Tình quê hương trong tác
phẩm nhà văn Bình Nguyên Lộc
Huỳnh Hoàng Anh
Người Việt sống ngay trên đất nước chỉ cách làng xóm
chừng một ngày đường, hay có khi chỉ “vài dặm hú”ù
mà tình quê đã vô cùng lai láng.
Huống chi là kẻ phải rời bỏ xứ sở ra đi biền biệt phương trời, tình
hoài hương còn man mác biết bao nhiêu!
_” Không thể nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm
khát quê hương của một kẻ lìa xứ vĩnh viễn không
hy vọng trở về như em. Thèm như thèm một món cá
nướng chấm mắm nêm. Thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông
chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm
cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết đi được
là vào lúc gần Tết, tức là vào khoảng
đầu năm dương lịch. Nhớ Tết như nhớ nhà, nhớ nước, bởi vì Tết
là sum họp gia đình.”
( Chiêu hồn nước).
Thế nhưng những biến động lịch sử trời long đất lở xãy ra trong mấy
mươi năm qua đã khiến cho những người dân Việt mộc mạc
và an phận không còn có thể ở yên dưới mái
ấm gia đình quen thụôc của họ nữa. Binh lửa đã tràn
ngập khắp quê hương, như đàn chim vỡ tổ, những đưá con
thương của đất mẹ phải xiêu tán khắp bốn phương trời.
Mặc cảm bị bỏ rơi, ruồng bỏ làm cho lòng nhung nhớ thêm
ray rức, xót xa, và tinh thần yêu nước mãnh liệt
cũng từ đó mà ra.Tình yêu nỗi nhớ dành
cho nơi chôn nhau cắt rốn, giờ đọng lại thành tình yêu
quê hương tổ quốc. Nhớ nhà, tức là nhớ nước. Với người
Việt Nam nhà luôn gắn liền với nước, không thể tách
rời.
_” Nhưng nó có một quê hương nhỏ để mà thương,
mà nhớ. Quê hương nhỏ của nó lại nằm trong quê
hưong lớn là nước Việt Nam. Vậy nó sẽ thương quê hương
lớn bao bọc quê hương nhỏ thân mến của nó”
( Hương hành kho)
Tất cả những gì tình cờ bắt gặp, từ chút mùi
hành hương thoảng qua, từ bụi rau đắng sau hè, một làn
mấy trắng bay xa về cuối trời, hay chút nắng ấm làm thơm mùa
lúa mới…đều có thể làm sống dậy trong lòng người
viễn xứ cả một trời thương nhớ :
_ “ Những sợi khói trắng mỏng, tiếng chuông chùa và
nhứt là mùi hành kho, ba thứ ấy xuất hiện cùng
một lúc gợi cho cháu nhớ thời thơ ấu của cháu quá.
Thời ấy, sau nhà dưỡng phụ của cháu cũng là một xóm
nghèo, ở dưới trũng, với ngôi chùa cổ danh tiếng là
chùa Hội Khánh.”
( Hương hành kho)
Tình quê khiến cho vầng trăng lưỡi liềm trên đồng nội
bỗng trở nên tròn trịa, con đường làng lầy lội trở nên
phẳng phiu, và cái mùi phân trâu phân
bò ngai ngái đặc trưng của vùng quê bỗng sao mà
lưu luyến:
_” Mùi phân chuồng thơm chớ không hôi đâu.
Nó thơm hương đồng áng, hương của một nông trại hẻo lánh
nào, hương ấm của một gia đình nông dân đủ ăn”
(Diễm Phượng)
Tình yêu quê hương, cũng như nhiều thứ tình cảm
khác của con người thường sâu đậm, tha thiết mà chúng
ta khó lòng giải thích được. Xin đừng hỏi vì
sao một nhà thơ da vàng đã xin được thả thân xác
mình trôi trên biển Đông để trở về với rặng tre
xanh làng cũ:
_”…Là gì chính em cũng không nói ra cho
đích xác được. Một vũng ao tù trong thôn xóm
chăng? Một chơn trời quen thuộc? Một mùi cá nướng? Một vài
tiếng sáo mục đồng? Hay là tất cả những thứ ấy nó họp
lại để làm một linh hồn của quê cha đất tổ làm em ngỡ
từ bỏ được, nhưng không thể được.”
