Bình Dương Thương Mến

Lê Tuyết Mai

Cali vào những ngày tháng tư, có những hôm nắng ấm dịu dàng, có những hôm mưa sụt sùi bất chợt. Nó gợi cho tôi một nỗi bâng khuâng xao xuyến không cùng. Mùa nầy cây bưởi sau vườn đang nở hoa trắng xoá. Mùi hoa ngan ngát lan toả khắp vườn. Hương hoa thơm dịu dàng đưa tôi về một góc trời đầy kỷ niệm tha thiết. Nơi đó, có một thành phố nhỏ nằm dọc bờ sông rộng lớn nhưng thật hiền hoà. Nới đó, có những con đường thân quen, những bạn bè xưa, giờ đây chắc đứa còn đứa mất. Tất cả tưởng chừng như đã nằm im trong ký ức nhạt nhoà. Vậy mà bây giờ tôi bỗng nhớ, nhớ thiết tha mọi sự.

Bình Dương, cái thành phố nhỏ không phải là nơi tôi đã sinh ra, nhưng là nơi tôi đã sống từ thưở thiếu thời cho đến hết tuổi thanh xuân. Cái tên Bình Dương nghe thật hiền hoà như cuộc sống của người dân bản xứ. Nơi đây nổi tiếng với những vườn dâu, măng cụt, sầu riêng, chôm chôm .v.v. Nếu bạn là người Sài Gòn, Biên Hoà hay Thủ Đức, tôi chắc rằng bạn đã đôi lần cùng người yêu hay bạn bè, tung tăng trong những vườn măng cụt rợp bóng mát, hái những nhánh chôm chôm đầy trái đỏ au, hay những chùm dâu vàng óng ngọt ngào ... Để buổi chiều khi trở về thành phố, bạn sẽ mang theo về bao lưu luyến vấn vương !

Bình Dương còn nổi tiếng với những vườn tiêu, vườn điều và những rừng cao su bạt ngàn. Có một thời dân nơi đây bỗng trở nên giàu có, nhờ những thổ sản nầy. Ở  đây cũng có thật nhiều những di tích cổ xưa, những nhà thờ, đền chùa được xây cất hàng trăm năm trước. Hai trong số những ngôi nhà cổ của thành phố nhỏ nầy là nhà của Hạnh và Thảo, hai đứa bạn thân của tôi. Nhà nằm ngay trung tâm thị xã, chung quanh có hàng rào kiên cố bao bọc. Trong nhà, nào hoành phi, câu đối, những bàn thờ lộng lẫy sơn son thếp vàng. Những cột kèo bằng gỗ mun đen bóng, chạm trổ rồng phụng thật tinh vi. Những bàn ghế tủ chè cẩn xa cừ bóng lộn. Nhà nào cũng có rất nhiều phòng với trướng phủ rèm che. Tôi thích nhất cái hồ nhỏ được xây chìm dưới đất.Trong hồ nuôi những con cá tai tượng to hơn gang tay người lớn, con nào điệu bộ cũng trông thật dữ dằn. Trên hồ là một hòn non bộ, rêu phong phủ đầy trên những tảng đa chồng chất lên nhau, làm thành một quang cảnh núi non hùng vĩ, nào thú rừng, nào chim chóc ẩn hiện trong các lùm cây, khe đá. Một vài tiên ông đang đánh cờ hay uống rượu trong hang núi. Một vài tiều phu gánh củi trên đường mòn .v v. Mỗi lần đứng ngắm hòn non bộ lòng tôi thấy thật nhẹỉ nhàng, tưởng như đang phiêu lưu vào một nơi non bồng nước nhược.

