Cuộc phiêu lưu của dế mèn xứ Thủ

Nguyễn Ngọc Nhơn
CHS Trịnh Hoài Đức
(Riêng tặng các bạn còn yêu nghề (biển) nhưng vì hoàn cảnh phải bỏ ngang không hẹn ngày tái ngộ)

Lời giới thiệu: Anh Nguyễn ngọc Nhơn (con thầy Nguyễn Ngọc Châu)  là CHS Trịnh Hoài Đức, anh là thuyền trưởng tàu biển từng viễn du khắp thế giới. Bài nầy trích từ Kỷ Yếu Hàng Hải, xin giới thiệu đến các bạn CHS THĐ bốn phương.

Người bốn giống đen vàng đỏ trắng,
Trời bốn phương Nam Bắc Đông Tây.
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với Mẹ biết ngày nào khôn...

Hồi năm sáu tuổi gì đó, tui bị té xuống mương khi chạy chơi phía sau vườn. Cũng may là mương cạn với lại hổng phải té giếng nên tới bây giờ cũng không có vấn đề gì như khi dân mình nói tới mấy tay hơi bệnh tâm thần. Vậy mà Bà Nội tui cũng rầu quá trời vì khi tui mới lọt lòng, có nhờ Thầy xem Tử Vi, nói cái số thằng tui coi chừng bị nạn sông nước:

Khó nuôi thuở nhỏ chẳng lành,
Ốm đau kể thác, nhọc nhằn Mẹ Cha.
Trầm Phù chiếu mạng cho ta,
Té sông cùng giếng vậy mà phòng âu!!!

Cho nên, Bà lật đật bày cúng mâm tam sên ngay chỗ tui té, khấn vái hú ba hồn bảy vía của tui mau trở lại nhập xác cho đủ số. Bà sợ rồi đây cháu nội đích tôn lạc mất một hai hồn vía gì đó rồi học hành không được nữa nhứt là sẽ khờ khờ dể bị con gái dụ trước tuổi hihi (thầy bói cũng hay à nha, đoán trúng đoạn sau, 50%!) Đã vậy thôi, còn dặn mấy người hàng xóm, hể thấy thằng tui mon men ra bờ sông cuối xóm là đuổi nó về...

Tui thi vào Phú Thọ một lượt hai trường, Công Chánh và Hàng Hải. Nghĩ chắc mình ban Toán là ngon lắm, đâu ngờ trong phòng thi toàn là dân học trường Tây hoặc đại học hai ba chứng chỉ. Thằng tui duy nhứt học chương trình Việt, đọc truyện Kiều còn ai nấy đọc thơ Lamartine. Kết quả, làm mấy bài thi sinh ngữ dở quá nên đậu bên Công Chánh hạng 15 trên 24, còn Hàng Hải đậu hạng 17 trong số 24 gồm 16 người chánh thức và 8 dự khuyết! Tưởng làm nghề đo đất đo đường rồi chớ, nhè đâu bên Hàng Hải kêu qua trình diện. Khám sức khỏe tốt, tui bèn bỏ nghề đo đất sau khi đã nhập học được 2 ngày.

Tui còn nhớ, Bà nội rầy la Bà Vú tui quá chừng, hỏi tại sao để nó muốn làm gì thì làm. Đã biết sẽ bị nạn sông nước mà không bắt nó học tiếp nghề đo đường, lại bỏ mà đi học... lái ghe, lái đò? Nó đâu có biết lội. Hồi tưởng lại, thương Bà nội tui hết sức.
 
Ra trường, đi Elève trên tàu trắng Thống Nhứt. Chuyến đầu chạy Đà Nẵng, đi quart với quan tàu. Biển động cấp 7/ 8, tui say sóng quá trời. Nghỉ lại sao thấy mình ngu quá, bỏ ngang Công Chánh làm chi. Tính về tới Saigon là dẹp đi tàu, qua học nghề khác sướng hơn. Phải nói cũng may, ngày nay còn ở trong nghề là nhờ ơn quan tàu Lưu văn Quảng. Lúc tui nằm mẹp trên phòng lái, trong bụng nói tới đâu thì tới, ông kéo tui ngồi dậy và nói: "Elève, anh phải cố gắng lên! Người đi biển có đức tính cao quý nhứt là khinh thường sóng gió. Anh học mấy năm trong trường mà xuống đây, anh nằm mẹp như con chó rứa, mai sau răng anh commander người ta được? Cho nên, tui ráng sức ngồi dậy. Trong cảnh sóng gió gào thét mù mịt con tàu ngã nghiêng đó, ông vẫn đứng vững vàng và còn hát khe khẻ bài Chiều Mưa Biên Giới: Lênh đênh, chiếc bóng bên trời, vừng trăng lẻ loi, vẫn in hình bóng một người. Xa xôi, cánh chim tung trời, một vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai... (Coi vậy mà đã 45 năm rồi! Xin đốt một nén hương tưởng niệm đến người đàn anh với tất cả lòng biết ơn chân thành. Nghe nói đã ra đi trong một tai nạn nghề nghiệp bên Mỹ).

Tưởng làm sao, về cập bến Saigon, tui hết say sóng! Rồi hãnh diện khoe với mấy em, anh là thủy thủ (Lạ chưa, mới say sóng muốn chết đó bây giờ lại hãnh diện), rồi đặt thơ, viết nhạc ca tụng biển cả (biển có một, mà ca thằng tui tới mười, vậy không hà!) tặng cho em, nào là:

Người đi biển tựa mình bên thành tàu sơn trắng,
Hai mắt mở to, nhìn thẳng vào đêm biển mênh mang.
Con tàu ngửa nghiêng, sóng gió phủ phàng,
Người vẫn đứng để thi gan cùng sương gió...
( Nhơn / 1965)

Chả bù lại, lúc còn trong trường Hàng Hải, dòng thơ tặng em mơ mộng làm sao:

Sẽ có hôm, anh trở về với biển,
Yêu dịu hiền, yêu vẻ đẹp xa xăm.
Để dừng chân trên bải vắng chiều hôm,
Biển vẫn đẹp như ngày xưa anh kể...
( Nhơn / 1964)
 
Rồi tiếp tục, ngày qua ngày, lên Dịch rồi đi Gòn. Tổng động viên, nhập ngủ khóa 4/68, đi lãnh tàu Mỹ. Năm 75 vô Cải tạo, 79 cầm tàu qua Nam Dương, tới Pháp làm lại cuộc đời... đi tàu. Thiệt là:

Trót mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẩn trời gần trời xa... (Kiều)

Và từ đó, tôi đi năm châu bốn biển, xuyên suốt Đại Dương, lưu lạc tha phương, mặc dù thằng tui tới ngày nay... cũng vẫn chưa biết lội.

 Từ Marseille, tui đáp xe lửa lên tận miền Bắc để nhận chức vụ Sĩ Quan Hải Hành trên tàu Douce France 3 của hãng Marseille Frêt. Tàu cũng lớn, trang trí viễn dương trọng tải 15 ngàn tấn, từ Phi Châu sẽ trở về Pháp chiều nay và cập bến Dunkerque. Chuyến ra đi đầu đời này không khỏi làm tui bâng khuâng. Thứ nhứt là mừng tìm được việc làm nhưng phải để vợ con xoay trở một mình trên xứ người. Kế đó là chưa từng làm việc trên tàu Pháp mặc dù tay nghề tui hổng có ngán ai:

Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem tàu Pháp đưa mình đi mô?

Bèn hát câu, thôi mình ở lại, anh đi... Ôi, cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!

Thuyền Trưởng tên Moisiard, người Breton to con, nói năng hiền hoà (nhưng không phải như thóc với ngô đâu nghen). Gương mặt tươi vui mà đôi mắt toát ra vẽ lì lợm, oai hùng của một sói biển dạn dày. Mới vừa diện kiến, tui đã phục trí nhớ của ông: nhắc tới những kỷ niệm xa xưa bên Việt Nam như rạng đá ngầm banc de Corail Nhà Bè, Pernambucco, phía Nam mủi Kỳ Vân (Cap TiWan) ngoài khơi Long Hải, hòn Ba Vua (Trois Rois) gần Hòn Khói... mà ông gọi là les cailloux. Trời ơi, đất nước của tui mà lại có người ở xa xôi ngàn dặm vẫn còn nhớ đến từng chi tiết như vầy thiệt làm tui cảm động lắm lắm.