( Chiêu hồn nước)
Thông qua lời các nhân vật, BINH NGUYÊN LỘC cho
thấy quan niệm về lòng yêu nước của ông:
_” Tôi quan niệm rằng yêu nước là một mớ hỗn hợp ý
tình. Ý và tình, anh nghe chưa. Vì bởi
có cả ý lẫn tình nên yêu nước không
thể dạy mà nảy ra được. Hay được cũng không bền vững. Cái
phần tình ấy ( riêng nó cũng lại là một mớ hỗn
hợp tình ) nó len lén vào ta mỗi khi một ít,
hồi nào, nào ta có hay, thấm nhuần lòng ta, đâm
chòi nảy lộc, bao phủ thớ thịt, xâm chiếm tế bào, hột
huyết của ta.
Phải có những nếp nhà đã chứng kiến bao nước mắt, bao
nụ cười của bao thế hệ trong dòng họ ta, những nếp nhà mà
mỗi món đồ ( từ thếp đèn xưa gãy chơn, đến cây
ngạch cửa mòn lẵn dưới bàn chơn của những người thân
yêu) đều là bậu bạn của ngày buồn lẫn ngày vui
của ta. Phải có những con đường mòn bò quanh quẩn trong
làng mà mỗi phiến đá bên lề biết kể lể một câu
chuyện đau thương hay ngồ ngộ. Phải có những vuông ruộng sau
nhà mà nơi đó lưỡi cày của tổ tiên ta đã
lặn hụp từ mấy ngàn năm.
Phải có gương mặt một từ mẫu nghiêng xuống bên tai ta
mà rót vào đó những câu ru ta không
hiểu mà ta thích nghe. Hoặc nhỏ to kể những câu chuyện
đời xưa cảm động hay hãi hùng”
( Đất không chết )
Như vậy, chúng ta yêu và nhớ quê hương, vì
nơi đó đã chứa đựng cả một trời kỹ niệm của chúng ta:
_”…yếu tố chánh của tình yêu quê hương, không
phải là ý thức vì dòng máu, mà
là tình gắn bó vào thưở thiếu thời với những
chân trời quen thuộc, với màu sắc, mùi vị, âm thanh
mà tuổi thơ quen thấy, quen nếm, quen nghe.”
( Đất không chết)
Nhưng trên tất cả, có lẻ là vì lòng
thương nhớ đất :
_”Tình nhớ xứ, nhớ nhà gồm nhiều yếu tố, mà nỗi thèm
mùi đất là một yếu tố quan trọng. Nỗi thèm này
có khi mãnh liệt như nỗi thèm mùi khói
thuốc phiện của những con thằn lằn, những con chuột lát sống trong
buồng của những kẻ hút thuốc phiện, họ thèm và nhớ mùi
đất y như là đào hát thèm và nhớ sân
khấu, vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và y
như cá thèm và nhớ nước.”
( Thèm mùi đất)
Những dân tộc sống đời du mục lang thang trên thảo nguyên
mênh môngï thiếu hẳn sự kết dính với đất đai, tức
với cội rễ bền chặt nhứt của con người, như vậy tình nước của họ khó
mà sâu sắc như các dân tộc của nền văn minh nông
nghiệp như Việt Nam:
_”Tôi không hiểu người Do Thái làm sao thương được
nước Israel. Riêng tôi tình quyến luyến một ngôi
nhà, một làng hẻo lánh, một thành phố, một quê
hương phải bắt nguồn trong một dĩ vãng lâu đời mà nứoc
mắt và nụ cừoi của bao thế hệ đã ràng buộc con người
vào đất, vào vật, và người.
Đất có ở lâu, tình đất mới sâu.”
