng ở Sơn Tây, và đạo quân Điền Châu đóng ở Khương Thượng (Hà Tây). Sau đó chia ra lập đồn phòng thủ: đồn Ngọc Hồi ở Thanh Trì, đồn Hà Hồi ở Thường Tín, đồn Nhật Tảo ở Duy Tiên và đồn Nguyệt Quyết ở Thanh Liêm. Quân nhà Lê cũng được điều xuống Gián Khẩu làm tiền đồn chặn bước tiến quân Tây Sơn. Tuy nhiên quân lính nhà Thanh ngày càng bê trể, có khi đi thăm thú xa hàng mươi dặm, tối đi sáng về xem như bình thường, trong quân doanh càng về cuối năm càng nhiều tiệc tùng . Quân do thám không qua khỏi Tam Điệp ( Ninh Bình) nên tình hình trong Nam hoàn toàn mờ mịt, đã vậy bọn lính khai mỏ gốc Triều Châu lại tha hồ thả sức mà cướp bóc hãm hiếp dân thường, bọn này khoảng một vạn người, lợi dụng oai thiên triều mà tác quái không kiêng dè ai cả, 8 điều quân luật của Tôn Đốc Bộ chỉ là hình thức mà thôi.

2. Lê Chiêu Thống báo ân báo oán:

Cuối năm Mậu Thân 1788, Lê Chiêu Thống theo chân 29 vạn quân Thanh vào Thăng Long. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, tại điện Kính Thiên, Tôn Sĩ Nghị tuyên đọc sắc phong của vua Thanh, cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Tuy vậy giấy tờ thảo đi các nơi đều dùng niên hiệu Càn Long. Khi phong chức tước cho các quan, vua chỉ chú ý đến những người theo hộ giá hoặc hầu hạ, còn cựu thần và hào kiệt đều không được bổ dụng. Bọn Lê Quýnh ỷ lại thân cận với vua, cưỡng đoạt tài vật của các quan nhưng vua chỉ làm ngơ. Hàng ngày vua thân đến quân doanh của Nghị để chờ bàn bạc việc nước, nhất nhất việc gì cũng trông vào người Thanh, có hôm rỗi việc, Nghị chỉ sai lính truyền lại cho vua lui về cung. Dân kinh kỳ nhiều người than rằng:nước Nam từ khi có đế có vương chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Ngược với báo ân, báo oán thật là khủng khiếp. Trong tôn thất, có người phụ nữ lấy tuớng Tây Sơn và đang có mang, vua sai người bắt mổ bụng giết chết. Ba người hoàng tộc họ Lê (chú họ của vua) trước có ra cộng tác với quân Tây Sơn , vua sai chặt chân rồi quăng xuống giếng trong cung (có sách nói là chặt chân rồi quăng ra chợ Cung, một ngôi chợ nhỏ ở trong cung). Ngoài ra, tất cả những người có liên quan với Tây Sơn trong thời gian vua đi trốn, đều bị căn cứ theo hành trạng mà xử phạt: Phạm Như Toại, Nguyễn Bình, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Hoàn, Phan Lê Phiên, Vũ Huy Tấn , Nguyễn Quý Nha, Trần Bá Lãm… Duy chỉ có trường hợp của Trần Công Xán, bị Tây Sơn giết chết trong lúc vào Phú Xuân đi sứ đòi lại đất Nghệ An (11 tháng 4 năm Đinh Mùi) là được làm lễ tế .