Đưa cho tui tờ giấy ghi các bến cảng của chuyến hải hành sắp tới, ông bảo tui lo chuẩn bị: chiều mai, tàu sẽ khởi đi một vòng gom hàng biển Bắc, Antverpen Bỉ, Amsterdam, Rotterdam Hoà Lan, Brême, Brêmahaven, Hambourg Đức. Lấy hàng xong, băng Đại Tây Dương, qua kinh đào Panama. Sau đó, đổ hàng dài dài ở các hải cảng Nam Mỹ phía Thái Bình Dương, từ Buenoventura Colombie, qua Guayaquil Equateur, xuống Callao, Arica, Antofagasta của Pérou, Valparaiso thuộc Chilie. Bây giờ chưa có hàng về, chỉ biết chuyến đi tới đó thôi. Mai mốt Hãng cho biết thêm mình sẽ đi đâu! Ông lưu ý tui, cho ông biết khoảng cách khác biệt giữa Loxo (Tà hành) và Ortho (Trực hành) bao nhiêu? (Tui xin phép mở dấu ngoặc ở đây để giải thích cho quí vị ở dưới máy rõ một chút về sự khác biệt này: trên mặt phẳng, đường thẳng là đường ngắn nhất nối liền giữa 2 điểm (định đề Euclide). Trên mặt hình cầu như quả đất, đường ngắn nhứt nối liền giữa hai điểm lại là hình cung của vòng tròn lớn, đi qua tâm của quả đất và phần lõm của nó lúc nào cũng quay về xích đạo. Trên bản đồ hàng hải theo phép chiếu Mercator, kẻ đường thẳng nối liền khởi điểm A đến điểm B gọi là Tà hành vì nó không phải nằm trên vòng tròn lớn. Quí vị để ý thấy phi cơ từ Âu châu qua Mỹ hay ngược lại thì rõ, nó bay theo Ortho đó. Khoảng cách càng xa thì sự khác biệt càng lớn.)

Má ơi, ở mấy năm cải tạo mới ra, đầu óc còn lùng bùng, đêm ngủ còn thấy đang đốn củi trong rừng Katum (nhớ rõ nghe, đêm qua tui không có mơ gặp bác gì đó nha) lại vừa qua Tây có mấy tháng, ngủ mớ nói tiếng Việt rân trời, Marseille còn chưa biết hết đường xá (Thành phố lớn thứ 2 sau Paris) bây giờ lại tính chuyện đi thế giới! Nghe tên mấy hải cảng lạ quắc lạ quơ chứ hổng phải như Nha Trang Qui Nhơn Đà Nẵng, rứa mô tê chừ thân yêu của mình mà bây giờ bổn phận của tui phải xem nó ở đâu, rồi tính toán vẽ đường chạy tàu tới đó, Hết rồi, cái trò thuộc lòng, Saigon đi Nha trang 241, Qui Nhơn 341, Đà Nẳng 511 hải lý. Bây giờ phải lật sách SHOM xem nó nằm ở đâu, ghi ra tất cả số bản đồ đủ loại, từ ngoài khơi vô cho đến cảng, rồi cờ của mấy xứ, sau đó kêu Đại lý mua. Phải tra Instructions nautiques xem bến bãi, đèn hải đăng, liệu tính atterrissage làm sao , xem khí tượng, tính thời gian hải hành với 2, 3 loại vận tốc bình thường cuả tàu để liệu giờ đến, xài tiền gì, so với tiền Pháp, ... ối thôi ngàn lẻ một chuyện mà toàn chuyện thiệt không hà, hổng có chuyện nào giởn hết. Đồ đạc đại lý vừa mang tới, CDT kiểm hàng chung với tui ( trên tàu Pháp gọi Thuyền Trưởng Commandant CDT, Thuyền Phó Capitaine Capt. Tiếng Anh Captain hay Master và Chief Mate). Ông nói, phải coi chừng, họ mua lộn cờ là phiền lắm đó, có lần vô hải phận của CHND Trung Quốc mà nhè treo cờ Đài Loan, bị Hải quân Trung Quốc chận lại xét hỏi, may phước trên tàu có cờ đầy đủ nếu không là mệt rồi. (Cũng giống qua Việt Nam, vô cảng Hải phòng mà đem treo... cờ vàng ba sọc đỏ vậy!).

Thuở đó, hàng hải Pháp gặp nhiều khó khăn vì giá chuyên chở mắc hơn các nước khác. Rất ít tàu còn giữ được lộ trình thường xuyên, đi về bến cảng quen thuộc. Phần lớn chỉ có hàng đi rồi từ cảng đến đó, Đại Lý sẻ tìm hàng cho mình đi tiếp. Đúng nghĩa giang hồ, ra đi không biết ngày về.

Tuy nhiên, làm việc trên tàu khoản 3 tháng là mình có quyền xin lên bờ nghĩ phép. Dù bất cứ ở nơi nào, Đại Lý ở bến đó sẽ lo việc chở người của hãng gởi qua thay thế và đưa mình ra phi trường. Hồi đó, cứ mỗi tháng làm việc thì được 20 ngày nghỉ bờ. Có hãng trả thẳng tiền congé này, có hãng cho lãnh lương bình thường vào cuối tháng chờ ngày trở xuống tàu. Phương tiện từ nhà mình đến tàu và ngược lại đều do hãng đài thọ hết. Sắp sửa hết phép, hãng sẽ phone cho biết ngày, tàu ở đâu, mình ra lấy vé xe lửa hoặc máy bay dành sẳn. Đi một vòng biển Bắc, mỗi bến ghé có mấy giờ không kịp ngưng máy tàu. Công việc vẫn phân nhiệm theo phiên trực hải hành. Thằng tui lo tính toán, vẻ đường đi tiếp. Tàu Việt Nam thì Quan tàu vẽ đường, tàu Tây thì đó là công việc của Dịch. Phải cập nhật hàng tuần những thay đổi theo AVURNAV, còn ghi chú thêm bằng viết chì trên bản đồ đang xử dụng. Ít có ai đi bờ. Với tui là lần đầu còn như mấy người khác thì họ rành quá, lo ngủ nghỉ cho khỏe. Hải hành vùng Pas de Calais rất khó khăn. Vào mùa Đông, thời tiết xấu, trời mù mịt, sóng to gió lớn tàu đông như kiến san sát với nhau. Mà đâu phải tàu nhỏ, năm ba chục ngàn cho đến mấy trăm ngàn tấn. Còn thêm tàu đò băng ngang qua lại nước Anh, Pháp, Bỉ, Đức,chiếc nào chiếc nấy từ 150 đến 200 m bề dài, chở mấy trăm xe hơi, xe lửa chứ không phải như đò Thủ Thiêm, Mỹ Thuận của mình. Khu vực này có những qui định quốc tế do các đài duyên hải kiểm soát chặc chẽ. Từ ngoài Đại Tây Dương vô thì đi phía bên bờ Pháp, khi trở ra thì phía bên Anh. Máy lúc nào cũng phải P.A.M chuẩn bị sẳn. Phải chạy trên những trục lộ (chenal) ấn định mà dân trong nghề gọi là đường rầy (Rails). Radio liên lạc 24/24 trên canal 16. Sỉ quan trực phiên phải báo cho CDT bất cứ có tin tức gì quan trọng như cấp cứu, bảo tố v...v... Chạy lạng quạng là Đài Duyên Hải kêu đúng tên tàu mình, yêu cầu điều chỉnh hướng lại. Nhiều chiếc vào khu vực này phải lấy Hoa tiêu hướng đạo luôn mấy ngày trời (Pilote hauturier). Tàu Tây, từ lúc khởi hành đến khi cập bến không tắt đèn hải hành. Thời tiết thay đổi hoài, mưa mù nối tiếp, hơi sức nào mở tắt, canh mặt trời mọc lặn cho mệt. Quí Vị nào còn khoái nghề (già hết rồi, tui nói khoái chớ không có yêu, ngứa gì nữa hết nha) cứ lên mạng www.marinetraffic.com/ais/ sẽ thấy hiện lên bản đồ thế giới, được phân ra thành từng ô nhỏ. Cứ click lên ô vùng nào mình thích xem, nó sẽ zoom + lên, muốn lớn hơn nữa thì cũng làm y như vậy. Muốn biết đó là tàu gì thì click lên chiếc tàu, tất cả chi tiết, tin tức của nó, vận tốc, bến cảng sắp đến sẽ hiện lên. Khi biết nó bao lớn, chạy bao nhiêu noeuds trong đám kiến đó, quí vị tính thử F=1/2 mv2 rồi suy ra vận tốc an toàn vitesse de sécurité thì biết! Bây giờ, mỗi chiếc tàu đều có vẽ số IMO (interational maritime organization) trên thành tàu như số xe trên bờ vậy. Bất cứ nó ở đâu người ta cũng tìm ra được. Hệ thống cứu nguy, phao bè đều được trang bị thêm một bộ phận báo động lên vệ tinh nối bằng sợi dây cột vào thân tàu. Khi quăng phao bè cứu cấp xuống nước, bộ phận này bị tách rời ra làm hai như nấp và thân cây viết, lập tức nó phát tín hiệu SOS, Ship's name, IMO, Call sign, tọa độ... gởi lên vệ tinh. Đài kiểm soát duyên hải khu vực đó nhận tin, sẽ báo động tổ chức cấp cứu tức khắc.