( Mả cũ bên đường )
Con người từ đất sinh ra, được đất nuôi nấng và khi chết lại
trở về với đất, cho nên tình cảm với đất là sâu
nặng và bền chặt hơn các tình cảm khác. Trên
khắp thế giới, dường như chỉ trong ngôn ngữ Việt Nam hai tiếng “Đất
Nước” ( dirt and water) mới có ý nghĩa tương đương với hai
từ Quốc Gia (nation, country). Đất, nước, và nhà là
những biểu tượng thiêng liêng hình thành nên
hai chữ quê hương. Điều này cho thấy vai trò của đất
và nước trong đời sống tâm linh và tình cảm của
người Việt quan trọng như thế nào. Thế nên khi người Việt Nam
yêu tổ quốc, ta cũng có thể hiểu đó là lúc
họ nhớ đến hình ảnh của mái nhà tranh mà họ đã
sống với mẹ cha, là đất đai mà họ đã tung tăng chạy
nhảy một thời :
_”…Rồi ngày mai kia mày sẽ nghe rằng đất có hồn và
hồn mày sẽ rất gần gũi với hồn đất. Tao nhớ đất muốn chết đi lận,
nhớ còn hơn là nhớ má mày trong mấy năm đầu tang
khó của bà ấy, bởi vì vợ chồng không thân
thiết với nhau hơn là mình với đất. Vợ chồng chỉ ăn ở với nhau
ba bốn mươi năm là cùng, đất thì nó thấy mình
sanh ra, lớn lên, già yếu, rồi nó lại ôm mình
khi mình chết. Mình cũng thấy nó từ lúc lững
chững bước đi cho tới lúc chống gậy mà lê bước. Nếu vợ
chồng bây không có tiền mà cho tao, thì
tao cũng về làng, tao ngủ đình.”
(Thèm mùi đất)
Lòng yêu nước, với nhà văn có vẻ như là
tình cảm đạo đức cao quý nhất. Một con người đúng nghĩa,
điều trước tiên đối với ông hắn phải là một ngừơi biết
yêu quê hương, giống nòi:
“…những đứa con tuy dốt nát mà không vong gia, vong bổn”
( Những đứa con thương của đất mẹ)
Bởi đất nước này còn đến ngày nay đâu phải nhờ
những khẩu hiệu hoa mỹ, những siêu nhân khéo lừa mị quần
chúng, mà chính là từ những con người chân
đất luôn ấp ủ hình bóng quê hương trong trái
tim họ .:
_”...Đất nước chỉ tồn tại được nhờ những kẻ nhớ
thương nó, bám víu vào nó thôi.”
(Bám níu)
Đất nước ta thường xuyên bị ngoại bang đe doạ, chi phối và mua
chuộc, những người Việt đóng vai trò lãnh đạo quốc gia
dễ trở thành tội đồ đẩy bánh xe lịch sử của dân tộc xuống
hố thẳm. Đó là một thực trạng lịch sử, và là
một lịch sử hết sức bi tráng. Mỗi khi điều ấy xảy ra là một
đại hoạ cho đất nước, thế nên không có gì đáng
khinh miệt và lên án cho bằng bọn lãnh đạo vong
bản:
_ “Không thể nào hình dung nổi một nước Việt Nam mà
cấp lãnh đạo lại có tâm hồn ngoại quốc, không biết
nước Việt Nam ấy sẽ giống cái gì, chưa hề có tiền lệ
trong lịch sử thế giới”
(Căn bệnh bí mật của nàng)
Yêu nước là một tình cảm phổ quát của nhân
loại chứ không phải là đặc sản của người Việt. Nhưng trường
tồn trong một lịch sử vô cùng khắc nghiệt chính là
nhờ người Việt đã có một sức mạnh tinh thần kỳ diệu được nuôi
dưỡng bằng tình yêu nước nồng nàn qua bao nhiêu
thế hêï. Lòng yêu nước vốn trầm tích
trong tâm hồn mỗi con người, hoà nhập được với nhau như nơi
hợp lưu của mỗi ngọn nguồn sông núi. Đất nước sẽ không
đủ sức chống cự sự xâm lăng nếu như con người mất đi gốc rễ của mình,
bơ vơ lạc hướng.