3. Tránh mũi nhọn để bảo toàn lực lượng:

Mùa hè năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình Vương ra Thăng Long giết Võ Văn Nhậm chuyên quyền, chỉnh đốn mọi việc rồi giao lại cho Ngô Văn Sở cai quản Bắc Hà, sau đó gấp rút về Nam (khi đó Thành Gia Định đã bị Chúa Nguyễn lấy lại, Nguyễn Lữ bỏ về Quy Nhơn, chỉ còn PhạmVăn Tham đơn độc chống cự, thua liền mấy trận). Tình hình Bắc Hà tương đối yên ổn, ngoại trừ mấy vụ đánh dẹp lẻ tẻ nên Sở chủ quan xem thường, khi họp bàn công việc hay dùng lời lẽ chế nhạo bọn văn quan như Ngô Thời Nhậm ,Phan Huy Ích. Đến khi tin cấp báo ở cửa ải đưa về, Ngô văn Sở mới vội vã triệu tập các quan họp bàn và cuối cùng nghe theo kế của Ngô Thời Nhậm, tạm rút lui để chờ viện binh. Năm ngày sau, đại quân các nơi tề tựu về Thăng Long, hội quân bên bờ sông Nhị. Tướng tiên phong Phan Văn Lân xin được thử lửa với quân Thanh một phen. Được Ngô Văn Sở đồng tình, Lân bèn đem quân qua sông đi sang hướng Bắc, canh ba (17 tháng 11) tới bờ phía Nam sông Nguyệt Đức (tức sông Cầu), nghe tin quân của Tôn Sĩ Nghị đã đóng ở núi Tam Tằng. Lúc ấy tiết trời giá rét, Lân kéo quân qua sông thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với khí lạnh mà lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông, những kẻ cóng quá không thể qua được đều bị chết đuối. Còn những kẽ tới được bờ cũng đều bị quân Thanh giết chết. Lân liệu chừng không thể giao chiến được nữa liền vẫy quân chạy lui. Đám quân tan vỡ chạy trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Lân chỉ trơ một mình một ngựa mà quay về. Sở sợ quá, giấu kín việc bại trận không cho ai biết, ngày 20 truyền lệnh cho các đạo quân nghiêm chỉnh mà lui về Tam Điệp ( Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hoá), hai mặt thủy bộ tựa vào nhau để phòng thủ, ngăn hẳn miền Nam và miền Bắc. Do đó tin tức hai miền không thông, dân Thanh Hóa không hề biết vua Lê về Thăng Long ( 21 tháng 11), thụ phong quốc vương ( 22 tháng 11) và ngày 24 thì tin thất thủ Thăng Long đã vào đến Phú Xuân.

4. Hành quân thần tốc tạo yếu tố bất ngờ:


Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân ( 22 tháng 12, 1788) Nguyễn Huệ lập đàn tại núi Bân, tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi hạ lịnh xuất quân. Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân ( 26 tháng 12, 1788), đại quân dừng lại Nghệ An 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng. Quân số lên tới 10 vạn, được chia làm năm cánh và một đội tượng binh hơn 200 thớt voi. Ngay sau đợt tổng duyệt lực lượng, vua Quang Trung cho tiến quân ra Bắc Hà. Ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân ( 15.1.1789), đại quân đến Tam Điệp. Vua vỗ an quân sĩ, ngợi khen Ngô Thời Nhậm và mở tiệc khao quân. Rồi nhà vua bảo với các tướng hãy cho quân ăn Tết trước, đến ngày 30 lập tức lên đường, hẹn ngày mùng 7 vào thành Thăng Long sẽ  ăn mừng năm mới. Lúc bấy giờ ở Thăng Long, tất cả đều đang chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán, từ ngày 25 tháng chạp đã phong ấn, cho quan lính nghĩ dài ngày để đón tiết xuân. Mặc dù quân thám báo cho hay Tây Sơn đang mộ quân Nghệ An, sắp đánh ra Bắc nhưng Tôn Sĩ Nghị chỉ lo củng cố phòng thủ mặt nam Thăng Long, cử phó tướng Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ huy đôn đốc chứ không hề hay biết vua Quang Trung đang dốc toàn lực, chuẩn bị đánh một trận long trời lở đất (Đề Đốc Hứa Thế Hanh sau này chết trong đám loạn quân). Đó là do Tôn Sĩ Nghị chủ quan khinh thường quân địch và lối hành quân thần tốc, khiến cho địch không kịp trở tay của vua Quang Trung.

5. Sức mạnh của năm cánh quân:

Vua Quang Trung chia quân làm năm đạo: Trung quân do Ngài trực tiếp chỉ huy cùng Đại Đô Đốc Ngô Văn Sở và Tiền Quân Phan Văn Lân đánh vào mặt chính phía Nam Thăng Long. Tả Quân do  Đô Đốc Lộc, Đô Đốc Tuyết đốc suất theo đường thủy vào sông Lục Đầu, đánh đồn quân cần vương của vua Lê ở Hải Dương, sau đó quân chia làm hai đạo, một do Đô Đốc Lộc chỉ huy đi thẳng lên Lạng Giang, Phượng Nhãn ( Bắc Giang) để chặn đường rút về của quân Thanh; còn đạo do Đô Đốc Tuyết  vẫn làm chủ vùng Hải Dương, canh giử mặt Đông cho đại quân. Hữu Quân do Đô Đốc Bảo, Đô Đốc Long chỉ huy gồm cả tượng binh và kỵ binh. Một đạo của Đô Đốc Bảo theo đường Ứng Hoà ( Hà Tây) ra làng Đại Áng phối hợp với trung quân đánh đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh. Đồng thời đạo quân Đô Đốc Long xuyên qua huyện Chương Đức ( Hà Tây) hướng lên cánh quân Vân Quý của Ô Đại Kinh ở Sơn Tây nhưng sau đó đột ngột rẽ ngoặt sang làng Nhân Mục huyện Thanh Trì, tập kích đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống và tiến vào Thăng Long từ hướng Tây.

Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, chờ đúng ngày giờ đã định lên đường xuất phát.

6.Trận Ngọc Hồi - Khương Thượng (Đống Đa):

Đêm trừ tịch (30 Tết), quân Tây Sơn xuất phát vượt sông đánh vào đồn Gián Khẩu, quân nhà Lê mau chóng tan vỡ, Hoàng Phùng Tứ  bỏ chạy. Theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, khi tiếp tục tiến lên hạ đồn Nguyệt Quyết và Nhật Tảo ( Hà Nam), vua Quang Trung cho kỵ binh đuổi theo toán do thám của quân Nguyên, đến huyện Phú Xuyên thì đuổi kịp, bắt sống không để tên nào trốn thoát, do đó quân Thanh từ Hà Hồi đến Ngọc Hồi đều không hay biết gì cả. Ngày mùng 3  tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn áp sát đồn Hà Hồi ( Thượng Phúc), bắc loa gọi hàng. Khí thế vang dội khiến quân Thanh rụng rời kéo nhau ra hàng, toàn bộ lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết. Rạng ngày mùng 4, quân chủ lực Tây Sơn đã tiến tới đồn Ngọc Hồi. Trước đó, Hứa Thế Hanh nghe tin mất đồn Hà Hồi đã báo về Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị vội điều Thang Hùng Nghiệp mang quân ra chi viện. Nhưng Quang Trung chỉ hư trương thanh thế để tập trung hết sự chú ý của địch, trong lúc đó đạo quân của Đô Đốc Long đang trên đường hướng lên Sơn Tây thì bất ngờ rẽ vào làng Nhân Mục (nay là Nhân Chính), tập kích đồn Khương Thượng . Lúc ấy là nửa đêm mùng 4, quân Điền Châu hoàn toàn tan vỡ , Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn trên đài chỉ huy ở Loa Sơn ( khu vực phố chùa Bộc - Hà Nội hiện nay). Sau trận đánh, xác quân Thanh được gom chung vào 12 nơi, đắp cao thành gò nên tục gọi gò Đống Đa. Hạ xong đồn Khương Thượng, Đô Đốc Long thừa thắng diệt luôn đồn Nam Đồng ở cửa ngõ phía Tây Thành Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị chỉ chú tâm vào mặt Nam, khi nghe tiếng quân reo và lửa dậy hướng Tây Bắc thì mới có tin báo đồn quân Điền Châu tan vỡ. Ngay lúc đó lại tiếp có tin tiền quân Tây Sơn đã vào tận cửa ô. Tôn Sĩ Nghị thất kinh hồn vía dẫn bọn tùy tùng nhắm hướng Bắc mà chạy. Hoàng Lê Nhất Thống Chí chép:” Nghị lên ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc (áo) giáp, quân sĩ các doanh nghe tin đều hoảng hốt bỏ chạy, tranh nhau qua cầu phao bắc qua sông Nhị ( sông Hồng), xô nhau rơi xuống nước mà chết. Lát sau cầu lại đứt, quân lính bị rơi xuống nhiều đến nỗi nước sông Nhị tắc nghẽn không chảy được”. Vua Lê cùng bọn Lê Quýnh đưa Thái hậu ra ngoài hoàng thành, khi đến bến sông thì cầu phao đã đứt, vội chạy men theo bờ sông lên hướng Bắc, đến Nghi Tàm cướp được chiếc thuyền đánh cá mà sang sông.

