Chánh
Hiệp Quê Tôi
Từ Minh Tâm
Theo giấy khai sanh, tôi chào đời
tại xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Thủ
Dầu Một. Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau năm 1975, địa
danh Chánh Hiệp không còn nữa. Vùng đất gọi
là Chánh Hiệp cũ được chia về cho các xã
lân
cận là Phú Cường, Hiệp Thành và
Chánh
Mỹ. Vậy trước 1975, Chánh Hiệp là
vùng nào ?
Theo sự hiểu biết của tôi, làng
Chánh Hiệp nằm ở phía bắc làng Phú Cường
thuộc thị xã Thủ Dầu Một. Biên giới của hai xã
chính là rạch Cầu Mới. Nếu bạn muốn tìm hiểu chu
vi của làng Chánh Hiệp thì không gì
bằng hãy bắt đầu đi từ cầu Ông Kiểm (trường Mỹ Thuật)
ngược dòng rạch Cầu Mới lên tới đầu nguồn (khoảng Chợ
Đình - đại lộ Bình Dương bây giờ). Sau đó
bạn đi về hướng bắc tới Suối Giữa. Rồi
lại theo dòng suối đi ra tới sông Sài Gòn,
theo
hạ lưu sông mà trở về vị trí xuất phát. Như
vậy bạn đã đi giáp vòng Chánh Hiệp. Như vậy
Chánh Hiệp cũ bao gồm các ấp Chánh (khu Miễu Tử
Trận
và xóm Cầu Mới, xóm Thành Quan), ấp Giếng
Máy
(đường Phạm Ngũ Lão), ấp Chánh Thiện (chùa Phước
Long,
chùa Cô Hai Mè - Linh Sơn Tự) và ấp Mỹ Hảo.
Chánh Hiệp là một vùng
dân cư nửa quê nửa tỉnh. Khu vực gần chợ Thủ như Miễu Tử
Trận, dọc quốc lộ 13 thì nhà cửa san sát,
buôn bán sầm uất. Xa hơn một chút như đường đi Mỹ
Hảo thì dân cư thưa thớt. Khu Mã Ông
Lân thì cây cối rậm rạp, um tùm.
Khoảng cuối thập niên 60, sau khi
đường xa lộ nối Biên Hoà - Tây Ninh và xa lộ
Sài Gòn - Bình Long chạy ngang làng
tôi
thì càng làm cho nơi đây thêm
trù
phú. Đặc biệt là sự xuất hiện của một chợ mới: đó
là Chợ Cây Dừa ở ngã tư quốc lộ 13 cũ và xa
lộ Biên Hoà -Tây Ninh.
Về kiến trúc lịch sử thì làng
Chánh Hiệp có:
Miễu Tử Trận: xây khoảng năm 1921, tưởng niệm
những lính trận đã chết trong chiến tranh thế giới thứ
nhất. Kiến trúc miễu rất đẹp, trang trí theo kiểu
ghép miểng chén như các lăng tẩm ở Huế. Tiếc rằng
ngày nay,
phần trên của miễu đã bị đập bỏ, chỉ còn phần nền.
Mã Ông Lân: ở gần Suối Giữa.
Nhìn từ xa thì kiến trúc đẹp nhưng cũng tạo
nên một khung cảnh kỳ bí, hơi u ám.
Giáp bờ sông Sài Gòn
có Trường Pháo Binh, sau nầy đổi thành Trường
Công Binh là nơi đào tạo sĩ quan và
chuyên viên công binh lớn nhứt Việt Nam. Sau năm 1975
nơi đây còn đào tạo cả những quân nhân
người Campuchia. Thành Quan, một bộ phận của Trường Công
Binh cũng có nhiều biệt thự rất to lớn và bề thế.
Đình làng là đình
Chánh Thiện, gần chùa Phước Long, ngoài ra
còn
có đình Chánh An (gần ngã ba Cây Sao
Quỳ). Mỗi năm hai lần vào ngày 16 tháng 2
và
16 tháng 8 âm lịch đều có cúng kỳ yên.
Có một năm nào đó khi tôi còn rất
nhỏ,
đình Chánh Thiện có tổ chức hát bộ nữa.
Trong làng còn có Miễu
Bà thờ Bà Cửu
Thiên Huyền Nữ ở gần Cầu Ông Đành. Hàng năm
đều có cúng tế.