Những ngày chúa nhựt chúng tôi thường tụ họp ở hai ngôi nhà nầy. Khi thì chơi đi trốn đi tìm trong những căn phòng ở nhà nhỏ Hạnh. Khi thì trải chiếu sau vườn nhà nhỏ Thảo. Nhà nhỏ Thảo trồng rất nhiều trái cây. Chúng tôi mê nhất cây mận xanh màu ngọc thạch ngọt tựa đường phèn. Nhưng hấp dẫn nhất vẫn là món mận chua, xoài sống, với chén nước mắm đường sền sệt, đặc ngừ tiêu và ớt. Mấy đứa vừa ăn vừa hít hà, chảy cả nước mắt nước mũi và nhìn nhau cười ngặt nghẽo. Có những hôm được nghỉ học bất ngờ, chúng tôi kéo nhau về nằm trên hai bộ ván gỗ bóng loáng, đen như mun và mát rượi đặt ở chái nhà Thảo, đọc truyện Tuổi Hoa hay tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn. Bây giờ Hạnh đang ở Kentucky, hàng tháng vẫn gọi điện thoại sang cho tôi. Nó vẫn thường nhắc những kỷ niệm xưa, và than buồn cho cuộc sống hiện tại. Thảo vẫn còn sống với gia đình trong ngôi nhà xưa đó; nó đang làm một cô giáo dạy Anh Văn tại gia. Mỗi lần viết thư cho tôi, nó thường kể về cuộc sống của một vài đứa bạn còn ở lại, và những đổi thay của thị xã. Nó không quên nói cho tôi biết bao cảnh điêu tàn của hai ngôi nhà cổ. Nhà đã không còn tường rào bao bọc, và vườn tược cũng đã không còn. Nhà nước đã lấn đất từ từ, bảo là dành chỗ cho dân họp chợ. Họ đang đòi mua lại hai căn nhà nầy để làm viện bảo tàng. Nhớ lại cách đây khoảng ba năm lúc tôi còn ở Việt Nam, người ta đã mượn nhà Hạnh để quay một vài ngoại cảnh trong phim Phạm Công Cúc Hoa. Chừng được xem phim, thấy cảnh Cúc viên ngoại ngồi trên ghế tràng kỷ ở giữa nhà, tôi bùi ngùi nhớ lại hình ảnh ông nội của Hạnh. Lúc sinh thời ông cũng thường ngồi trên ghế uống trà, và phe phẩy quạt vào những trưa hè nóng bức. Ông nội Hạnh rất hiền và râu tóc bạc phơ; chúng tôi thường ví ông như một tiên ông trong truyện cổ tích. Thảo kể về khu vườn trồng toàn hoa và kiểng, được cắt xén, chăm bón tỉ mỉ ngày nào, bây giờ đã được lên liếp trồng khoai lang và đang chờ thu hoạch. Thị xã ngày càng đông đúc, phức tạp hơn. Những nơi chốn kỷ niệm của chúng tôi lần lượt bị xoá mờ. Tôi hiểu rằng rồi thời gian sẽ qua rất nhanh và cuốn trôi đi tất cả. Tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan với một thoáng ngậm ngùi:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Ngoài những ngôi nhà xưa, Bình Dương còn có những ngôi chùa thật cổ kính. Lâu đời nhất có lẽ là chùa Hội Khánh. Chùa nằm cách tỉnh lỵ khoảng non cây số. Muốn viếng chùa, chúng tôi phải đạp xe lên mấy con dốc cao, đi sâu vào một con đường mòn nhỏ thật vắng vẻ. Ngoài tượng Đức Thích Ca to lớn oai nghi trên toà sen, trong chánh điện còn có rất nhiều tượng Phật, nhiều đến độ chúng tôi không đếm được. Chùa cũng thờ mười tám vị La Hán, với mười tám bộ mặt khác nhau, mà những nỗi vui buồn, khổ luỵ, rầu lo của cõi trần ai đều hiển hiện. Ngày rằm có rất đông thiện nam tín nữ đến cúng bái. Bàn thờ nào cũng đầy ắp hoa quả, khói hương nghi ngút suốt ngày. Chúng tôi thường kéo nhà lên chùa lễ Phật vào những ngày rằm, và ăn cơm chay. Đứa nào cũng tin rằng được ăn cơm của Phật sẽ gặp nhiều may mắn.