Mờ sáng ngày mùng 5, vua Quang Trung truyền lịnh tấn công đồn Ngọc Hồi. Đồn này phòng thủ rất kiên cố, có cả địa lôi và chông sắt do phó tướng Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ huy. Voi chiến Tây Sơn tiến lên, ngựa quân Thanh sợ hãi giẫm lên nhau, lùi về đồn cố thủ. Nhân có gió Bấc, quân Thanh dùng ống phun khói tung hoả mù về phía quân Tây Sơn, không ngờ trời trở gió Nam, thành ra quân Thanh lại tự hại mình. Để phá hoả lực địch,vua Quang Trung cho ghép cứ ba tấm ván làm một bức mộc có tẩm rơm ướt, do mười người khỏe mạnh khênh, lưng giắt đao ngắn. Theo sau có 20 dũng sĩ cầm binh khí. Hai mươi bức mộc làm thành thế trận chữ nhất tiến lên. Khi gươm giáo chạm nhau thì quăng ván xuống đất, cầm đao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất  tề xông lên. Quân Thanh chống không nỗi bỏ chạy ra tứ phía , lại dẫm phải địa lôi chết rất nhiều. Bấy giờ đồn Ngọc Hồi chìm trong biển lửa. Quân Thanh bỏ chạy tới đê Yên Duyên trông thấy phục binh ở hướng Đông, phải chạy theo đường Vịnh Kiều trốn về Thăng Long. Nhưng chạy tới nữa đường thì gặp cánh quân Đô Đốc Bảo đánh tới từ làng Đại Áng. Quân Thanh vội chạy lên làng Quỳnh Đô định trốn xuống Đầm Mực. Quân voi Tây Sơn tiến lên tiêu diệt toàn bộ tàn quân Ngọc Hồi trốn về đây. Đạo quân Vân Nam-Quý Châu đóng ở Sơn Tây nghe tin các đồn quân thất thủ cũng tự rút chạy về Trung Quốc. Chiều mùng 5 Tết Kỷ Dậu vua Quang Trung tiến vào Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân, áo bào màu đỏ nhuộm đen vì khói thuốc súng. Trước đó đạo quân của Đô Đốc Long đã làm chủ Thăng Long. Đô Đốc Long đón rước vua Quang Trung vào thành. Như vậy đạo quân của vua Quang Trung đã vào Thăng Long sớm hơn dự kiến hai ngày. Trên đường tháo chạy, khi đến huyện Phượng Nhãn, Tôn Sĩ Nghị lại nghe tin quân Tây Sơn của Đô Đốc Tuyết và Đô Đốc Lộc đã đuổi gần tới, Nghị lại một phen khủng khiếp, các vật cần thiết mang theo đều vứt bừa ra đường, cho nên những vật của vua Thanh ban cho như sắc thư, kỳ bài, quân ấn đều bị quân Tây Sơn bắt được. Khi đến ải Nam Quan, số bại quân tơi tả theo kịp Tôn Sĩ Nghị chỉ còn 50 người. Quân Tây Sơn truy đuổi rao lên rằng sẽ đánh qua biên giới cho đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Duy Kỳ (Chiêu Thống), nên dân Trung Quốc vùng biên giới bồng bế dắt nhau chạy vào sâu nội địa, suốt mấy mươi dặm không một bóng người. Vua Quang Trung hạ lệnh chiêu an, số quân Thanh trốn tránh lần lượt ra đầu thú có hàng vạn đều được cấp phát lương ăn áo mặc. Tổng kết lại, toàn bộ đồn quân Thanh thiết lập để bảo vệ Thăng Long đều bị tiêu diệt : Gián Khẩu, Yên Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng và Nam Đồng. Các tướng Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống, Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng đều tử trận. Đạo quân Điền Châu gần như bị diệt hoàn toàn, cánh quân lưỡng Quảng bị tổn thất nặng và tan rã, chỉ có đạo quân Vân –Quý là không chịu thiệt hại do đã sớm rút chạy .

7. Chính sách ngoại giao thời hậu chiến:

Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa chấm dứt sự tồn tại của nhà Hậu Lê. Tuy nhiên ngay khi bờ cõi vừa vắng quân xâm lược, vua Quang Trung đã nghĩ ngay đến sách lược ngoại giao khôn khéo của một nước nhỏ, tránh nạn binh đao để an dân. Ngô Thời Nhậm vâng mệnh vua, trổ tài văn chương ứng đối, mềm mỏng cho khỏi thẹn nước lớn mà vẫn giữ được quyền tự chủ nước nhà. Lại phối hợp với tân Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An, cùng với đại thần Hoà Khôn mà chủ trương việc hoà hiếu hai bên. Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Khang An gửi thư cho Thời Nhậm,bảo Nhậm đưa vàng bạc đút lót Khôn. Khôn liền tâu với vua Thanh là Càn Long xin bãi việc binh, giãng hoà và phong vương cho Quang Trung ( Về sau Hoà Khôn bị vua Gia Khánh bức tử và tịch thu gia sản). Mới hay thời nào cũng vậy,bọn xu nịnh ngồi trong mát mà vơ vét của cải tứ phương,d ối trên gạt dưới mà thăng quan tiến chức. Chỉ tội cho bao linh hồn tử sĩ vất vưởng nơi sa trường, thảm cảnh vợ goá con côi xiết bao là tội nghiệp./.