Đã xảy một chuyện diểu Charlot ở Marseille : trong lúc tui đang trực ca trên đài Vigie Port Control thì Đài kiểm soát Duyên Hải Toulon điện thoại đến, thông báo có nhận tín hiệu vệ tinh, tên một chiếc tàu đang lâm nạn trong... Cảng Marseille! Quả thật trong cảng có chiếc Supertanker khoản 300 ngàn tấn mang đúng tên call sign nhưng nó đâu có chìm! Lên tàu kiểm soát, má ơi, một thủy thủ tay mơ nhè gở rời bộ phận báo động, tháo phao cứu nguy tròn ra để sơn cho tiện!!!

Rời Dunkerque, đi Antverpen của Bỉ thì trời sụp tối. Hoa tiêu đưa ra khỏi Cảng, lên đường rầy. Làm trưởng phiên hải hành trong khu vực sóng gió sương mù này quả là một thử thách khá lớn mặc dù có huấn lệnh của CDT cho 3 chefs de quart là báo liền cho ông khi nghi ngờ bất cứ chuyện gì. Tôi cố gắng giử bình tỉnh, chăm chú không dám lơ đểnh. May nhờ phước đức ông bà, 4 giờ quart trôi qua. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết sợ.

Lấy hàng xong rời Hambourg, tàu trở hướng ra Đại Tây Dương, trực chỉ détroit de Mona gần Porto Rico, xuyên qua tam giác quỷ vào vùng biển Caraibes để qua kinh đào Panama.
Từ đảo Ouesant, cái mốc chuẩn ra khơi, Cdt quyết định đi Loxo, lý do là tuy xa hơn nhưng tránh được vùng phía Bắc đang có bão. Thật ra, ông muốn khảo nghiệm trình độ nên bắt tôi tính vì sau đó, ông so lại với sổ tay ghi chú thì thấy cùng đáp số (một lần nữa, học trò Nhơn xin tri ơn thầy Sanh dạy Trigo sphérique thật kỹ càng, thầy Ducasse dạy cách tính point vertex, xử dụng table Bataille mà ngày nay em vẫn còn nhớ rõ dù đã qua gần năm chục năm trời và mấy năm ở trong cải tạo).

Đảo Ouessant thuộc vùng Bretagne, Tây Bắc nước Pháp. Có câu, Qui voit Ouessant, voit son sang để nói lên sự cực khổ của nghề biển. Dân Breton rất thích phiên lưu, đi biển rất lì và suốt đời hình như chỉ biết có biển thôi. (Les bretons se trouvent partout sauf en Bretagne) Thử nghĩ, sau 5 tháng là muốn ngất ngư con tàu đi rồi, tui hỏi thằng Dịch commissaire, kỳ nghỉ phép mấy tháng này mầy làm gì, nó trả lời ngon lành: tao về nhà xong, lái tàu ra biển, câu cá, hứng gió, phơi nắng! Tui hỏi, bộ 5 tháng đi tàu mầy chưa đủ sao mà còn ra biển? - Ở đây là đi làm còn về nhà là tàu của tao, đâu có giống nhau! Tui ngọng.

Sóng Đại Tây Dương tuy lớn nhưng chu kỳ sóng tương đối dài, tàu lắc nhảy từ từ khác hẳn với Địa Trung Hải ngắn nên mệt hơn. Khi qua khỏi quần đảo Açores thuộc Bồ đào nha, tàu đi vào Tam giác quỷ, hệ thống GPS en panne, không chạy nữa. Có nó thì tốt chứ căn bản vẫn dùng sextant để định vị (dụng cụ hàng hải) còn GPS là aide de Nav. Vừa vô tam giác quỷ, tàu đang ngon trớn # 15 gút, bổng nhiên bị chết máy. Cả tàu nhốn nháo, Cdt lên Passerelle ra lệnh treo dấu hiệu bất khiển dụng lên cao còn Xếp đi xuống dưới máy. Tàu thả trôi bập bềnh cả giờ mà sửa vẫn chưa xong.

Bổng Xếp máy Breton trở lên Pont, kêu bếp chánh người Mạc Xây hỏi, vừa rồi, lấy thêm thức ăn ở Hambourg có mấy con... tai dài không? Anh ta đáp, có 4 cartons. Xếp máy bổng nổi giận đỏ mặt tía tai, la lối um sùm, mở tủ lạnh quăng hết 4 thùng xuống biển. Và như phép lạ, chỉ độ 5 phút sau là tàu sửa xong, chạy tiếp. À, phim này tui mới thấy lần đầu nha nên tui thắc mắc hỏi cho biết: Thì ra, nhiều thủy thủ Pháp còn tin dị đoan, rất sợ loài gậm nhấm theo như truyền thuyết xa xưa trên các tàu gổ đến độ không dám kêu tên Thỏ, Lapin mà gọi né là con... tai dài (Longues oreilles). Cũng giống như bên xứ mình, không dám chở rùa, mèo sợ xúi quẩy vậy. Ai mà gặp toàn chuyện xui xẻo hoài thì bạn bè chọc quê: il est noir hoặc gọi diểu là con mèo mun (chat noir).

Chắc quí vị có để ý điều này, dân mình gọi là năm con mèo trong khi lịch tàu kêu là năm con thỏ. Năm xung khắc là năm Dậu, con gà. Trên lá Tử Vi, Cung Mẹo hay Thỏ đóng ở chánh Đông, từ 5 đến 7 giờ sáng. Cung Dậu đóng ở chánh Tây từ 5 đến 7 giờ chiều. Sở dỉ như vậy vì người Tàu quan niệm theo việc truyền giống, thỏ giao mà không cảm (vì quá lẹ), trong khi Dậu gà cảm mà không có giao (chỉ... hun nhau bằng hai cái phao câu, chứ không có vào trong nhau) Cung Mẹo thì dương thịnh âm suy ( mặt trời đi lên, nhật xuất lôi môn) cung Dậu thì ngược lại, cái lên cái xuống, giao hoà âm dương trời đất. Đàn ông Việt Nam tiếu lâm nói hát dở như gà, Đầm thì chê lên phim lẹ như thỏ!

 Viết đến đây, chợt nhớ ra một câu chuyện vui: Có lần ghé cãng Beyrouth của xứ Liban, dân ở đây nói và viết tiếng Pháp như mấy người lớn bên mình hồi xưa, lọai tiếng Pháp văn chương, lể phép mà ở tại Pháp không còn ai xài nữa, thí dụ như trịnh trọng hỏi người gọi phone tới: tôi đang được hân hạnh tiếp chuyện với ai vậy ? (À qui ai-je l’honneur de parler?