Cổng tam quan đình thần Chánh Thiện (nay là
Chánh Mỹ)
Trụ sở của Làng Chánh Hiệp trước
đây ở khu Miễu Tử Trận, sau đó dời lên ngã tư
Châu văn Tiếp cũ và Quốc Lộ 13 ở đầu dốc Cầu Ông
Đành. Trong làng có bót Hào Tỵ (kế
bên cầu Ông Đành) hồi xưa bên trong có
những chuồng nuôi cọp, khỉ... Bót Hào Tỵ
ngày nay là trụ sở Toà Giám Mục Địa Phận
Phú Cường.
Kiến trúc dân cư cổ thì
có nhà ông Cả Lâm văn Luận là một vi
la theo kiểu Pháp. ngoài ra, còn có
nhà ông huyện Lì, nhà của anh Bảy (cà
ri) ở sau Thành Quan cũng rất đẹp. Nhà cổ thì
có nhà ông huyện Thiết, nhà ông cả
Trần văn Cân (ông ngoại tôi),
tiếc là các ngôi nhà cổ đều bị hư hại, mục
nát nên hiện giờ không còn nữa.
Làng Chánh Hiệp có rất nhiều
chùa như chùa Phước Long, Linh Sơn, Phật Mẫu, Đức Sơn,
Oai Đức, Hội Sơn, chùa Phật Học ... Mỗi dịp rằm lớn thì
chùa nào cũng có rất đông tín đồ tới
cúng
bái. Riêng Mỹ Hảo lại là một ấp có tới 90%
dân
cư theo đạo Thiên Chúa. Chánh Hiệp còn
có Toà Giám Mục Địa Phận Phú Cường nằm cạnh
cầu Ông Đành và Tiểu Chủng Viện nằm phía sau
Thành Quan.
Về giáo dục: làng Chánh Hiệp
có trường tư thục Trí Đức ở khu Miễu Tử Trận do
ông đốc Lê văn
Ngữ lập nên. Nơi đây nhiều học sinh đã xuất
thân
và học thành tài. Ngày nay, trong ranh giới
của làng lại có Trường Đại Học Bình Dương, Thư
viện, Viện Bảo Tàng tỉnh Bình Dương nữa.
Về kinh tế, Chánh Hiệp có nhiều
cơ sở tiểu thủ công nghệ như nhà máy xay
lúa,
trại cưa, trại mộc ... Ở đây có các lò
bánh như lò bánh mì Ngô Văn cung cấp
bánh
mì cho cả tỉnh, lò bánh thững ở xóm Cầu
Mới,
nhiều lò bánh hỏi, làm bún ở Giếng
Máy.
Nơi đây có nhiều gia đình làm giá để
bán nữa. Đó là nhờ có mạch nước ngầm rất
tốt.
Trong nhiều năm, Giếng Máy đã cung cấp nước cho
toàn
thị xã Thủ dầu Một.
Làng tôi có nhiều cơ sở
làm sơn mài. Ba tôi có hãng sơn
mài Cảnh An đã có nhiều lần triển lãm tại
Sài Gòn trong thập niên 50 và sản phẩm được
người nước ngoài khen ngợi và mua đem về nước rất nhiều.
Ở khu Miễu Tử Trận có bác Phát Thạnh cũng
làm sơn mài rất nổi tiếng. Sau 1975, có chú
Mười Kẹo, nhờ làm sơn mài mà trở nên
khá giả.
Lễ hội cúng đình (hình chụp lại)
Chánh Hiệp có khoáng sản
là cát ở Suối Giữa. Sau mỗi cơn mưa, người
ta xúc được rất nhiều cát từ con suối nầy đem về
làm
vật liệu xây dựng rất tốt. Nhiều người dân trong xã
biết khai thác đá ong (hầm đá ở khu vực
chùa
Phước Long).
Về nông nghiệp, Chánh Hiệp có
nhiều ruộng trồng lúa, mía, hàng bông ...
Còn vườn cây ăn trái thì rất nhiều. Hầu như
nhà nào cũng
có trồng cây ăn trái như chôm chôm, sầu
riêng, mãng cầu, vú sữa, măng cụt, xoài,
chuối, thơm... nhờ khí hậu ôn hoà. Tuy nhiên,
vùng có nhiều trái cây nhứt là Mỹ
Hão, và xóm Giếng Máy. Vào
mùa Tết Đoan Ngọ, mùng 5 tháng 5, nhiều du
khách từ Sài Gòn hay về
Bình Dương và đến mua trái cây tại
các nơi nầy. Giá cả ở đây thường rẻ hơn các
khu du lịch ở Cầu Ngang rất nhiều. Chánh Hiệp còn
có ruộng rau
muống ở gần Trường Công Binh, đây là nơi cung cấp
rau
xanh cho cả tỉnh.