8. Phụ lục : niên biểu Tây Sơn và nhà Nguyễn (1773-1802):

1773

Quý Tỵ
Nguyễn Nhạc chiếm thành Quy Nhơn,Quân Tây Sơn sau đó lần lượt chiếm Quảng Nam, Quảng Ngãi ở phía Bắc và Phú Yên Diên Khánh Bình Thuận ở phía Nam. Quân Nguyễn phản công,tái chiếm Phú Yên,Diên Khánh,Bình Thuận nhưng bị Nguyễn Huệ đánh bại

1774

Giáp Ngọ
Quân Trịnh chiếm Phú Xuân và Quảng Nam . Định Vương Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định.

1775

Ất Mùi
Nguyễn Lữ chiếm GiaĐịnh.Quân Trịnh bỏ Quảng Nam rút về Phú Xuân Đỗ Thành Nhân giúp chúa Nguyễn lấy lại Gia Định.

1776

Bính Thân
Tây Sơn vào đánh Gia Định

1777

Đinh Dậu
Nguyễn Huệ vào Nam lần thứ 1, bắt Định Vương, Tân Chính Vương giết tại Gia Định. Quân Nguyễn thua trận ở Cần Giờ, Long Xuyên.Hai chúa Nguyễn bị bắt  đem về Gia Định.

1778

Mậu Tuất
Nguyễn Nhạc xưng vương

1780

Canh Tý

Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định và xưng Chúa.

1781

Tân Sữu

Chúa Nguyễn giết Đỗ Thành Nhân

1782

Nhâm Dần
Nguyễn Huệ vào Nam lần thứ 2, đánh thắng chúa Nguyễn và quân Pháp tại Gia Định. Nguyễn Lữ ở lại trấn giữ. Sau khi Nguyễn Huệ rút về, Châu Văn Tiếp giúp chúa Nguyễn tái chiếm Gia Định

1783

Quý Mão
Nguyễn Huệ vào Nam lần thứ 3, thắng trận thuỷ chiến tại Cần Giờ, đánh bại Châu văn Tiếp, bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức, giết Tôn Thất Mân, Dương Công Trừng, Nguyễn văn Quý, truy đuổi chúa Nguyễn ra Phú Quốc, Côn Đảo.  Chúa Nguyễn thua trận,lưu vong sang Xiêm.Miền Nam do Tây Sơn cai quản nhưng lòng dân không phục.Mỗi khi Nguyễn Huệ rút về Quy Nhơn thì chúa Nguyễn lại được nhân dân ủng hộ khôi phục.

1784

Giáp Thìn
Mùa hè, quân Xiêm vào cõi Việt Chúa Nguyễn theo chân quân Xiêm về lại Châu Đốc. Mùa thu, Châu văn Tiếp bị Tây Sơn giết ở Măng Thít (Tiền Giang).

1785

Ất Tỵ
Nguyễn Huệ vào Nam lần thứ 4, Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút, đánh tan toàn bộ liên quân Xiêm - Nguyễn Chúa Nguyễn thua chạy sang Xiêm

1786

Bính Ngọ
Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân của chúa Trịnh, sau đó tiến ra Bắc lần thứ 1, giết Trịnh Tông, chấm dứt sư nghiệp 200 năm làm chúa của họ Trịnh. Vua Lê gã công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Lê Chiêu Thống lên ngôi. Nguyễn Nhạc ra Bắc để hạn chế ảnh huởng của Nguyễn Huệ với Bắc Hà.

1787

Đinh Mùi
Tháng 4, Nguyễn Nhạc xưng đế, đất Tây Sơn chia ba. Cuối năm, Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy. Đất Bắc Hà thuộc quyền Bắc Bình Vương cai quản. Về danh nghĩa, anh em Tây Sơn đã thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc

Tháng 7, chúa Nguyễn trở về miền Nam. Như vậy, trên thực tế, chưa bao giờ Tây Sơn thực sự thống nhất cai quản toàn bộ đất nước.

Nguyễn Huỳnh Đức bỏ trốn khỏi Nghệ An, qua Lào, Xiêm về miền Nam theo chúa Nguyễn

1788

Mậu Thân
Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2, giết Vũ Văn Nhậm. Ở Gia Định, Nguyễn Lữ bỏ về Quy Nhơn, để Phạm văn Tham ở thế bị động Tháng 8, chúa Nguyễn lấy lại thành Gia Định.

1789

Kỷ Dậu
Đầu xuân, Nguyễn Huệ xưng Quang Trung Hoàng Đế, sau đó ra Bắc lần thứ 3, chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa. Vua Quang Trung chinh phục lòng dân Bắc hà. Tháng 2, tại Ba Thác, tướng Phạm văn Tham và quân lính Tây Sơn đầu hàng, bị bắt giết toàn bộ. Miền Nam thuộc hoàn toàn chúa Nguyễn. Kể từ đây, quân Nguyễn chuyển sang thế chủ động tấn công, tuy nhiên còn vua Quang Trung nên chiến sự dằng co, bất phân thắng bại.

