RỪNG MẮM của Bình Nguyên
Lộc
và câu chuyện những người
đi mở cõi
Hoàng Anh
Sau khi Hồ Biểu Chánh, kẻ mở đường cho lối viết văn miền Nam
qua đời, có nhiều nhà văn nối nghiệp ông chuyên
viết về đất và người phương Nam. Trong số này có hai
tên tuổi nổi bật hơn cả: Bình Nguyên Lộc và Sơn
Nam. Một người chuyên viết về miền Đông, vùng đất thổ
ngơi của sông Đồng Nai; người kia chuyên về miền Tây, vùng
châu thổ sông Cửu Long.
Cùng một thế hệ, cả hai đều chứng kiến thời kỳ nước nhà chìm
đắm trong khói lửa điêu linh, đều có tấm lòng
yêu mến quê hương xứ sở một cách trìu mến, thiết
tha. Cả hai đều là những người đa tài, sự nghiệp sáng
tác của họ thật đồ sộ và đa dạng trong thể loại: ngoài
truyện ngắn, tiểu thuyết, họ còn có những công trình
lớn về biên khảo, và đặc biệt hơn, cả hai cũng từng viết được
những bài thơ rất hay.
Xét về tuổi tác, B.N.L thuộc lứa đàn anh của SN, ông
sinh năm 1914, lớn hơn Sơn Nam một con giáp. Tuy nhiên cả hai
có mối nhân duyên để thành những văn hữu khá
thân thiết với nhau từ rất sớm và có với nhau nhiều kỷ
niệm đáng nhớ. SN kể rằng chính BNL đã truyền lại cho
ông những kinh nghiệm của nghề làm báo:
“Bình Nguyên Lộc là nhà văn mà tôi
mến nhất”, “Bàn bạc với B.N.L rất nhiều lần về cách làm
quen với làng báo nhất là báo tuần Sài
Gòn (nói theo bây giờ là hội nhập). Anh khuyên
tôi phải siêng năng, chuẩn bị sẵn đôi ba cốt truyện hễ
khi tiếp xúc với toà soạn mà được đồng ý đại
khái là ngay hôm sau phải nộp bài để in. Đề tài
về đồng quê, buổi ấy gọi nôm na là “truyện đường rừng”đã
có đôi ba nhà văn viết rồi”.
( Hồi ký Sơn Nam)
Nghe theo lời khuyên của bậc đàn anh, SN viết một số truyện
ngắn sau này gom lại thành “Hương Rừng Cà Mau” một tuyệt
tác về miền Tây trong nền văn học Việt Nam chúng ta.
Đề tài về cuộc khẩn hoang của tiền nhân trên vùng
đất phương Nam cũng là hoài bảo âm thầm mà mãnh
liệt trong sự nghiệp sáng tác của BNL. Tiếc rằng có
quá nhiều bất trắc xảy ra khiến ngày nay chúng ta không
có cơ may thưởng thức được trọn vẹn tác phẩm mà
nhà văn đã dành trọn tâm huyết cho chúng.
Ngay từ năm 1935, lúc vừa mới hai mươi tuổi, BNL bắt đầu khởi
thảo cuốn truyện thứ nhất của đời ông. Đến năm 1942, tức mất bảy năm
trời mới hoàn thành xong tác phẩm với tựa đề “Hương
Gió Đồng Nai”, theo lời của chính tác giả thì
đây là :
“Tập truyện ngắn và tuỳ bút bát ngát hương
đồng gió nội, và dẫy đầy màu sắc địa phương này,
đã được hai nhà thơ có tiếng đương thời: Xuân
Diệu và Huy Cận tán thưởng”
(Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với BNL).
Tiếc rằng khi Pháp quay lại tái chiếm Tân Uyên
cuối năm 1945, trong lúc chạy tản cư vội vã, tác phẩm
đã bị thất lạc. Dấu vết của tuyển tập này chỉ còn lại
một truyện ngắn và một tuỳ bút đăng báo khoảng năm 1943,
mà nay, ngay cả tựa đề của chúng là gì chắc cũng
ít người biết. Mấy chục năm sau BNL vừa thử viết lại vừa cố gắng tìm
bản thảo xưa, ông còn đăng lời rao trên báo với
hy vọng mong manh tìm lại được tác phẩm này nhưng không
nhận đưoc chút hồi âm nào.