Nhà thờ của thị xã cũng là ngôi nhà to lớn nhất vùng miền Đông Nam Bộ, được xây cất từ thời Pháp thuộc và kiến trúc theo lối Pháp. Nằm trên một ngọn đồi cao với tháp chuông cao chọc trời, nhà thờ luôn được trùng tu nên lúc nào cũng như còn mới. Muốn lên nhà thờ phải trèo lên mấy chục bậc tam cấp, chân cẳng mỏi rã rời. Ở đây chúng tôi có thể nhìn bao quát toàn cảnh thị xã. Đối diện nhà thờ là một ngọn đồi thấp hơn, có những hàng cây cao vòi vọi. Đó là những cây dầu có từ lâu đời, gốc to hai ba người ôm chưa giáp, vì thế ngày xưa Bình Dương còn có tên là Thủ Dầu Một. Toà Tỉnh Trưởng ngày xưa là một trong những toà nhà ba tầng được xây cất thật kiên cố từ thời Pháp. Bây giờ ở nơi đây cũng được chọn làm nơi đặt trụ sở hành chánh của tỉnh. Những ngày trời quang đãng, đứng ở sân nhà thờ chúng tôi thấy núi Bà Đen xanh rì ở chân trời. Thưở tôi còn là một nữ sinh lớp nhì trường tiểu học tỉnh lỵ, ngôi nhà thờ nguy nga, với tháp chuông cao vòi vọi đã là niềm mơ ước của tôi. Thưở đó tôi đã đọc nhiều sách thuyết giảng về cuộc đời của Đức Jesus và tôi ước mơ được làm con chiên của Chúa. Tôi cứ tưởng như được trông thấy bánh, cơm và cá từ trên trời xuống như mưa, và Chúa Jesus đã bẻ cá chia cho các con chiên của Người. Tôi ước mơ mỗi buổi sáng chúa nhật được đi lễ nhà thờ trong tấm áo dài trắng thướt tha, được vào nhà thờ và quý dưới chân tượng Chúa ... Nhưng những ước mơ của tuổi nhỏ theo thời gian cũng dần dần phôi pha.

Ai là người Bình Dương, dù đi xa tận chân trời góc biển nào cúng không làm sao quên được lễ hội ngày rằm tháng Giêng. Đây là một ngày hội lớn nhất trong năm. Ngày rằm tháng Giêng là ngày ví Đức Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Mọi người nô nức đổ xô về dự hội tại ngôi Chùa Bà nằm ngay thị xã., cách nhà thờ một con đường. Chùa được xây cất từ bao giờ tôi không được rõ, chỉ biết khi gia đình tôi đặt chân lên xứ nầy thì chùa đã có từ lâu. Theo lời người lớn kể lại, khi xưa muốn xây chùa người ta phải cúng vái,và xin keo. Bà chỉ định ở đâu thì xây chùa ở đó. Những người Tàu đứng lên xây chùa, do đó chùa kiến trúc theo lối những ngôi chùa cổ bên Trung Hoa. Lễ hội ngày rằm đã được chuẩn bị trước đó hằng đôi ba tháng. Người ta đấu thầu, để xem ai là người được vinh dự đứng ra lo việc tổ chức rước lư hương của Bà. Số tiền người trúng thầu phải nộp cho chùa có khi lên đến hàng triệu đồng. Trong lễ rước, ngoài các xe hoa, còn phải có các cung nữ theo hầu Bà. Người ta tuyển chọn cung nữ từ các thiếu nữ xinh đẹp, mặc những bộ quần áo lộng lẫy và gánh những gánh hoa hay  những tấm gấm, lụa rực rỡ.

Đám rước được cử hành đúng ngày rằm, nhưng trước đó đôi ba ngày, các đoàn lân ở nhiều nới đã tụ họp về tranh tài. Họ đi biểu diễn trong khắp phố phường. Tiếng trống múa lân đùng đùng ở khắp cả đầu trên xóm dưới; nó như có một mãnh lực kỳ lạ, giục giã bước chân người ta, khiến cho người lớn phải bỏ việc ra xem, trẻ con bỏ ăn bỏ học đi lang thang theo đoàn lân suốt ngày.
 