1792

Nhâm Tý
Tháng 7,vua Quang Trung mất. Con thứ Quang Toản lên ngôi, lấy niên hiệu Cảnh Thịnh. Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền làm suy yếu nhà Tây Sơn. Quân Nguyễn đánh phá Quy Nhơn rồi rút về.

1793

Quý Sữu
Quân Tây Sơn bỏ Bình Thuận , Diên Khánh rút về Phú Yên. Bắt đầu quá trình suy sụp của Triều Tây Sơn. Quân chúa Nguyễn đánh phá Quy Nhơn, lấy lại Bình Thuận, Diên Khánh ( Khánh Hoà). Tướng Tây Sơn Lê Chất theo về chúa Nguyễn.

1794

Giáp Dần
Tây Sơn vây Diên Khánh nhưng thất bại. Võ văn Dũng đem quân từ Phú Xuân về giết Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Đô đốc Ngô Văn Sở. Võ Tánh giữ vững Diên Khánh. Ranh giới tạm thời:từ Diên Khánh trở vào thuộc chúa Nguyễn.

1798

Mậu Ngọ
Quân Cảnh Thịnh vào giải vây thành Quy Nhơn sau đó chiếm lấy luôn đất. Nguyễn Nhạc uất chết. Quân Nguyễn vây thành Quy Nhơn.

1799

Kỷ Mùi

Tháng 2, quân Nguyễn chiếm Phú Yên. Tháng 3 quân Nguyễn chiếm thành Quy Nhơn. Đổi tên là thành Bình Định.

1800

Canh Thân
Thánh giêng,quân Tây Sơn vây thành Bình Định

1801

Tân Dậu
Ngày 27 tháng 5, quân Tây Sơn chiếm lại thành Bình Định. Tất cả tướng sĩ quân Nguyễn bại trận, Trần Quang Diệu đều tha không giết. Kinh đô Phú Xuân thất thủ, vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Ngày 3 tháng 5, chúa Nguyễn vào Phú Xuân. Tháng 5, thành Bình Định thất thủ, Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tuẫn tiết.

1802

Nhâm Tuất
Tháng 1, quân Tây Sơn thua trận Đầu Mâu-Nhật Lệ (Quảng Bình), Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng bỏ thành Bình Định chạy ra Bắc, sau đó Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân bị bắt ở Nghệ An. Võ Văn Dũng bị bắt ở Thanh Hoá. Tháng 7, vua Cảnh Thịnh (Bửu Hưng) bị bắt ở Sơn Tây, chấm dứt triều Tây Sơn. Vua Gia Long lên ngôi tại Phú Xuân tháng 5 năm 1802. Sau đó tiến quân ra Bắc, lần lượt đánh bại quân Tây Sơn, vào thành Thăng Long cuối tháng 6. Hành hình vua tôi Tây Sơn tại Phú Xuân.

9. Bài đọc thêm 1: Quân số nhà Thanh sang xâm lăng nước ta là bao nhiêu?

Hoàng Lê Nhất Thống Chí có chép lại “8 điều quân luật” và bài hịch của Tôn Sĩ Nghị rằng quân số là 50 vạn ( tức 500.000 người). Thực ra đây chỉ là con số khoa trương không sát với thực tế.

“Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện” và “Nguyễn Thị Tây Sơn ký” chép số quân là 20 vạn nhưng không phân biệt lính, dân phu, quân nghĩa dõng.

“Chiếu phát phối hàng binh,binh nội địa” của vua Quang Trung, do Ngô Thời Nhiệm chấp bút ngay sau chiến thắng thì ghi là 29 vạn. Nhưng cũng không chính xác.

Theo “Đại Thanh thực lục”, số quân Lưỡng Quảng là 1 vạn, quân Vân Quý là 8.000 người. Như vậy,số quân Điền Châu bỏ đi đâu?, nếu căn cứ theo bài hịch của Tôn Sĩ Nghị, cứ 1 lính được cấp 1 phu thì số dân phu  phải là thêm 2 vạn nữa. Cộng thêm số quân nghĩa dõng ( thực chất là bọn thổ phỉ người Hán, ăn theo quân Thanh để cướp bóc dân ta) là 1 vạn nữa thì quân số đã là 5 vạn rồi. Đây cũng là suy đoán mà thôi.

Hồi ký của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère ( 1764-1830) xuất bản tại Pháp năm 1812 cho biết quân Thanh sang đánh nước ta khoảng 40 ngàn người, bị giết mất khoảng phân nữa tức 20 ngàn người. Giáo sĩ trên đến Thăng Long chỉ sau 1 năm xảy ra trận đánh nên có thể lượng định được nhiều tin tức hơn.