Vừa hoàn thành xong Hương Gió Đồng Nai, BNL đã
khởi sự viết tiếp một tiểu thuyết lịch sử : “Phù Sa”. Ông đã
thai nghén tác phẩm này rất lâu, một bộ trường
thiên sử thi dài cả ngàn trang tái dựng cụôc
Nam tiến vĩ đại của đồng bào Nam Ngãi để mở mang bờ cõi.
Tác phẩm này, cũng cùng chung số phận như Hương Gió
Đồng Nai, sau khi đăng được đoạn khai từ với tên “Di dân lập
ấp” trên báo Thanh Niên của KTS Hùynh Tấn Phát
vào năm 1943 thì bị thất lạc.
Theo tác giả thì đây là tác phẩm lớn và
quan trọng nhất của ông nói về cụôc Nam tiến. Ông
có viết lại một phần và gởi đăng trên tuần báo
Nhân Loại, độ một phần sáu của tác phẩm rồi vì
bệnh tật nên bỏ dở dang. Trãi qua gần 45 năm, đến cuối đời,
ông viết đi viết lại mãi vẫn chưa xong. Không nói
ra, ta cũng biết rằng đây là những mất mát hết sức to
lớn đối với một người cầm bút, và BNL chắc là phải ôm
nỗi niềm tiếc nuối khôn nguôi với những đứa con tinh thần đầu
tay của mình. Về đề tài này, BNL cho biết:
“Với mình đó vừa là một cái “mộng” lớn thiết
tha mà mình cần thực hiện trong đời văn, lại vừa là
một món “nợ”tinh thần mà mình cần phải trả…Nợ đối với
ông cha đã bỏ quê nhà vô đây, đổ mồ
hôi và đôi khi đổ máu đào để chúng
mình nay có một miền Nam trù phú, nợ đối với
tấm tình yêu mến điạ phương mình, nơi có lẽ đã
đón nhận một trong những đoàn người đầu tiên ở miệt ngoài
vào lập nghiệp”
(Nguyễn Ngu Í, sống và viết với…Bình Nguyện Lộc, Ngài
xanh xuất bản, 1966, tr.221)
Điều rất đáng khâm phục là tuy ngay từ buổi đầu đã
gặp phải một tai nạn nghề nghiệp đầy rủi ro như thế, BNL vẫn không
từ bỏ giấc mộng của ông. Không viết được tác phẩm lớn
như ý nguyện, thì ông viết ngắn gọn lại, và chính
điều này đã tạo nên độ nén cho tác phẩm,
để chỉ trong vài trang, mà ông đã có thể
cô đọng được hết những gì cần phải dàn trãi trong
mấy trăm trang giấy. Chúng tôi muốn đề cập đến truyện ngắn Rừng
Mắm bất hủ của ông.
Nhà văn Sơn Nam kể lại chuyện này như sau:
”Anh ôm ấp giấc mơ về tác phẩm lớn, đặt nhan đề là Phù
Sa, đã đăng báo Nhân Loại nhưng dường như chưa đạt yêu
cầu, mô tả từng đoàn thuyền từ xứ Quảng vào, chèo
vượt sóng với điệu hát “quan hải hồ khoan”. Gặp tôi,
anh nhờ giúp tư liệu sống về phía mũi Cà Mau, anh ngờ
rằng cây đước ngoài biển là đạo binh tiên phong
gìn giữ phù sa từ biển cả. Tôi bảo ngoài xa nhất
vẫn là cây mắm, mắm bám đất, lấn biển rồi sau lưng cây
mắm là cây đước, đến cây tràm. Anh bảo là
bấy lâu chỉ mới vượt sông Hậu đến chợ Cần Thơ ven sông
rồi đi Cái Răng cách đó 5 kilômét thôi.