Trước năm 1975, sân banh của tỉnh Thủ dầu Một
nằm trong địa phận làng Chánh Hiệp. Đó là
sân banh Nhị Tỳ (cuối đường Phạm Ngũ Lão). Sau nầy
vì mất an ninh nên dời về trước Trường Công Binh.
Đây là nơi tranh tài của các đội banh trong
tỉnh và các tỉnh bạn.
Cư dân làng Chánh Hiệp chừng
vài chục ngàn người. Đa số là người Việt, một số
ít là người Hoa sống xen kẽ. Họ làm công
chức, giáo viên, thợ may, thợ mộc, làm sơn
mài ... Nhiều người làm nghề thương mại.
Dân cư làng Chánh Hiệp
nói chung hiền lành, và khá giả. Những
người nổi tiếng cũng không nhiều. Nhiều người tốt nghiệp kỹ sư,
bác sĩ, dược sĩ, nhưng ít ai học trên đại học. Xin
kể vài vị nổi tiếng:
Thầy Lê văn Chương: sinh năm 1888. Năm
1933, ông là thầy giáo tại trường tiểu học Nam
Châu Thành – Thủ Dầu Một đến năm 1943 thì nghỉ dạy
và tham gia phong trào truyền bá chữ quốc ngữ. Khi
Việt Minh nắm chánh quyền năm 1945, ông là Chủ
Nhiệm Thôn Bộ Việt Minh ấp Chánh Thành, xã
Chánh Hiệp. Khi Pháp trở lại Việt Nam năm 1946, ông
bị cò Hirs bắt và dụ hàng nhưng không được.
Ông bị tên nầy bắn chết sau đó. Ở thị xã Thủ
Dầu Một hiện giờ có đường Thầy Giáo Chương để vinh danh
một người yêu nước của tỉnh nhà.
Ông huyện Trần văn Thiết:
là thân sinh của bác sĩ Trần văn Sen và
trung tá cảnh sát Trần văn Phấn.
Ông cả Lâm văn Luận: là một
đông y sĩ có tiếng. Ông cũng là ông nội
của dược sĩ Lâm Lệ Du, và chị của ĐH Lâm Tuý
Mĩ.
Ông huyện Lì: không rõ
công trạng.
Ông huyện Thức.
Ông huyện Trần văn Lượng: học giỏi, làm
chủ huyện ở Bà Rịa , nhưng mất sớm.
Ông Lê văn Ngữ: hiệu trưởng trường
Trí Đức, một tư thục nổi tiếng vào thập niên 50-60,
nơi đã là nơi khai trí cho rất nhiều đồng hương
Bình Dương.
Ông Nguyễn văn Yến: điêu khắc gia,
giáo sư trường Mỹ Thuật Bình Dương, chủ nhà
hàng và quán giải khát. Nhà
hàng
ông Yến nổi tiếng với món lươn um ngon đặc biệt.
Tiến sĩ toán lý Trần đại Trung:
từng làm cho Viện Nguyên Tử Đà Lạt và cố vấn
cho tổng thống Nguyễn văn Thiệu.
Ông Nguyễn văn Hào, dân biểu đại
diện tỉnh Bình Dương trước 1975. Nhà ông ở gần Miễu
Tử Trận.
Ông Nguyễn văn Liếu: là xã
trưởng lâu năm.
Ông Huỳnh phi Dũng (Dũng Lò Vôi):
chủ nhân Khu Du Lịch Đại Nam. Ông Dũng không sinh
trưởng ở Bình Dương nhưng cư ngụ ở Chánh Hiệp (khu Miễu
tử Trận) rất lâu.
Thạc sĩ địa chất: Trần thị Ngọc Lan làm việc
tại Trường Đại Học Tổng Hợp Sài Gòn.
Những người trẻ sau nầy học hành giỏi giang
thì rất nhiều như các kỹ sư: Nguyễn văn Bảnh, Lê
trọng Bữu, Từ minh Tâm, Trần công Hảo, Trần cảnh Thu, Huỳnh
văn Vàng ... bác sĩ Lê thị Thu Mai, dược sĩ
Lâm lệ Du, Từ thị Yên ... và nhiều người
khác. Thế hệ tiếp nối lại có các kỹ sư
Huỳnh Minh Ngọc Thảo, cử nhân Từ Lê Thanh Vy,
bác
sĩ Nguyễn như Thạch, ...Ở nước ngoài lại có thạc sĩ
công
chánh (Master of Civil Engineering) Phạm phú Thứ,bác
sĩ Phạm Minh Trang ...
Các cháu học rất giỏi và có nhiều
thành
tích.