Chữ La chatte là con mèo cái, không còn xài mà trở thành tiếng lóng như Con Chim trong tiếng việt người ta ưa nói và hiểu ngầm (giống như chữ Pussy vậy). J’ai un chat, c’est une femelle. Khổ hết sức! Lạ lùng là tiếng lóng sao tui mau nhớ, nhập tâm lẹ lắm à nha! Chiều hôm đó, tui và Cdt Pierno lên Đại Lý lấy giấy tờ, 18 giờ tàu chạy. Ông ta 53 tuổi mà còn độc thân, hiền hoà. Cô thư ký người Beyrouthine trẻ đẹp, đôi mắt mơ màng như trong chuyện Ngàn lẻ một đêm. Và đây là cuộc đối thọai:
- Cdt, est ce que la prochaine fois, vous reviendrez ici?
- Oui, encore un voyage avant de prendre mes congés. C’est pourquoi?
- Je voulais vous demander un petit service.
- Je me tiens à votre disposition, de quoi s’agit il?
- Il s’agit de ma... Chatte.
Tui vội vàng quay mặt chỗ khác, làm bộ ngó lên trần nhà. Nếu tui còn nhìn cô ta, tui sẽ bật cười thành ra vô phép lắm. Cdt Pierno lúng túng, cũng không biết nói sao, Oui, Oui thôi nhưng cũng không dám nhìn cô ta. Đã thế, cô ta còn ngây thơ nói thêm, Elle est toujours en chaleur! Tưởng tượng đi, một người con gái, sắc nước hương trời, ngây thơ, lại nói theo cách Việt Nam là: sao con chim của em nó rượng đực quá trời thì người nghe chỉ có nước ngọng thôi chứ trả lời gì được. Cô ta thật tình kể chuyện con mèo của cô, nhờ ổng mua giúp giùm thuốc ngừa chỉ có bán bên Pháp mang qua cho cô mà hai chúng tôi hiểu bậy bạ theo... phản xạ. Tui vừa mới gặp lại ông ta ở Mạc Xây và chính ông nhắc lại chuyện vui này. Nếu còn ở bên Việt Nam, tui cũng sẽ thiệt thà hiểu và dịch ra đúng như cô chứ hổng phải như bây giờ, nói con này lại lây qua con kia, quá trời quá đất đi!

Câu chuyện còn dài lắm với chuyến sau mang thuốc trở qua, gặp cô lại cười thêm một chập nữa, nhưng thôi, cho tàu chạy vòng vòng hoài, biết tới chừng nào mới đưa quí vị ghé bến Nam Mỹ. Thôi lấy lại hướng, lái thẳng qua Porto Rico. Zero la barre, Cap comme cà, steady as she goes, full ahead.

Tới đây là biển Sargasse ngập tràn rong biển, nơi có nhiều huyền thọai về con lươn (Anguille) Nó sống khoản 20 năm do những lươn mẹ từ Âu châu sang đây sanh ra. Từ đó cho đến 5, 6 năm sau, do bản năng, nó trôi nổi di chuyển trở về quê mẹ, len lỏi vào tận trong vùng nước lợ sinh sống. Sau đó, nó tự tìm về đây sanh sản rồi chết.

Dọc theo hai bên xích đạo, có một vòng đai rộng khoản vài trăm cây số. Trong nghề hàng hải gọi là pot au noir, theo nghĩa hiện nay là để chỉ một vùng khí hậu bất ổn, áp thấp nhiệt đới, hình tượng do các khối không khí nóng, ẩm hội tụ do hiệu ứng của gió alizé. Theo lời của một đàn anh người VN, cựu thuyền trưởng hàng hải Pháp, chử pot au noir có gốc tích từ thời chở nô lệ qua Mỹ châu. Nhiều khi gặp biển lặn đứng gió ( mer d’huile), các tên thuyền trưởng ra lệnh hạ thuyền cứu nguy rồi bắt dân nô lệ xuống chèo, kéo chiếc tàu buồm chở đầy người. Đôi khi, vì chở quá nhiều nô lệ, các tên thuyền trưởng dã man đó bèn quăng người xuống biển cho nhẹ tàu !

Khi tàu chạy qua biển Caraïbe tới vịnh Colon, đến cửa kinh đào Panama thì neo lại chờ tới phiên mình. Kỹ sư Pháp Ferdinand de Lesseps khởi công xây dựng từ năm 1880 và người Mỹ hoàn thành năm 1914. Kinh đào Panama dài khoản 80kms, nằm vắt ngang qua dãy núi, cao hơn mặt biển 26 m. Tàu muốn lên trên đó, phải leo qua 2 bậc ụ giống như cầu thang vậy. Hoa tiêu Panama đem tàu vô ụ ở đầu kinh. Có một toán chuyên viên vận chuyển tháp tùng, mình không quen không biết làm. Họ đóng ụ lại và bơm nước vô. Tàu được giử thăng bằng với 4 sợi dây cáp lớn như cườm tay từ 4 đầu xe lửa( mules) trang bị hệ thống kéo xả để giử cho con tàu nằm ngay ngắn trong ụ, nếu không khi bơm nước vô, sẽ xãy ra tai nạn. Đóng cửa ụ lại, bơm nước vô, đưa tàu lên cao. Lên tới bậc một, nhìn lại vịnh Colon, thấy các tàu đang thã neo nằm sâu phía dưới. Lại tiếp tục đóng ụ một, bơm nước vô như củ, lên tới bậc hai. Chẳng mấy chốc, mực nước ngang bằng với con kinh : mình đang ở 26 m cao hơn mặt biển đó ! Mở cửa ụ, chạy qua tới đầu kinh phía bên kia, chun vô ụ, xuống vịnh Panama tới Thái Bình Dương.

Dân Nam Mỹ phần lớn nói tiếng Tây ban nha, phía bên Brazil, Argentine còn nói thêm tiếng Bồ đào nha. Nhiều nơi, họ đội nón rộng vành Sombrero như dân Mể. Đàn bà da đỏ thường đội nón nỉ giống như mấy ông già xưa bên mình trông thật lạ mắt.

Bến cảng đầu tiên là Buenaventura của xứ Colombie. Quán nhậu rất nhiều, chổ nào cũng mở nhạc ầm ỉ. Rời Colombie, qua Guayaquil của xứ Ecuador, trồng chuối bạt ngàn. Phong cảnh nên thơ, rất giống VN. Bầy phoques hải cẩu nằm phơi mình trên những ghềnh đá ở cửa biển. Ven theo bờ sông chạy vào cảng, có những nhà tranh lẩn khuất sau vườn làm tôi nhớ nhà quá chừng. Dân bản xứ kể cho tôi nghe, trước khi vác quài chuối lên vai, người phu khuân phải coi kỷ, có một loại rắn lục nhỏ bằng ngón tay út, dài khoản 3 tấc núp trong đó, nếu không nó cắn trúng là chết. Tui không biết ở các đồn điền chuối bên mình có lại rắn này không ?

Khi xuyên xích đạo, trên tàu có tổ chức lể phát bằng theo truyền thống hàng hải. Nhiều thủy thủ cho đến lúc về hưu, chỉ hành nghề ở một phía bán cầu mà thôi. Theo thần thoại Hy Lạp, Neptune là thủy thần cầm cây chỉa ba cùng với vợ là Amphitrite do hai thủy thủ hóa trang, sẽ rửa tội, đặt cho mổi người tên một loài cá và sau đó phát bằng cho các thủy thủ lần đầu tiên xuyên xích đạo trong đó có tui. Ôi chao, thần Neptune bắt uống một ly cối cocktail ghê gớm, rượu chác pha dấm, whisky, tabasco, nước biển thêm đường rồi hè nhau quăng họ xuống piscine bơm đầy nước biển xích đạo ! Bắt buộc phải uống, không được chạy trốn thì sau đó mới phát bằng. Ai cũng nhớ đời hết. Nhậu nhẹt đàn ca, xướng hát suốt đêm, vui hết sức. Tàu vẩn rẽ sóng chạy đều. Phía ngoài xa khơi kia, bên phải con tàu là quần đảo Galapagos gồm 13 đảo lớn, 17 đảo nhỏ, hiện là khu vực sinh thái đang được quốc tế bảo vệ.
Từ đó hướng xuống Perou, rất nhiều đàn cá dài mút mắt, óng ánh màu bạc dưới nắng, tàu chạy hoài mà không hết đàn cá. Ngoài xa kia, những tàu xưởng nổi to lớn làm cá hộp, với kỷ thuật tiên tiến, chỉ đánh bắt một loại cá nào đó mà thôi. Nó phát sóng trên một tần số đăc biệt của loại cá đó, kêu chúng đến rồi cuốn hút lên tàu. Trải qua tiến trình, cá sẽ được đóng hộp trên tàu. Về đến bến, là những kiện hàng cá hộp được tải xuống !