Tôi giúp anh một cách “văn nghệ” là nhờ hoạ sĩ
Trần Tấn Thanh (đã hy sinh thời chống Mỹ) vẽ bức tranh nhỏ, với sơn
dầu về cảnh mũi Cà Mau. Anh nổi hứng, viết nhanh trong hai đêm
truyện Rừng Mắm mà rất tiếc, đáng lý dịp kỷ niệm 300
Sài Gòn ta nên nhắc lại một cách trân trọng”
( Sơn Nam, Hồi ký hai mươi năm giữa lòng đô thị, tr.312)
Truyện được đăng trên tạp chí Chỉ Đạo, số 20-21, tháng
10 năm 1958 với tựa đề “Thế hệ tiên phuông”. Về sau, năm 1960,
truyện được in lại trong quyển “Kí Thác”, nhà xuất bản
Bến Nghé, với tựa đề mới là Rừng Mắm. Và từ đó,
Rừng Mắm đã gắn liền với tên tuổi của nhà văn BNL, nhắc
đến BNL, nhắc đến công cuộc khẩn hoang miền Nam, người ta không
thể không nhắc đến BNL và truyện Rừng Mắm tuyệt vời của ông.
Năm 1963, theo ý của tác giả và nhiều bạn đọc, ban chủ
biên đã tuyển chọn Rừng Mắm in trong tuyển tập “Những truyện
ngắn hay nhất quê hương chúng ta” (Văn Hữu Á Châu
xuất bản, 1963, Sài Gòn).
“Hễ nói tới văn chương ngôn ngữ miền Nam, là phải nghĩ
ngay tới Bình Nguyên Lộc cũng như nói tới sóng
thì phải nghĩ ngay tới nước”
(Hồ Trường An, tạp chí Văn Học, California, số 18, tháng 7-1987)
Nhà văn Tô Hoài, trong bài “Bức tranh lịch sử
của người mở cõi phương Nam” có viết: ”Cũng như khi đọc
truyện ngắn Rừng Mắm của Bình Nguyện Lộc và những người đi
tìm đất của Sơn Nam, của Đoàn Giỏi, thấp thoáng mà
ám ảnh không dứt những hình thù sông nước
và tiếng rừng của người ra đi, đi mãi” ( Tuổi Trẻ chủ nhật
13-3-05)
Rừng mắm nói về một gia đình ba thế hệ : ông, cha mẹ
và con, cả nhà đưa nhau đến một vùng đất hoang vu miệt
Cà Mau để khẩn hoang lập nghiệp. Cốt truyện giản dị, không có
nhiều tình tiết hay kịch tính hấp dẩn, thế nhưng tầm khái
quát và sức chuyển tải thì thật phong phú, đáng
kinh ngạc. Và dù câu chuyện không có gì
lâm li bi đát, mà đọc hoài vẫn thấy hay, thấy
thích.
Công cuộc mở mang bờ cõi đất phương Nam được thế hệ đời sau
nhắc đến như khúc trường ca oai hùng của dân tộc. Đó
là niềm tự hào, là cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
bao la, như những cánh đồng lúa xanh trãi dài
đến tận chân trời đầy ắp phù sa, như hương gió Đồng Nai
lồng lộng tươi mát bốn mùa. Thế nhưng bộ sử thi ấy không
chỉ có khúc khải hoàn của những đoàn quân
trên vó ngựa gươm giáo sáng ngời, mà còn
là tiếng thở dài của những con người chông chênh
trên chiếc ghe bầu vượt sóng cả đại dương, của những bàn
chân dẫm đạp chông gai băng suối vượt đèo, là lưỡi
cày lặng lẽ giữa chốn đồng sâu, là nhát búa
đốn cây đẵn gỗ trên ngàn, là những thanh tre chống
chọi với mãnh hổ rừng thiêng…
Bài ca mở cõi là tiếng hát kiêu hùng
nhưng vô cùng bi tráng của quê hương.
Thế giới văn chương của Rừng mắm đưa đưa độc giả ngược thời gian về thời
kỳ khẩn hoang miền Nam ở rừng rậm U Minh, ngắm nhìn những rừng mắm
rừng tràm chen chút vươn mình ra biển khơi lộng gió,
như hình ảnh của những người tiên phuông không tên
tuổi đã góp phần hoàn thành bức bản đồ
Việt Nam. Để có thiên nhiên thuần khiết hiền hoà
hôm nay, trên đường vào đất mới, người Việt phương Nam
đã phải làm quen với rừng thiêng nước độc, mưa nắng triền
miên, và bao nhiêu gian khó mà thế hệ ngày
nay khó lòng hình dung được.