_”…Tao sẽ bắt hai đứa con của bây về ở với tao. Sống trôi nổi
như vậy hại cho chúng nó lắm. Chúng nó không
có lấy một mái tranh để mà nhớ, không có
một khóm rau để mà thương, chúng nó sẽ giống
như những cọng rác trôi theo dòng.”
( Phân nữa con người)
Lòng yêu nước, như vậy chính là những con đê
dài kiên cố, là thành trì vững chải, là
rặng Trường Sơn hiên ngang, là những luỹ tre làng bất
khuất sẽ bảo vệ con người không bị cuốn đi trong những dòng
thác lũ bảo giông của một nền văn minh cơ khí ,
tôn thờ vật chất và thụ hưởng, là chủ nghĩa cá
nhân lạnh lẽo nhân tình.
_”Phải có những cái ấy. Chúng lẩn lút trong người
ta, ràng buộc ta mãi với quê hương. Khi, vì nghịch
cảnh, lòng tin ta bị lung lay tận gốc, ta nghiêng mình
xuống đáy lòng, múc đầy hy vọng và sức mạnh mới.
Phải cần những đau khổ chung, những nguyện vọng tha thiết để kết chặt những
người rời rạc lại. Cần những truyền tục, những kỷ niệm, nói tóm
lại những cái gì nó buộc ta yêu quê hương
nhỏ riêng của ta trong quốc gia lớn”.
( Đất không chết)
Tình yêu quê hương được nhen nhúm và nung
nấu từ trong cuộc sống âm thầm và mãnh liệt của triệu
triệu người dân được dồn nén và tích tụ lại để
biến thành sức mạnh tinh thần diệu kỳ của đất nước. Không phải
lý trí, không phải sự tôi luyện hay giáo
dục, mà chính tình cảm bình dị đơn sơ đó
sẽ giúp cho người Việt quy về một mối. Và khi dân tộc
này đoàn kết trên dưới gần xa một lòng, thì
sẽ không sức mạnh nào huỷ diệt nó được. Lịch sử nhân
loại đã cho thấy rằng khi mà cả dân tộc biết kết thành
một khối đưới mái nhà chung là đất mẹ, dân tộc
ấy sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự tồn vong của tổ quốc, thì
không có cường quốc nào có thể khuất phục được
nó.
Thế nên hãy là những đứa con thương của đất mẹ, dù
có lưu lạc ngàn phương, dù có nghèo nàn
khổ sở, dù có lầm lạc đớn đau, dù bị rẻ khinh nhục mạ.
Vòng tay mẹ hiền hoà và bao la sẽ ôm ấp tất cả,
những cô thợ cấy thợ gặt, những cô gánh nước thuê…
đất mẹ sẽ chở che tất cả để cùng chờ đợi một ngày mai quê
hương qua cơn giông tố:
_”Những cô me Huê Kỳ mà chàng khinh rẻ, nghĩ ra,
gần gũi với chàng không biết bao nhiêu. Chàng tìm
một tâm hồn bầu bạn, và dĩ nhiên tâm hồn ấy phải
là tâm hồn Việt Nam. Những cô me Huê Kỳ này
nguyên trước kia là những cô gái cắt cỏ, những
cô thợ cấy, thợ gặt, những cô gánh nước thuê, nên
trí và lòng họ hoàn toàn bưng bít
với những gì ở ngoài vào, và có ăn ở với
những ông Huê Kỳ hai mươi năm nữa, chắc họ cũng không chịu
được nhạc jazz…
( Những đứa con thương của đất mẹ)
Hãy xoá tan hận thù, hãy tỉnh táo trước
bao cám dỗ lọc lừa, hãy là anh em như từ nguyên
thủy mọi người vốn thật là anh em. Thế nên BINH NGUYÊN
LỘC quan tâm đến cả cành cây ngọn lá của non nước
này, đến những xóm làng nghèo nhất Việt
Nam, bởi chính từ những con người và xóm làng
ấy, mà ta có cái để gọi là người và đất
nước Việt Nam.