Tới cảng Callao của xứ Perou, nhìn các tàu cá về bến, phải lấy lưới bọc hết boong tàu lại vì bầy chim già đãy bằng cở gà tây, bay theo kiếm ăn ngộp trời. Có điều lạ là hải sản nhiều như vậy mà Perou lại không có chế ra . . . nước mắm. Ở đây, tha hồ ăn sea foods đủ loại, tươi mà rẻ lắm. Bên Pháp mắc lắm. Đầu bếp đi qua bến tàu cá, mua tôm hùm (lobster) mới vừa lưới đem vô bờ. Phần thì đem nướng lửa than, một mớ đem luộc chấm muối tiêu chanh, sauce mayonnaise, ngọt thịt quá chừng !

Ghé mấy cảng Perou, tui có đi thăm vài bộ lạc da đỏ nằm sâu phía trong núi. Bà hướng dẩn kể lại là có những bộ lạc cứ mổi năm, tụ họp lại một lần làm lể . . . khóc suốt đêm ! Chắc họ buồn cho số phận người da đỏ.
Hải cảng Valparaiso thuộc Chilie khá lớn, sinh họat sầm uất, dân tình dể thương. Thấy có một chiến hạm Pháp nằm trong bến, Thuyền trưởng bảo Cò Tàu Lieutenant Commissaire mang quà tặng cho Hạm Trưởng Pháp. Phong tục hàng hải Pháp dể thương chổ đó. Họ biết sự hiện diện của chiến hạm ở vùng biển xa xôi này là để bảo vệ các thương thuyền Pháp khi cần. Cò tàu này vốn là cựu trung úy hải quân Pháp. Sau đó, anh ta kể lại cho tui nghe, đây là lần thứ hai trong đời, anh mang quà tặng cho Hạm Trưởng. Lần thứ nhất, hồi còn trong quân ngủ, Chiến Hạm ghé bến cảng bên Phi châu. Hạm trưởng bảo anh mang quà tặng cho Hạm Trưởng Soái Hạm của quốc gia Phi Châu đó, hiện đang có mặt trong cảng.

Lên tàu, anh trình lá thơ của Hạm Trưởng Pháp và xin gặp Soái hạm trưởng để trao quà. Gần 20 phút ngồi chờ trong bộ lể phục hải quân, anh ta muốn chết ngộp vì tàu hư . . . hệ thống điều hòa không khí. Anh kể : Khi Soái Hạm Trưởng mặc đại lể ra đón tiếp, lon lá dày cộm nơi cổ tay, mề đay đầy ngực, áo trắng, cà vạt, trông oai vệ hết sức mà nhìn kỷ lại , té ra là . . . thằng bạn đồng khóa hồi còn trong trường Hải quân bên Pháp. Anh chàng này được quốc gia gởi đi du học tu nghiệp, do H.Q. Pháp đào tạo, sau đó trở về phục vụ đất nước và lên cấp lẹ hơn sao xẹt. Nghi thức lể lạc xong xuôi, hết còn danh xưng chức tước, hai bên bèn gọi nhau mầy tao như xưa, kéo nhau vô phòng ăn S.Q. uống rượu. Anh kể tiếp, hắn xin lổi tao vì hệ thống máy lạnh chưa có cơ phận thay thế, nên tàu còn nằm chờ ở đây. Mồ hôi nhể nhại, hắn đề nghị trời nóng quá (Phi Châu mà !) thôi mày lột áo ra cho mát rồi uống. Để làm gương, anh ta lột áo veste ra trước. Trời đất thiên địa ơi ! Tưởng là cái áo sơ mi trắng, cà vạt bên trong, ai dè chỉ có chút xíu . . . cái cổ áo với cà vạt thôi, không có lưng mà cũng không có hai vạt phía trước áo, trông tức cười không nói được ! Ngộ biến phải tùng quyền hihihi

Tui cũng kể cho Cò Tàu Daniel nghe, hồi còn nội trú trong trường hàng hải, tui có thằng bạn chung phòng bên nước Phi châu gởi qua học theo chương trình đào tạo Thuyền trưởng. Có lẻ là con ông cháu cha, nhà giàu sao đó, thay vì lo học, tiền bạc rủng rỉnh, đêm nào cũng như đêm nấy, anh ta đi chơi đến 1, 2 giờ sáng. Tui nói mầy không lo học, mai mốt làm sao xuống tàu làm việc, thì nó trả lời : Tao qua đây học, để về xứ làm . . . Bộ Trưởng chứ đâu có phải để đi tàu ! Thật vậy, mấy năm sau, hắn có gởi thư cho tui, cho biết hiện là Bộ Trưởng Bộ Ngư Nghiệp, rủ tui qua đó làm cố vấn cho hắn, lương bổng sẽ rất hậu hỉ. Lúc đó, tui đang làm Thuyền Trưởng lại suy nghĩ, qua bên đó rồi mấy đứa con làm sao đi học nên tui từ chối . . .

Trở lại chuyện Nam Mỹ, dân tình ở đây rất tự nhiên, vui vẻ, ồn ào, thích múa hát, các điệu nhạc nóng bỏng, vui tươi như cha cha cha, mambo, salsa . . . Mấy bà vừa lựa hàng, vừa nhún nhảy, lắc lư theo tiếng nhạc thấy ngộ ghê. Kế đến là chổ nào cũng có con nít đá banh, trên đường, trong hẻm, góc phố, chổ nào trống là có đá banh. Sau cùng, ở các ngã tư lớn của thành phố, có nhiều tiệm ăn, tạp hóa của người Tàu.

Lần khác, lên sông Amazone bên Brazil, tới bến nọ, thấy có một tiệm nước nửa, có bày thêm bàn bên ngoài. Kêu một ly xây chừng, xổ vài câu xả giao tiếng Quảng đông còn sót lại trong trí nhớ lúc ở Đại học xá Minh Mạng, ngã sáu chợ lớn : Chủ sành tài lủ, nị hủ ma, cấm dạch dậu mụ xíu xức, nị úc khị hầy bính tù. May phước, ông chủ đúng người Quảng đông, khoái quá khỏi lấy tiền cà phê luôn. Ê, tui hỏi thì được, mà đừng có hỏi lại là tui . . . kẹt liền. Tới chừng ông nói tùm lum, tui bí qua bèn trã lời tiếng Anh thì ông ta không hiểu mà nói lại bằng tiếng . . . Sì ! (Spanish) Trời đất ơi, vốn liếng có mấy chử nghèo nàn, chưa đầy lá mít, hát được vài câu Cielito Lindo, Besame mucho mới từ lúc chạy qua Nam Mỹ thôi, tôi ngọng ! Uống lẹ tách cà phê, tố chè, tằng tài dạch chôi lầy nhẩm thím, bye bye.

Sau cùng, tàu ghé cảng bên Nam Dương, 80% là đạo Hồi không ăn thịt heo. Người Triều châu ở đây khá đông. Vào thời điểm đó, Hồi giáo đang trong thời kỳ ăn chay một tháng Ramadan. Vậy mà tui cũng được đại lý chỉ dẩn đến một tiệm nước không mở cửa hẳn, chỉ hé một bên do lể nói trên. Lại thấy treo cành cây nhỏ dấu hiệu hôm nay có món đặc biệt duy nhất bán một ngày trong tuần. Cũng hên, hôm nay đúng ngày mở cửa. Ngôn ngử bất đồng, tui chia liền động từ to Quơ, hand language. Chủ khách hai bên ráng hiểu nhau, OK, OK rân trời. Chịu trận bánh mì, bích tết, phó mách cả tháng rồi mà ! Trong tiệm bày biện trên bàn ống đủa, muổng, tương ớt, xì dầu y hệt như bên mình. Tui tìm lại được hương vị xưa, trong cảnh củ. Ăn bánh bao, xíu mại, hủ tiếu có hẹ nửa, thím sực tô mì, sì sụp húp nước lèo đến nổi không biết mình gốc Việt hay Tàu. Thêm ly cà phê là đúng tiêu chuẩn . . .