Đó là cuộc chống chọi của con người với thiên nhiên
hoang dã, cuộc chống chọi của những cây lau cây sậy yếu
đuối mong manh trước sấm chớp và bảo tố.
Vậy mà họ vẫn tồn tại và vẫn bám lấy đất đai này
mà sống. Sống,với họ không chỉ là chiến đấu mà
còn là chịu đựng. Cuộc Nam tiến trường chinh của người Việt
kéo dài suốt cả ngàn năm phải chăng đã đến điểm
dừng, từ đây họ không còn chỗ nào để đi tới, cũng
không thể quay về. Hay phải chăng có một tiếng vọng âm
thầm nào đó đã được ký thác lưu truyền
qua bao thế hệ, nhắn nhũ với họ rằng đây chính là vùng
đất hứa mà họ phải cố công gìn giữ, bao thế hệ phải nằm
xuống lót đường để đất này một ngày kia trở nên
hoa gấm, gai cỏ sẽ biến thành trái ngọt đầy cành, bùn
lầy sẽ nở đầy sen ngát hương thơm?
Con trâu lội nước đi trước, chồng cày vợ cấy đi sau. Cứ như
vậy mà từng tấc đất một, từng ngày qua, từng năm hết, cả vùng
đất Nam kỳ lục tỉnh bao la đã được chinh phục. Thế nên trên
đất đai này đâu phải chỉ có những ông điền chủ
có hàng ngàn mẫu ruộng con cái xài tiền
như nước, mà còn có những con người chịu nắng, chịu
mưa, đói, khát, bệnh tật, thèm thuồng, sợ hãi,
và bị chìm trong tăm tối mà vẫn luôn nuôi
một niềm hy vọng. Chịu đựng, đó chính là số phận, và
họ phải nhẫn nại chịu đựng số phận khổ nhục mà vinh quang ấy, với
lòng biết ơn vô vàn của muôn triệu con cháu
đời sau.
“Năm tới tao gieo giống Tầm Vuột chắc được gạo hơn nhiều. Năm nay
hễ chuối trổ buồng là năm tới tao trồng sả, trồng ổi được rồi đó.
Cả nhà đều hớn hở trước dự định tương lai tốt đẹp kia.”
“Năm tới, đất thuần, ta làm ba mươi công, và sẽ gọi dân
cấy gặt ở xa tới để phụ lực. Rồi tía con sẽ cưới vợ cho con, rồi thiên
hạ sẽ bắt chứơc tràn tới đây mà phá rừng, vùng
Ô heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu.
Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra cau, dừa, xoài, quít,
đầy nhà, nước sẽ ngọt một khi đất thuần…
_ Và sẽ có chè ăn?
Ông nội cười ha hả mà rằng:
_ Gì chớ chè thì sẽ có lu bù.”
( Rừng mắm)
Chính những triển vọng xán lạn ấy đã tạo nên một
nguồn sức mạnh vô cùng to lớn giúp cho thế hệ tiên
phuông đủ can trường và nghị lực vượt qua tất cả thách
thức cam go, sẵn sàng hy sinh đời mình cho con cháu
mai sau:
“…Ông nói điều này, không biết con hiểu được
hay không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ miền Trung
tràn vào đây đều chịu số phận làm cây mắm
cả, từ xứ Đồng Nai nước ngọt tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả.
Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc này
để lót đường cho con cháu họ đi tới, y như là đàn
kiến xung phong, tốp đầu liều chết đuối lội qua tô nước rộng hũ đường
để làm cầu cho bạn đi sau vào đến nơi có chất ngọt.”