“Càn Long chinh vũ An nam ký” của Ngụy Nguyên đời Thanh  cũng chép số quân Thanh là 18.000 người, nhưng chưa kể số dân phu, thổ binh và quân nghĩa dũng.

Theo các nhà nghiên cứu Tạ Trí Đại Trường, Phan Huy Lê, Hồ Bạch Thảo, và Trần Gia Phụng, sử nhà Thanh ghi chép con số thấp đi để che giấu thiệt hại, chứ chỉ nhìn con số võ quan cao cấp dưới trướng Tôn Sĩ Nghị thì không thể nói là đạo quân này chỉ có vài ngàn được, và trận chiến thu hút sự quan tâm của vua Càn Long đến nỗi vài ngày lại ra một chỉ dụ.

Cũng theo giáo sư Trần Gia Phụng, trước đó để chinh phạt một bộ tộc nổi loạn ở phía Tây  chỉ có 150 ngàn người mà nhà Thanh huy động đến 8 vạn quân. Như vậy số quân đánh Đại Việt phải cao hơn con số 8 vạn quân. Do đó, theo ông con số tạm tin được tối thiểu là 4 vạn lính, 4 vạn dân phu.

10. Bài đọc thêm 2 : Hậu vận một số nhân vật triều Tây Sơn :


Sự tích Ông Vò: Từ sau năm 1802, đầu lâu của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Quang Toản bị giam ở nhà Đồ Ngoại, tức Võ Khố sau này. Từ 1822, các vò bị giam vào khám đường ở phía tây bắc kinh thành Huế, khoảng giữa cửa chính tây và An Hoà. Ba chiếc vò bị xiềng và giam riêng, ngăn cách nhau, ngoài có niêm phong, hàng tháng có quan triều xuống kiểm tra. Ba chiếc vò được tù nhân tôn kính gọi là “ông Vò”, còn những người gác ngục gọi là “chúa Ngụy”. Năm 1885, biến cố kinh thành Huế xảy ra, ba chiếc vò mất tích kể từ đó.

Nữ hổ tướng Bùi Thị Xuân: Bà người làng Xuân Hoà , gần thị trấn Phú Phong huyện Tây Sơn ngày nay. Dưới triều Thái Đức ( Nguyễn Nhạc), đội nữ binh của Bà phát triển lên tới 2.000 người và 100 thớt voi. Chồng là dũng tướng  Trần Quang Diệu, theo anh em Nguyễn Tây Sơn ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa. Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), Bà thất trận Nhật Lệ ( Quảng Bình), chạy lui về Nghệ An và bị bắt cùng chồng. Tháng 7 năm đó, Bà cùng chồng và con  bị hành hình tại Huế. Cái chết của Bà đã làm cho dân kinh thành và giáo sĩ phương Tây kinh ngạc và khâm phục. Chứng kiến cảnh chồng bị hành hình ( tùng xẻo) và con ( lăng trì), Bà vẫn không một lần cúi đầu. Tiếng thét xé lòng “mẹ ơi cứu con” của đứa trẻ 15 tuổi làm rúng động bao trái tim sắt đá, Bà vẫn hét con dũng cảm lên. Theo truyền thuyết, con voi có nhiệm vụ cuốn tội nhân quăng lên cao và giày đạp dưới chân đã nhận ra chủ cũ, không nghe lời quản tượng và thối lui. Cũng có thuyết nói bà chịu hình phạt “điểm thiên đăng” (dùng vải nhúng vào nước nến đun lỏng, quấn vào người tử tù rồi châm lửa thiêu sống).