Từ Valparaiso, được lệnh trở lại Antofagasta của xứ Perou. Lấy hàng cho Hòa Lan xong, qua kinh Panama trở ra Đại Tây Dương, tới tam giác quỷ, lại được xem phim Charlot. Đúng là Tam giác quỷ ! Trưa hôm đó, Trưởng phiên hải hành Daniel bổng thấy có một người đàn bà Âu Mỹ, tóc dài màu vàng, bập bềnh trên sóng nước xa xa, đang chới với vẩy tay cầu cứu. Anh vội vàng báo cho CDT. Ông lập tức lên đài chỉ huy, lấy ống dòm quan sát cẩn thận trước khi ra lệnh báo động vận chuyển cứu người. Cã tàu đứng trên boong theo dỏi việc cấp cứu. Kìa, cô ta đang nằm ngửa trên sóng, rành rành sẳn đúc một tòa thiên nhiên, lồ lộ với những đường nét hấp dẩn. Hai cánh tay và đôi chân trong tư thế còn như đang quấn quít ôm chặc người tình, đôi môi khêu gợi chết người mặc cho sóng biển dập dùi thân xác : một nàng búp bê bằng . . . cao su, bơm hơi, cở như người thật, một cô bạn đồng hành lén lút xuống tàu của anh chàng thủy thủ đọc thân, đa tình nào đó ! Có lẻ anh chán nản với người đẹp . . . câm, thiếu chất . . . người nên đem quăng xuống biển.

Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng !
Lạ gì. . . cái thứ đàn ông,
Lúc thương nựng nịu, khi xong . . . quăng liền.

Trên phương diện hàng hải, bản đồ Đại Tây Dương, nối hai bờ Đông Tây, có tỉ lệ rất nhỏ, chỉ để ghi lại các tọa độ hằng ngày lúc 12 giờ trưa và tính vận tốc trung bình mà thôi, chứ không làm point, định vị được. Với nhiệm vụ SQ hải hành, tui phải chế canevas, hệ thống trục tọa độ ngang dọc gồm các vỉ tuyến parallèles và kinh tuyến méridiens của khu vực đang hải hành với tỉ lệ lớn hơn để vẻ Rv và tính (Hv – He), Zv trên đó (nhắc lại chút kỷ niệm cho vui với các bạn đồng khóa, đây là bài Carte Marine học với thầy Ducasse kính mến, chỉ dạy tận tình g = e sec Lm, L = mcos V, e = msin V, TgV = e/ L . . .). Hồi đó học là học thôi, đâu ngờ có ngày đem ra xài !

Có lần, băng qua Guadeloupe sau mấy ngày, trung bình 17 noeuds, tự nhiên hôm qua sụt xuống còn có 11 ! Tui và thằng Lieutenant kia xách sextant ra đo lại một lượt, có mặt CDT và Sếp Máy. Kết quả y hệt. Không hiểu nổi ! Sau cùng mới tìm ra nguyên nhân : đêm qua tàu đụng con cá voi rồi nó mắc kẹt, nằm ngang phía trước mủi chổ cái bulbe tròn ! Cũng ở gần tam giác quỷ nửa ! Cá voi khi ngủ, nằm là đà trên mặt nước. Chỉ vậy thôi mà vận tốc giảm khủng khiếp ! Sếp máy thở phào nhẹ nhỏm.

Trên phương diện kế toán của hãng tàu, cứ chạy tăng thêm được 1 noeud thì sau 24 giờ, sẽ đến bến sớm hơn khoản 1 tiếng. Từ Pháp chạy qua Viển Đông, chừng 22 ngày thì sớm hơn 22 giờ, nghỉa là tàu sẽ cập bến sớm hơn một ngày, biết bao nhiêu là tiền của . . .

Nhân tiện, tui xin được ghi lại lòng biết ơn của dân tị nạn VN như tôi đối với CDT FOLLIGUET, thuyền trưởng tàu Pháp Chevalier Valbelle thuộc hảng Chargeurs Réunis, đã nhiều lần cứu vớt thuyền nhân trên biển Nam Hải. Tàu Chevalier Valbelle chạy đường Âu châu, Địa trung hải qua Viển Đông. Mổi chuyến trung bình hai tháng. Tui có người bạn ở chung trong cải tạo. Quả đất tròn, qua Pháp gặp lại nhau. Tui đem anh vô hảng, làm phụ bếp trên tàu. Năm 1984, khi tới bến Barcelona thuộc Tây ban nha, anh chỉ cho tui, tàu Chevalier Valbelle này đã cứu ghe chở cả trăm người vượt biên của anh đúng lúc sắp chìm, chờ chết. Sau đó, tui dắt anh qua xin gặp CDT để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình. Biết tui là người VN, làm việc trên tàu Pháp đậu kế bên, ông ta vui vẻ, chỉ những giấy ban khen của hảng treo đầy trong phòng khách vì đã nhìều lần cứu vớt sinh mạng con người lâm nguy trên biển. Ông kể lại, mổi khi tàu chạy ngang qua vùng này, ông thường rà sát tới giới hạn hải phận của VN. Bận đi, bận về, lần nào ông cũng vớt cả trăm người . . .

Từ ngoài khơi, vào gần Ouessant, sắp lên đường rầy, thì đài kiểm báo duyên hải Pháp đã gọi trên canal 16, chiếc tàu đang ở tọa độ đó,tên gì, quốc tịch, loại tàu và hàng hóa gì, từ đâu tới etc . . Đây là nói chuyện đời xưa, chứ bây giờ vừa rời bến, đi tới đâu là thiên hạ ai cũng biết hết (http://marinetraffic.com)

Bỏ hàng bên Hòa Lan xong, chạy về Dunkerque rồi qua Saint Malo, Nantes, St Nazaire chở hàng đi vài nước trong Địa trung hải, sau đó xuyên kinh đào Suez qua liên bang Á Rập ở Trung Đông. Tàu tách bến, hướng về Nam, dọc theo vịnh Gascogne ngoài khơi Bordeaux, rồi cập theo bờ biển Bồ đào nha xuyên qua eo biển Gibraltar vào Địa trung hải. Tàu chở khách băng ngang, qua lại, nối liền cảng Tanger của Maroc Bắc Phi với Tarifa Âu châu, y như eo biển Pas de Calais trên miền Bắc.

Thủy triều Địa trung hải chừng 50 cm, trái hẳn với miền Bắc Pháp. Chẳng hạn như ở Mont Saint Michel, một trung tâm du lịch được xếp vào di sản lịch sử, bải biển rất lài, nước dâng 8m trong vòng 6 giờ, ngựa chạy không kịp. Việc canh giử du khách không được ra xa bờ thật nghiêm nhặt.

Tàu lướt sóng êm giửa trời nước bao la, phía Nam của đảo Las Palmas, hướng về mủi Spartivento Sardaigne của Ý. Sau đó, băng qua biển Andriatique nhắm mủi Matapan của Hi lạp. Một nử tu viện nằm cheo leo trên sườn núi ngay Matapan. Mổi khi thấy có tàu đi qua, các Sơ thường giựt chuông rộn rã rồi chạy ra vẩy tay chào mừng thật là cảm động.Địa trung hải có những phong tục hết sức dể thương, chẳng hạn như ở eo biển Messina nằm giửa đảo Sicile và Ý. Khi tàu chạy qua đây, mình viết thơ và thêm $ 5 bỏ vô chai, đóng nút lại rồi quăng xuống biển. Dân ở đây sẽ vớt lên rồi gởi về nhà cho gia đình mình. Ngay cửa vào, có hòn đảo núi lửa tên Stromboli, cứ 15 phút thì phun lửa. Miệng núi lửa nằm lệch một bên sườn núi . Phía bên kia, thiên hạ vẩn cất nhà, trồng nho. Trên đảo Sicile, có ngọn núi lửa Etna, thỉnh thoảng nổi giận. Cách đây khoản 26 năm, trên đường Izmir bên Thổ nhỉ kỳ về Marseille, từ xa trên mặt biển, nhìn cột lửa cao ngất trời, mới thấy sức mạnh thiên nhiên thật khủng khiếp. Tui có ghé bến Palermo, trên đảo Sicile. Thành phố Syracuse, bên phía đông của đảo Sicile, nơi sinh trưởng và mất đi của nhà toán học kỳ tài, liên hệ mật thiết đến môn Stabilité và Calcul d’assiette trong ngành hàng hải, người đã tìm ra nguyên tắc này : mọi vật nhúng chìm trong chất lỏng đều bị một sức đẩy từ dưới lên trên đó . . . : quí vị biết ai rồi phải không ? Eurêka ! ARCHIMEDE. Syracuse còn là tên của chuổi số toán học bất biến,lạ kỳ, kết quả sau cùng của phép tính lúc nào cũng cho ra ba con số thường là 4, 2, 1. Thỉnh thoảng ra 3 số khác nhưng cũng bất biến tương tự như vậy (Lấy bất cứ một con số nào, nếu chẳn thì đem chia hai, nếu lẻ thì đem nhơn cho 3 rồi cộng thêm 1, xong viết kết quả kế bên. Từ kết quả đó, cứ tiếp tục theo qui tắc như vậy cuối cùng sẽ thành bất biến 4, 2, 1) Xa kia, về phía Napoli, vào năm 79, núi lửa Vésuve dưới triều đại Titus đã chôn vùi thành phố Heculanum, Pompei dưới bao lớp đá tro bụi. Napoli, quê hương của những bản tình ca, giọng nhạc bất hủ được phổ biến bắng nhiều thứ tiếng, Trở về mái nhà xưa, O sole mio, Serenata . . .