( Rừng mắm)
Chỉ với sức người nhỏ bé, chỉ với cái cày, cái
cuốc, con dao… trước mênh mông của trời đất, họ nhận ra được
rằng tương lai ấy phải đánh đổi bằng mồi hôi nước mắt của rất
nhiều thế hệ mới hy vọng làm nên:
“Tất cả mấy lớp tiên phuông đầu đều ngã gục như rừng mắm
rồi ông sơ, ông cố con, ông nội đây là tràm
mới kiếm được miếng ăn…”
Sự hy sinh cho con cháu đời sau trở thành một đạo lý
của sự sống còn, đó là một truyền thống tốt đẹp phải
được lưu truyền qua bao thế hệ mãi cho đến một ngày mai xa
xôi nào đó khi cụôc khẩn hoang hoàn tất:
“Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi. Vả lại con không
thích hy sanh chút ít cho con cháu của con hưởng
sao?
Thằng Cộc nhìn lại ông nội nó và thương không
biết bao nhiêu ông già đã bỏ mồ, bỏ mả ông
cha để hì hục năm năm trong đồng chua, nước mặn ở Ô Heo”
Một hệ quả cao đẹp của đạo lý nhân nghiã chính
là lòng hy sinh vì lợi ích và hạnh phúc
của người khác. Với những người khai hoang, đó là lo
cho con cho cháu họ. Hy sinh là một trong những đức tính
phổ biến, đặc trưng nhất của người Nam bộ và vẫn được lưu truyền trong
huyết quản, trong tâm thức của người Nam bộ đến tận hôm nay.
Vì thấm đậm đức tính này nên khi non sông
tổ quốc cần, họ sẵn sàng hy sinh tất cả ruộng vườn, nhà cửa,
sinh mệnh để đứng lên đáp lời sông núi. Khi hoàn
cảnh ngặt nghèo, họ thường nhường cơm sẻ áo, coi thường danh
giá và phẩm tiết của bản thân vì hạnh phúc
của những người thân yêu.
Hy sinh và biết ơn, những bài học đạo lý này
có lẽ là chủ đề chánh mà tác giả truyện
Rừng Mắm muốn gởi đến người đọc. Cô Phương Thảo, một bút danh
khác của nhà văn Vũ Hạnh, trong bài điểm sách
trên tạp chí Bách Khoa đã nhận xét: “Vì
vậy nhiều người đã ca ngợi rất hợp lý cái cao quí
của Rừng Mắm, cái xót xa của Ba Con cáo và cái
hùng tráng của Đồng Đội”
Lúc được đăng trên tạp chí, truyện chỉ chiếm không
đầy sáu trang giấy. Ngắn như thế, mà gói gọn được bao
nhiêu hình ảnh, bao nhiêu là giá trị và
ý nghĩ của công cuộc Nam tiến gian khổ của tiền nhân thưở
xưa, có thể nói truyện Rừng Mắm đã đạt được sự thành
công rất lớn trong nghệ thuật viết truyện ngắn. Đến hôm nay,
dường như chưa có truyện nào khác ở nước ta đạt được
mức thể hiện tương đương với truyện ngắn trên về cùng đề tài
này. Lời kể của SN làm chúng ta ngạc nhiên và
khâm phục nhà văn nhiều thêm, chưa đến đất mũi Cà
Mau lần nào, sao BNL có thể miêu tả vùng đất ấy
trung thực và sinh động đến thế!
Đã có quá nhiều bài viết giới thiệu, phân
tích và khen tặng “Rừng mắm”, người viết thiết nghĩ không
cần phải ca ngợi thêm, sơn phết thêm ít màu sắc
trên một bức tranh vốn đã tuyệt đẹp. Nhân dịp kỷ niệm
93 năm ngày sinh và 20 năm ngày mất của BNL ( ông
sinh và mất vào cùng ngày 7 tháng 3 ),
người từng được các văn hữu uy tín tôn là một
nhà văn hàng đầu, nhà văn lớn nhất miền Nam, bài
viết này xin góp thêm đôi dòng giúp
bạn biết rõ hơn về hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Rừng mắm.
Xem như nén tâm hương gởi đến một nhà văn “Trót
mang lấy nghiệp vào thân”: cái nghiệp phải yêu
mến quê hương, đất nước tha thiết, sâu đậm đến trọn một kiếp
tằm tơ.
Trời chưa có mưa thu, mà chúng ta đã nghe nhớ
đến tằm. Nhớ nhiều lắm.(1)
(1) Mưa thu nhớ tằm, tên một truyện ngắn của BNL