_”Nhưng xóm ấy lại rất cần thiết cho sự tồn tại của làng này,
nó gồm tất cả các xóm nhỏ mới thành làng
được-cũng y như làng Tân Định này cũng rất cần thiết
để thành nước Việt Nam, mặc dầu nó nghèo khổ, không
làm lợi trông thấy cho nước nhà và cỡ tang thương
có lướt qua đó, cả làng sụp đổ hết, có lẻ cũng
chẳng sao.
( Bám níu )
_“Ừ, nghèo lắm và ta khổ lắm. Nhưng làng này
không có không được. Một nước phải gồm rất nhiều làng,
làng nghèo, làng giàu, làng nghèo
cũng cần lắm chứ bà con ơi !”
( Bám níu)
Khoảng thời gian BINH NGUYÊN LỘC cầm bút sáng tác
là lúc tình hình nước nhà rối ren tao
loạn hơn bao giờ hết. Chiến tranh ngày càng khốc liệt, đạo
đức và lối sống cổ truyền của dân tộc bị lay chuyển tận gốc
rể khó bề đứng vững. Lòng ngừơi sục sôi trăn trở,
hoang mang, mỗi nhà văn đều bị thôi thúc sáng
tác theo khuynh hướng nào đó để xác định cho
mình một thái độ trước thời cuộc.“ Quốc gia hưng vong, thất
phu hữu trách”, là một nhà trí thức, một nghệ
sĩ, BINH NGUYÊN LỘC cũng khó lòng mà bàng
quan vô cảm cho được:
_”Tuy thế, cuộc hội kiến hôm nay vẫn làm huyên náo
lòng thầy giáo như cái tin khởi nghĩa mười năm xưa.
Vận nước thịnh suy, hưng , vong triều đại, đó là những điều
mà ta khó lòng dửng dưng được, và không
thể đặt ngang hàng điều ấy với một câu truyện tình”
( Rung cây dừa)
Vận nước thịnh suy là nỗi xót xa, thao thức thì không
thể đặt ngang với một câu truyện tình. Có lẻ vì
thế nên đọc tác phẩm của BINH NGUYÊN LỘC, nếu như ta thấy
ở thể loại tiểu thuyết tình cảm ông không có
chi đặc sắc thì trái lại mảng truyện ngắn viết về quê
hương của ông lại làm cho ta rung động rất sâu xa.
Khác với nhiều nhà văn cùng thời, tác phẩm của
ông vắng bóng hình ảnh của những ngừơi cầm súng
và cái không khí ngột ngạt tang thương của chiến
tranh. Chiến cuộc, nếu được đề cập đến thường chỉ phớt qua một cách
nhẹ nhàng và đượm nét buồn căm lặng. Ông cũng
không cay cú gào thét chỉ trích hay kết
án ai. Dân tộc Việt Nam đã chịu đựng đau khổ triền miên
từ ngày lập quốc. Đói nghèo, chiến tranh, lòng
người ly tán, rẻ chia…bấy nhiêu đó là quá
nhiều để cần thêm sự ngộ nhận thù hằn giữa những người chung
màu da và dòng máu với nhau. Cần phải hợp nhất
họ lại dưới một ý chí chung để đủ sức mạnh mà chống
chọi với thử thách nghiệt ngã của thời cuộc.“Phải cần những
đau khổ chung, những nguyện vọng tha thiết để kết chặt những người rời rạc
lại” ( Đất không chết). Cái nguyện vọng tha thiết ấy chính
là tình quê hương đất nước, là nghĩa đồng bào
với nhau. BINH NGUYÊN LỘC đã dùng ngòi bút
của mình, một cách nhẹ nhàng, thân ái để
vun quén tình yêu ấy. Có lẻ ông tin rằng,
chỉ có tình yêu mới giúp cho mọi ngừoi Việt Nam
ta đủ tỉnh táo, biết bao dung, âu yếm nối vòng tay lớn
mà kết chặt hàng ngũ với nhau để bảo vệ mái nhà
chung. Ông tìm cách đánh thức lương tri dân
tộc một cách âm thầm qua những hình ảnh của quê
hương trong quá khứ, hy vọng chính những hình ảnh, mùi
hương của kỹ niệm nơi thôn dã nội đồng sẽ đủ sức nhắc nhớ và
níu giữ những bàn chân quê lưu lạc, mất phương
hướng trở về xiết chặt tay nhau.