A, tới đây tui phải mở dấu ngoặc để nói cho không ít quí vị sẽ ngạc nhiên : Tui ghé Napoli hơn chục lần và xưa nay tui rất thích nhạc Napolitaine. Lời nhạc mà quí vị nghe Luciano Pavarotti hát đó không phải tiếng Ý mà chỉ là ngôn ngử địa phương(Patois). Người Ý thích nghe nhạc này nhưng không nói được ! Có lời nhạc bằng tiếng Ý nửa. Tui có quen một ca sỉ chánh gốc napolitain và nhờ anh ta luyện giọng, dạy cách hát, nén hơi loại nhạc này. Anh rất vui tánh, nói tui phát âm sao giống Pavarotti quá chứ không phải như Caruso. Tui tưởng anh chọc quê thì anh nói, Pavarotti không phải chính gốc là dân Napolitain, nên phát âm không chuẩn. Giọng Ténor tuyệt vời thiệt nhưng để cho người ngoài nghe thôi. Dân napolitain phải ráng hiểu. Cũng như hồi xưa, gánh hát Kim Chung ca vọng cổ, xuống xề vậy mà : Chời đất ơi cái nổi đọan . . . chường !

Đi tàu, ghé Napoli phải biết hát bài Santa Lucia, bà thánh phù hộ cho dân đi biển : Sul mare luccia, l’astro d’argento. Placida è l’onda. Bài hát này được diển tã bằng rất nhiều ngôn ngử khác nhau. Có lần, tui vào quán nhạc,ngay bên ngoài cảng, nghe những thủy thủ hát bài này bằng ngôn ngử xứ họ. Một chàng trẻ tuổi, lên hát với tất cả niềm tin chân thành, giọng hát cao vút như ca sỉ thứ thiệt Thiên hạ vổ tay quá xá : anh là . . . dân Nga sô đấy!

Lịch sử bản Torna a Surriento mà nhạc sỉ Phạm Duy phổ lời VN thành Trở Về Mái Nhà Xưa cũng lạ lùng ! Tác giả Decurtis vốn là bà con của một chủ khách sạn trong vùng Surriento lúc đó còn hoang vắng lắm (1902). Một hôm, có vị Thủ Tướng đương thời về đây nghỉ hè tại khách sạn này. Viên Thị trưởng, vốn là bạn của chủ khách sạn muốn tìm cách nhờ Thủ tướng giúp đở để phát triển khu vực này, bèn nói nhỏ với ông chủ, làm sao nhờ anh ta viết giùm cho bài nhạc ca tụng vẻ đẹp của bải biển Surriento. Bài hát ra đời trong hoàn cảnh đó. Lời nhạc thật sự : Vide’o mare quant’è bello, Spira tantu sentimento ( Hãy nhìn xem, ồ, biển đẹp làm sao, nó lôi cuốn tất cả tình cảm trong lòng người . . .). Tui đón mò thôi, có thể Ông Phạm Duy lấy ý từ lời tiếng Anh Come back to Sorrento nên thành Trở về mái nhà xưa : Về đây nghe tiếng hú hồn mê hoang, về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan. Về đây nhé, cấm xong chiếc thuyền hồn . . . Ôi ! Lời VN của nhạc sỉ P.Duy trên cả tuyệt vời ! Cũng như bài Célèbre valse của Brahms và biết bao nhiêu bài khác vốn chỉ có nhạc thôi, Nhờ nhạc sỉ P.D viết lời và Lệ Thu diển tã thành Thú Đau Thương: Trong chiều dần im hơi, người ngồi thương nhớ bao ngày vui . . . Tội nghiệp thằng nhà quê như tôi ! Vậy mà ngày xưa cứ tưởng . . . Thôi, xin đóng dấu ngoặc lại, nếu không, tui nói lung tung, dám nhảy qua tới Bài Hát Khiêng Cây trong cải tạo : Bác Đang Hành . . . .Chúng Cháu Mệt Ghê . . . Năm xưa tao gọi tụi bây không nghe lời . . . hihihi

Đảo Santorini ở biển Egée ngày xưa là một núi lửa. Năm 1490 trước T.L, bộc phát dử dội. Những ngọn sóng thần đập vào đảo Crète còn để lại dấu vết cho đến ngày nay. Mổi lần đi qua đây, CDT thường cho tàu chạy quanh đảo một vòng để ngắm cảnh. Các mỏm đá đủ sắc màu, chổ đỏ, chổ trắng, chổ như cẩm thạch thật lạ lùng ! Triết gia Hi Lạp Platon, thế kỷ thứ tư trước T. L bàn tới và cho rằng có sự liên hệ với nền văn minh Atlantide.
Cảng Izmir, Istanbul đẹp lắm. Vùng biển Egée là nơi tranh chấp giửa Hi Lạp và Thổ nhỉ Kỳ. Vào thời buổi đó, (1984) tới Izmir phải thông báo, trả lời bắng chớp đèn tín hiệu Morse vì lý do quốc phòng., Không được quyền gọi VHF ! Vụ này trên thế giới, chỉ còn lại trong nhà binh chứ dân sự đâu có xài. CDT thấy tui chớp đèn trã lời ngon lành mà không thèm đánh thức sỉ quan Radio, ngạc nhiên hết sức. Chuyện nhỏ thôi, bên mình đêm nào mà không đánh đèn tích ta với H.Q hay Tuần duyên !

Chất hàng xong, chạy qua Alexandrie, cảng lớn của Ai Cập, nơi có ngọn hải đăng, một trong 7 kỳ quan của thế giới. Tàu phải neo 24 giờ chờ bến. Rảnh rang, tui lên bờ, đi thăm thành phố.
Từ trong bến tàu, đã thấy bài bán Papyrus, một lọai giấy viết phát minh từ đời Ramsès (1250 trước TL. Tui được họ giả thích, loại giấy này làm từ cây cỏ, mọc rất nhiều dọc theo bờ sông Nil.Người ta lột vỏ cọng cây, lấy phẩn mềm rồi cắt theo chiều dài từng lát mỏng, xếp thành 2 lớp chồng lên nhau thành tấm giấy. Xong thấm nước rồi lấy đá đập cho nó dính với nhau. Khổ giấy tùy theo mình muốn.

Tui gặp một đám tang. Có 6 người khiêng quan tài. Họ cố chạy theo một người đàn bà, khóc kể lu bù, băng từ lề đường này qua lề đường kia. Bà phân trần với mọi người trên đường. Ai nấy cũng tỏ vẻ thông cảm nổi đau của bà.

Phía sau quan tài là thân quyến cũng chạy theo. Nghĩ lại xứ mình, khiêng quan tài phải nhẹ nhàng không được chao đổ ly rượu, còn ở đây . . .
Nho xứ Ai Cập thật ngon, trái lớn, màu ngà, hơi vuông chứ không tròn như nho tây. Bận về, có ghé Port Saïd, trên tàu mua rất nhiều, đem về tặng bà con bên Pháp. Nghĩ lại tức cười, hồi xưa, nói bom nho là phải nói . . . bên Tây ! Bây giờ, thấy Tây đi mua nho mang về . . . Pháp !