Nông dân làm ăn giỏi
và trở nên giàu có nổi tiếng thì
có anh
Huỳnh văn Đông (Hai Rộng). Nhà anh ở ngay cầu Ông
Kiểm.
Làng Chánh Hiệp không phải
là một làng nổi tiếng. Ngày nay địa danh
Chánh Hiệp không còn nữa nhưng tình cảm của
tôi về một quê hương mến yêu với con đường
làng đất đỏ, hai bên xanh ngát những vườn cây
ăn trái vẫn luôn đọng lại trong tôi. Giờ đây,
dù sinh sống ở xa quê hương hơn nửa vòng
trái đất, tôi vẫn nhớ hoài về một vùng đất
thân yêu với biết bao kỷ niệm với bà con lối
xóm, với bạn bè thân thương, với những con người
chất phát, thật thà mà tôi luôn
trìu mến./.
*****
Bổ túc :
Mới đây đọc một số luận án thạc sĩ sử học về Bình
Dương tôi mới khám phá thêm một điều
thú vị: Làng Chánh Hiệp của tôi xưa kia
có tên là An Nhất Thuyền (ngày nay thuộc
xã Hiệp Thành).
Theo luận án “Lịch Sử Văn Hóa Vùng Đất Bình
Dương từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX” của Nguyễn thị Kim
Ánh – trang 54 có viết:
Làng nghề An Nhất Thuyền:
Theo hồi ký của Grammont, tại là Phú Cường trước
năm 1836 là trung tâm cưa xẻ gỗ, đóng thuyền lớn
nhất nhì ở Nam Bộ. Làng nầy có tên An Nhất,
chuyên đóng thuyền buôn, ghe, xuồng ... cho
các vùng sông nước. Tên gọi làng nầy
theo kiểu dân gian (An: Bình An, Nhất: hạng Nhất)
đã chỉ rõ sự sung túc, giàu có về
kinh tế lẫn tay nghề. Thơ ca còn ghi:
Trại ghe trại ván sẵn cùng
Sông sâu nước chảy điệp trùng bán buôn
Nhà khéo cất tốn bạc muôn
Tiếng đồn thợ Thủ ráp khuôn kỹ càng.
Ngày nay, làng An Nhất Thuyền vẫn còn tồn tại nghề
mộc cổ truyền, hình thức cha truyền con nối hãy
còn. Vị trí làng An Nhất thuộc phạm vi xã
Hiệp Thành, cách trung tâm thị xã Thủ Dầu
Một chưa đầy 1km.
Làng nghề An Nhất Thuyền chính là chiếc nôi
đầu tiên của cá ngành nghề mộc, điêu khắc,
cưa xẻ, chạm trổ mỹ thuật tạo điều kiện phát triển khắp địa
bàn tỉnh Bình Dương xưa. An Nhất Thuyền chuyển
hóa, biến dạng thành làng điêu khắc gỗ
Phú Thọ.
Trang 79, Luận án “Nghề gốm ở Bình Dương từ cuối thế kỷ
XIX đến năm 1975” của Nguyễn văn Thủy cũng nói tương tự:
“Tại Thủ Dầu Một đã hình
thành rải rác các làng nghề như làng
Phú Cường là trung tâm cưa xẻ gỗ, đóng
thuyền lớn nhất nhì Nam Kỳ. “An Nhất Thuyền” (nơi đóng
thuyền lớn nhất xứ Bình An tức Bình Dương ngày
nay) chạy dọc theo triền sông Sài Gòn đến
thôn Chánh Hiệp."
Ngược với hai ý kiến trên, tác giả Hoàng Anh
trong bài “Đinh Cường – Vẫn rừng cao su của anh” lại cho rằng: “Thuyền” chỉ là một đơn vị hành
chánh tương đương với khoảng một ấp thôi, hồi đó cả
Nam Kỳ Lục Tỉnh có chừng năm cái “thuyền” như vậy, chẳng
lẽ đều nhờ nghề
đóng ghe cả à. Tôi đã kiểm tra sách
của
Nguyễn Đình Đầu rồi, ông cũng bảo thế mà. Họ sai
đã
đành, họ lại đi dạy cho học trò ở tỉnh này phải
tin
như thế.”
Dù ý kiến nào đúng thì rõ
ràng An Nhất Thuyền - Làng Chánh Hiệp, là
một trong những đơn vị hành chánh xưa nhứt Bình
Dương,
thậm chí xưa nhứt miền Nam.
Làng Chánh Hiệp của tôi quả rất đáng cho
tôi tự hào./.
(5/2009)