Xuất phát từ thái độ và quan điểm như thế, ông
đã ráng hết sức mình, cố công làm một điều
có ích, dù là nhỏ nhoi, yếu ớt và lạc
lõng giữa một thời đại hỗn loạn, nguỵ trá, để nhắc nhở mọi
người về một điều mà ai cũng đã biết, lặng lẽ viết về một chủ
đề mà người ta không đánh giá cao và khó
tạo nên danh tiếng cho ông.
Với số lượng sáng tác đồ sộ thuộc vào hàng phong
phú nhất của Việt Nam, BÌNH NGUYÊN LỘC đã bao
quát rất nhiều chủ đề từ tình yêu, tâm lý,
xã hội đến chuyện ma, chuyện khoa học, triết lý… Chính
vì vậy có người cho rằng tác phẩm ông bao gồm
một “hệ thống chủ đề”. Khảo sát sự nghiệp của ông, chúng
tôi nhận thấy tuy đa dạng và rất phong phú, tác
phẩm của ông vẫn có một nét chính , đó
là tình đất tình người với quê hương, với dân
tộc Việt Nam. Lòng yêu nước, đó là sợi chỉ xuyên
suốt trong sự nghiệp văn chương của ông, tạo tính nhất quán
cho hệ thống chủ đề, làm nên cá tính và
nét đặc trưng của ông trong lịch sử văn học nước nhà.
Ngày nay chúng ta biết ơn và nhớ đến ông, trân
quý tấm lòng của ông, chính có lẻ là
gì điểm này.
Ông yêu, và muốn mọi ngừơi dân Việt cũng biết yêu
đất nước như ông, thế nên sự nghiệp sáng tác của
ông là sự nghiệp ký thác tình yêu
tổ quốc dân tộc ấy lại cho những thế hệ mai sau, thế hệ mà ông
lo ngại sẽ không đủ sức đương đầu với cụôc xâm lăng vô
hình nhưng mãnh liệt của nền văn hoá Tây Phương,
nếu như họ không còn biết yêu quí quê hương
nữa :
_”Nàng có biết đâu rằng Tuấn xem nàng là
một người bạn tâm đầu ý hiệp, một nhơn tình lý
tưởng, nhưng không thể là một người vợ đủ khả năng thực hiện
ý chí ký thác truyền thống dân tộc lại
cho con cái của chàng.”
( Những đứa con thương của đất mẹ)
Lòng yêu nước, cho dù là thiêng liêng,
nhưng nếu dân tộc không có ý thức giữ gìn,
bồi dưỡng, tái tạo để trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác thì chúng cũng bị mai một và tàn
lụi đi.
Yêu nước vừa là tình cảm, vừa là lòng tự
hào của nòi giống Việt, vì vậy đó là chủ
đề phổ biến, là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn trong lịch
sử văn chương nước nhà. Thế nhưng đọc BÌNH NGUYÊN LỘC,
ta sẽ thấy rằng dường như ông đã yêu quê hương một
cách chân thành, tha thiết, sâu sắc hơn ai hết
từ thưở thanh xuân đến những ngày cuối của đời ông.
_”Và từ đó, tôi nghĩ rằng: nhà văn Bình
Nguyên Lộc không phải chết chỉ vì khói thuốc mà
ông chết còn vì nỗi nhớ quê hương, nỗi buồn xa
xứ, một căn bệnh thường gặm nhắm trái tim mong manh của những người
già phải sống xa quê.”
( Thương một nhành mai, Viễn Phương )
Một đời viết văn, một đời Bình Nguyên Lộc đã sống và
chết vì tình yêu và nỗi nhớ quê hương. Cái
sống và chết của ông đẹp và cảm động như một câu
truyện ngắn hay nhất mà người ta có thể viết./.