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp: Danh sĩ đất La Sơn-Nghệ An( nay thuộc huyện Can Lộc) xuất thân trong một gia đình nổi tiếng về tài học vấn và khoa cử. Tất cả quan chức triều vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Gia Long đều trọng vọng và tôn ngài làm Thầy. Năm 1789, trên đường ra Bắc Hà chinh phạt quân Thanh, vua Quang Trung dừng chân tại Nghệ An, có diện kiến cùng ngài, khi được hỏi về cơ mưu đánh giữ, ngài đã thưa rằng chỉ trong 10 ngày giặcThanh sẽ bị dẹp tan. Năm Tân Dậu 1801, Cảnh Thịnh vời ngài ra Phú Xuân để tham vấn việc nước,n hưng cũng không nghe theo kế của ngài. Tháng 5 năm đó, chúa Nguyễn lấy lại thành Phú Xuân đuổi vua Cảnh Thịnh chạy ra Thăng Long. Khi gặp chúa Nguyễn, La Sơn Phu Tử vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt. Hỏi: Bọn Tây Sơn thờ tiên sinh làm thầy, vậy tiên sinh đã dạy cho chúng những gì? Đáp: Tôi vẽ cho 8 điều trong sách Đại Học và chín kinh trong sách Trung Dung, theo được thì làm, không theo được thì thôi (trích gia phả họ Nguyễn ở Mật thôn). Đổi giận làm vui, chúa Nguyễn đãi ngài làm thượng khách và đưa ngài về Nghệ An, khi ấy hãy còn là vùng đất do Tây Sơn kiểm soát. Trước khi ngài về, Nguyễn Vương có mấy lời đưa tiễn: ”Tiên sinh đức cao vọng trọng, mong sao khi về núi rồi, đào tạo cho thật nhiều nhân tài ra giúp bản triều, cho khỏi phụ lòng trẫm tôn lão kính hiền”. Khi ngài trở về quê nhà , Tổng trấn Nghệ An Nguyễn Văn Thận tỏ ý nghi ngờ hành trạng làm ngài nổi giận. Tháng 8 năm Tân Dậu, vua Cảnh Thịnh đưa quân bốn trấn Bắc Hà vào đánh Quảng Bình. Qua Nghệ An, vua vời ngài ra bàn việc nước. Ngài tâu: "Xưa kia hễ nước mất thì vua chết theo xã tắc. Nếu có tài của ông Câu Tiễn thì mới mong xoay chuyển…" Mùa Đông năm Quý Hợi 1803, ngài mất tại quê nhà , huởng thọ 81 tuổi.

Ngô Thời Nhậm: Ông sinh năm 1746, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì –Hà Đông. Đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi ( 1775), năm 1780 khi ông đang làm Đốc Đồng trấn Kinh Bắc thì âm mưu tạo phản của thế tử Trịnh Tông vỡ lở. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính Ngô Thời Nhậm cũng có dự vào việc phát giác âm mưu ấy nên được thăng Hữu thị lang Bộ công ( như thứ trưởng bây giờ). Ngô Thời Sĩ ( cha Ngô Thời Nhậm) cố sức can không được đã uống thuốc tự vận. Sau xảy ra loạn kiêu binh, Trịnh Tông được phò lập lên ngôi chúa, Ngô Thời Nhậm bị thất sũng. Năm 1788, Ngô Thời Nhậm là  một trong những cựu thần triều Lê đầu tiên ra cộng tác với Tây Sơn, rất được vua Quang Trung coi trọng. Chính ông là người đã hiến kế cho tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở lui quân về Tam Điệp. Sau chiến thắng, ông được cử làm Thượng thư Bộ Binh ( Bộ trưởng Quốc Phòng), làm chánh sứ sang nhà Thanh. Nhà Tây Sơn bị diệt, ông bị Đặng Trần Thường lôi ra Văn Miếu đánh đòn. Tuổi cao sức yếu,mấy ngày sau thì ông qua đời.

Phan Huy Ích: Người huyện Thiên Lộc ( nay là Thạch Hà) Hà Tĩnh. Nổi tiếng văn chương thi phú, đổ tam trường năm 26 tuổi. Đường hoạn lộ phải dứt khi Ích bị Nguyễn Hữu Chỉnh bắt được và giam lỏng trong quân. Năm 1788, ra cộng tác với nhà Tây Sơn, được phong Hầu, chức Tả Thị Lang Bộ Hộ. Sự nghiệp của ông sáng rực rỡ khi làm công tác ngoại giao với Thanh triều, sau chiến thắng Kỷ Dậu. Nhà Tây Sơn sụp đổ, ông bị đưa ra đánh đòn ở Văn Miếu. Trước đó, Lê Chiêu Thống cũng sai người đục bỏ tên ông ở bia Tiến Sĩ đặt tại Văn Miếu. Sau đó, ông về Nghệ An mở trường dạy học. Thời gian này ông hoàn thành bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn. Ông mất ngày 20 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1822), thọ 72 tuổi.

Tài liệu tham khảo:

Hoàng Lê Nhất Thống Chí, bản dịch của Nguyễn Đức Vân-Kiều Thu Hoạch- NXB Văn Học 2006

Các ngôi sao Tây Sơn- Nguyễn Xuân Nhân- NXB Văn Nghệ TP HCM 2001

Việt Sử giai thoại- Nguyễn Khắc Thuần- NXB Giáo Dục 2002

Bách khoa toàn thư-Wikipedia- Nguyễn Huệ- Trận Ngọc Hồi -Đống Đa