Ai Cập về đêm, hàng triệu ngôi sao lấp lánh, chen chút nhau trên bầu trời. Rời Alexandrie qua neo gần cửa con kinh Suez chờ hoa tiêu. Kinh Suez dài 180 km, tiếp nhận được các tàu có lườn sâu 20 m. Không có ụ như bên Panama vì nước con kinh lưu thông giửa Địa trung hải và Hồng Hải. Sắp qua đoạn kinh hẹp, phải neo lại chờ đoàn tàu đi ngược lại.Đại lý cho biết đậu lại đây 24 giờ. Thuyền trưởng cho phép đi viếng Kim tự tháp do đại lý tổ chức trong khi chờ đợi.

Hồi nhỏ, tui có cởi bò trong quê, nhà của thằng bạn. Lớn lên, về SG đâu có dịp nửa. Giờ đây, qua xứ Ai cập, tui cởi . . .lạc đà cho mướn trên đường đi Kim tự tháp. Chỉ đi chừng 200 m thôi. Cởi cho biết chứ lại gần đã nghe mùi nồng nặc, hôi rình. Coi truyền hình thấy dể ợt : nó quỳ xuống, mình leo lên xong, nó đúng dậy đi. Coi vậy mà không phải vậy ! Khi nó đứng lên , thằng bạn tui té cái ạch xuống đất. Nó không dám leo lên nửa mà chạy lúp súp theo sau. Lúc lạc đà bước đi, mình ngồi trên lưng vừa cao mà lắc lư không khoái như cởi bò.

Đi vào bên trong kim tự tháp thì đã có nhiều đoàn du lịch khác. Tôi mải mê quan sát, tự nhiên nghe lạnh sau lưng. Quay lại thì không còn ai, thiên hạ đi trước hết rồi. Tôi lật đật chạy theo, cảm giác rờn rợn lạ lùng . . .
Khu vực Hồng hải có ngọn gió Khamsin. Tiếng Á rập có nghỉa là 50. Nó mang cát và sức nóng sa mạc thổi tràn qua đây. Thời gian mổi khi gió lên là 50 ngày. Khi tàu vô Hồng hải tui mới biết tại sao có tên này : do khamsin nước biển lộn với cát sa mạc nên màu hơi giống màu nước phù sa sông cửu long. Vòm trời nhìn từ xa, gió cát sa mạc như sương mù đỏ. Cửa nẻo đóng kín mít mà cát vẩn chung vô.. Mới tuần trước đây, còn bên Hoà lan, lạnh cóng xương 10 độ âm mà bây giờ nhiệt kế bên ngoài chỉ 48° Celcius ! Cho nên, đi tàu có loại tiền thưởng cho cái vụ nóng lạnh này nửa !

Dưới sức nóng ghê người, mặt biển như bốc hơi, mù mù, không thấy chân trời. Không có định vị làm point gì hết, cứ nhắm ở giửa biển mà chạy. Chỉ vào sáng sớm và chiều tối, 2 lieutenant mới xách sextant ra đo, tính toán điều chỉnh lại hướng .

Tới eo biển Bab el Mandeb, tàu rời Hồng Hải đổ ra vịnh Eden, tiếng Á Rập có nghỉa là Cửa Ngỏ Than Khóc, ngăn cách 2 nước cộng hòa Djibouti và Yémen, được coi như là một trong những eo biển có nhiều tàu qua lại nhứt trên thế giới.

Khi ghé Djibouti, tui gặp một lính lê dương Pháp gốc VN. Anh đưa cho xem vỏ chai rượu chác Bordeaux bị quẹo nghiêng một bên chừng 30°, ngay chổ giửa chai Mùa hè ở đây nóng khủng khiếp, Uống xong chai rượu, làm biếng đem bỏ thùng rác , vùi đại xuống cát dấu cho rồi. Mấy bửa sau, cần cái chai không, ra moi lên thì nó bị biến dạng như vậy Anh giử chai này làm kỷ niệm.

Cập bến Abu Dhabi, liên bang Á rập, tất cả rượu phải bỏ vào kho nêm lại. Xứ sa mạc như vậy mà dọc đường trồng hoa dài dài. Cứ 100 m có một người trach nhiệm tưới đi tưới lại hoài. Đất thì nhập cảng từ bên ngoài. Nước ngọt thì có máy. . . lọc nước biển. Nhà cửa tốii tân, các chuyên viên, kỷ sư khắp nơi tụ họp về đây làm việc do lương bổng rất hậu. Nhiều tiệm cà phê nhưng không có tiệm rượu.

Hàng trăm giàn khoan nguyên cả một vùng Zakum Field. Có cái dùng để bom nước vô. Túi dầu cho dầu nổi lên, có cái hút khí Méthane, dầu thô. Từ năm 1976, bắt đầu khai thác vùng này với chi phí 1 triệu đô la/ ngày. Cuối năm 1981, tui có dịp trở lại đây vẩn chưa chảy giọt dầu nào. Tui hỏi thăm thì họ cho biết, giá dầu còn rẻ lắm, chưa muốn bán. Chỉ cần tối đa 1 năm khai thác là lấy lại vốn. Với dung lượng hàng ngày 800.000 thùng, ông chủ có . . .100 năm trước mặt, chưa kể đến túi thứ hai nằm sâu phía dưới ! Ây da, tọa thực sơn băng, ngồi ăn mải, non mòn, núi lở, mà chừng nào mới lở nổi đây ! ! !

Trên đường về, tàu ghé qua Sfax ở Tunisie. Lần đầu tiên mới thấy chà là tươi. Trái màu vàng, vừa chín tới, ăn dòn dòn chứ không như bên mình. Khi tàu ghé Oran, nước Algerie, tui được Đại lý mời ăn chiều ở tại nhà. Ăn bốc bằng tay ! Coi vậy chứ không phải dể đâu. Tây phương kỵ, đưa dao lên miệng, liếm dao khi ăn. Vô tù cải tạo, học được cách ăn văn minh văn hóa, trở đầu đủa lại gấp thức ăn mặc dù không có cái gì để gấp hết. Bây giờ, qua xứ Á rập hoc cách ăn bốc. Người lịch sự phải ăn như vầy nè : có tô nước thơm để rửa 3 (ba) ngón tay phải, ngón cái, ngón trỏ và ngón giửa thôi chứ không phải thọc nguyên bàn tay đâu nha. Nhớ là 3 ngón bàn tay phải vì tay trái dùng để . . .hát phim ngắn, hay cái vụ nọ kia ! Cấm xài lộn nghe chưa quí vị. Tui bị ông ta đùa vui khẻ tay, vì tui thuận tay trái nên nhớ rỏ lắm,mặc dù thiên hạ nói nó . . . hổng đau hihihi Dùng ba ngón tay, nhúm món ăn lại, đưa lên gần miệng cách chừng hai ba phân. Lấy bàn tay trái gỏ vào cườm tay phải cho thức ăn chạy vào miệng chứ không được đụng ngón tay lên môi vì như vậy sẽ bất lịch sự như liếm dao vậy. Chưa hết, xong buổi cơm, thay vì xếp khăn ăn lại thì mình phải vo tròn trong tay, ném mạnh xuống bàn rồi . . .rồi sao ? Rồi ráng Ợ một cái cho lớn và nói bửa nay ăn ngon miệng quá !!! Ối mẹ cha ơi, hồi nhỏ mà tui lở làm như vậy có nước ra khỏi bàn cơm, nhịn đói luôn, còn bây giờ thì, . . .thi sao ? thì Chủ nhà mừng rở, cám ơn rối rít khoe là chính tay Bà chủ nấu nướng. Nhớ cho kỷ phim này nghe quí vị. Yêu cầu đừng chiếu lộn rạp nha : rạp nào chiếu phim nấy, rạp tây, chiếu phim đầm, bưng cà phê cho nàng uống, ăn sáng trên giường chớ đừng có chiếu phim đàn bà ra đường bit mặt, khách bỏ về hết đó.

Tàu đến Rotterdam, đại lý đưa ra phi trường, tung cánh chim tìm về tổ ấm. Gặp lại được phân nửa kia, chiếc dép cùng số của tui sau 5 tháng 11 ngày lưu lạc. Ba tháng nghỉ phép chớp nhoáng, Hảng điện thọai đến, thông báo vé phi cơ đã sẳn sàng, 3 ngày nửa lên đường. Bèn buồn !

Thôi, . . .Anh về với em, rồi mai lại đi !

Nh.