Lúc tôi còn học bận tiểu học, đó là khoảng thời gian thanh bình nhất của đất nước. Tôi còn nhớ rất rõ chưa đến ngày rằm mà người tứ xứ đã kéo về đông vô số kể. Những người không có thân nhân thì ở la liệt trên các hè phố góc chợ. Chợ búa bỗng trở nên tấp nập đông vui. Lễ rước lư hương bao giờ cũng được tổ chức vào ban đêm. Hai bên phố nhà nào cũng treo những dây pháo dài thậm thượt, có khi từ lầu ba kéo dài xuống chạm đất. Trước mỗi nhà đều có đặt bàn hương án với nhang đèn và hoa quả. Khi đám rước dừng lại, lân sẽ biểu diễn và pháo sẽ được châm ngòi. Cứ thế, dây pháo nầy nối tiếp dây pháo kia, khói pháo mờ mịt cả một vùng. Lần đầu tiên ba tôi dẫn tôi đi xem hội, tôi đã kinh hoàng nhắm mắt, bịt chặt hai tai, nước mắt chảy ròng ròng vì khói pháo. Sau nầy khi lớn lên, ngày hội nầy là ngày chúng tôi yêu thích nhất. Tôi thường cùng lũ bạn vào chùa cầu xin Bà phò hộ cho việc học hành, và sau đó vay tiền Bà để mang về cho má tôi, để mong cầu sự mua may bán đắt, tiền bạc dồi dào. Ai ai đến chùa cũng vay tiền của Bà mang về cất kỹ trong bóp, với niềm tin không bao giờ thiếu hụt tiền bạc. Tiền cho vay được nhà chùa cho vào một phong bì đỏ, loại phong bì để dành lì xì cho trẻ con ngày Tết, trong đó họ để một số tiền tượng trưng rất ít. Có nhiều nhà buôn bán lớn trong thị xã, họ vay tiền Bà và làm ăn khấm khá, thế là vào dịp rằm sang năm họ sửa soạn lễ vật tạ ơn thật hậu hĩ. Hầu như tất cả mọi người dân trong tỉnh đều vay tiền của Bà, và xem như đó là lá bùa hộ mạng.

Thị xã nằm sát cạnh bờ sông, một phụ lưu của sông Sài Gòn. Mùa nước nổi, nước dâng cao tràn bờ; nước có màu xanh biêng biếc vì có pha nước biển. Tôi yêu dòng sông kỳ lạ, nhất là vào những buổi sáng tinh mơ, khi sương mù còn lãng đãng trên mặt sông. Dòng sông như còn ngủ yên trong giấc ngủ miệt mài. Mặt nước phẳng lặng như tờ, và dường như càng thêm mênh mông. Bên kia bờ, lờ mờ trong sương là Phú Hoà Đông, một miền đất thật trù phú nhưng cũng thật là sôi động trong thời gian chiến tranh đã qua.

Những ngày hè trong ký ức tôi là những vòm hoa phượng vĩ, màu hoa đỏ rực chói loà trong nắng ban trưa. Từng đám nữ sinh với những tà áo dài trắng thướt tha và những nhánh phượng trên tay, trên các giỏ xe, các cô mang cả mùa hè đi khắp các nẻo đường thị xã. Nhà thơ Đỗ Trung Quân, có lẽ nhìn cảnh đó, đã bất chợt thốt lên:

Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng
Em chở mùa hè của tôi đi đâu?
Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám
Thưở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu.

Bây giờ xa quê hương tôi nhớ hoài những hàng cây phượng vĩ ở sân trường, và thèm nghe được tiếng ve sầu kêu râm ran trong những vòm cây dầu cao vòi vọi, đầy bóng mát trên khắp các nẻo đường thị xã. Bây giờ, ngày nào tôi cũng ra sau vườn để hít thở cái mùi hoa bưởi ngan ngát thơm, và tự nhủ thầm: ở nơi nào hoa bưởi cũng ngát hương! Vậy mà tôi vẫn nhớ về một góc phố thân quen ngày nào, và những con đường mang nhiều kỷ niệm của một thời tuổi trẻ.
***