BIỂN HỒ ĐI DỄ KHÓ
VỀ ...
Từ Minh Tâm
Đường ra Biển Hồ:
Trước khi đi thăm Biển Hồ, hướng dẫn viên Nguyễn
Hoàng đã phát biểu như sau về vấn đề trẻ em Việt Nam
ở đây. Theo anh đây là một vấn đề tế nhị. Thấy các
em nghèo quá đến xin giúp đỡ mà không giúp
thì áy náy, mà giúp đỡ thì bao
nhiêu mới đủ. Cho các em một, hai đô la cũng chỉ là
một giọt muối bỏ biển, hoàn toàn không thay đổi được
cuộc sống của các em. Cho tiền các em lại dễ gây ra tâm
lý ỷ lại và dựa dẫm vào khách du lịch đồng thời
gây mất trật tự ở đó. Du khách ngoại quốc sẽ nghĩ xấu
về Việt Nam khi thấy trẻ em Việt ở Biển Hồ nghèo đến nỗi phải đi ăn
xin. Anh còn nói Biển Hồ có rất nhiều cá, cuộc
sống của đồng bào mình ở đó không đến nỗi khó
khăn lắm. Nếu thật sự nghèo, tại sao họ không về Việt Nam để
sinh sống mà cứ bám lại đây ? Nghe lý luận của
anh thì mọi người không phản đối.
Nhưng họ nghĩ gì và sẽ làm gì
thì sau nầy khi ra tới nơi thì mới biết.
Biển Hồ cách Xiêm Riệp 12 km, xe đi trên
một con đường song song với con sông Xiêm Riệp để ra đó.
Trước đây khi quốc lộ 6 chưa khai thông thì đây
là con đường duy nhứt mà người dân Xiêm Riệp
có thể liên lạc ra bên ngoài thông qua Biển
Hồ. Từ đây nếu đi tàu cao tốc về Nam Vang thì mất 5 tiếng.
Bên tay phải của con đường, tôi thấy có nhiều ngôi
nhà sàn làm bằng gỗ quý trông rất đẹp.
Cuộc sống của người dân dọc đường cũng khá sung túc.
Trái lại bên trái là con sông Xiêm
Riệp thì người ta cất nhà sàn dọc bờ sông. Những
nhà bên đó trông nghèo hơn nhiều. Mùa
nầy là mùa nước nổi nên thỉnh thoảng chúng tôi
thấy những cánh đồng ngập nước. Tôi thấy có những nhà
hàng bình dân để dân chúng tới đây
nhậu nhẹt và câu cá ... Hôm nay khách cũng
khá đông. Họ đang thụ hưởng sự mát mẻ của đồng quê
trong mùa nước lớn.
Xe đã tới bến cảng. Bến ở chân một ngọn núi
cao chừng 50 mét. Trên núi có một ngôi chùa.
Hôm nay có lễ dâng y cho các thầy nên tín
đồ theo những bậc cấp leo lên núi khá đông. Bên
bờ, một chiếc tàu trang trí hoa hoè đang phát
thanh những bài kinh kệ. 90% dân Campuchia theo Phật Giáo
và họ rất sùng đạo. Mấy ngày nay là lễ dâng
y nên đâu đâu cũng thấy người ta treo cờ kết hoa tại các
chùa.
Chúng tôi lên một chiếc tàu
cỡ vừa có thể chở chừng 30-40 người làm bằng gỗ. Tàu
có hai tầng. Tầng dưới có ghế, tầng trên chỉ để ngắm
cảnh. Tàu có áo phao treo trên đầu mỗi hàng
ghế cho khách. Như vậy tôi thấy cũng an toàn.
Có một điều gây ấn tượng nhứt cho chúng
tôi là có một em bé chừng 6 tuổi làm phụ
lái cho tài công. Da em đen nhẽm. Em ốm nhách
nhưng lại biết đẩy tàu cho tàu của mình không
chạm vào các tàu khác. Em biết đưa tay cho du
khách để họ bám vào mỗi khi họ lên xuống tàu
... Trẻ em Biển Hồ từ nhỏ đã là một thuỷ thủ giỏi rồi. “Thấy
mà thương”, bà xã tôi buộc miệng nói như
vậy và không quên nhét vô tay em mấy đô
tiền thưởng cho chàng thuỷ thủ tí hon.
Tàu tách bến và chạy chậm chậm ra
hồ. Quang cho biết ở đây tuy nước ngập mênh mông nhưng
chưa phải là Biển Hồ mà chỉ là con lạch mà thôi.
Từ đây ra tới Biển Hồ còn trên 10 km nữa. Anh cũng nói
sơ qua về Biển Hồ như sau:
Biển Hồ:
Tên địa phương của Biển Hồ là Tonlé
Sap có nghĩa là "Sông Lớn Nước Ngọt". Đây là
hồ tự nhiên lớn nhứt Đông Nam Á. Hồ thông với sông
Mekong ở Nam Vang bằng một con sông cùng tên là
sông Tonlé Sap. Hồ có một tác dụng đặc biệt trong
việc điều tiết lũ lụt cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vào
mùa mưa, nước sông từ thượng nguồn sông Mekong về sẽ chảy
ngược vào hồ làm ngập lụt các cánh đồng và
rừng xung quanh. Lúc đó hồ có diện tích 24.605
km2 , sâu khoảng 9 mét. Qua mùa khô từ tháng
11 đến tháng 5 năm sau, nước từ hồ sẽ chảy xuôi dòng
ra biển. Lúc đó diện tích hồ chỉ còn 2.590 km2
và sâu 2 mét, thậm chí có nơi chỉ sâu
có 1 mét. Biển Hồ như vậy có tác dụng điều tiết
dòng chảy làm giảm bớt lũ lụt cho vùng hạ lưu.
Biển Hồ là nơi sinh sôi nẩy nở lý
tưởng của nhiều loài cá. Sản lượng cá ở đây có
thể nuôi sống 3 triệu người và cung cấp 75% sản lượng cá
nước ngọt và 60% chất đạm cho người dân. Tuy nhiên, tài
nguyên thiên nhiên cũng bắt đầu cạn nên ngày
nay người ta đã bắt đầu nuôi cá trên bè
như ở Việt Nam. Cá được nuôi nhiều nhứt là cá
da trơn, cá lóc và ... cá sấu. Một con cá
sấu con giá 20 đô la, nuôi lớn có thể bán
tới 200 đô la.
Những thành phố ven bờ Biển Hồ là: Phnom Penh, Kompong Chnang,
Pursat, Battambang, Sisophon, Xiêm Riệp, Kompong Thom...
Từ bờ ra biển:
Dọc hai bên tàu, chúng tôi thấy
vô số những căn nhà nổi trên phao. Những căn nhà
nầy làm bằng vật liệu rẻ tiền như gỗ, ván, tôn ... Người
Việt sống ở đây rất nhiều đến nỗi trên các sách
du lịch đôi khi ghi là “Làng nổi của người Việt trên
Biển Hồ”. Thật ra, ngoài người Việt còn có người Campuchia
và người Chăm. Quang chỉ cho chúng tôi cách phân
biệt nhà nào của người Việt ngoài việc nhận biết bằng
chữ Việt trên các tấm quảng cáo. Theo đó, nhà
người Việt thường sơn màu rực rỡ như đỏ, xanh. Trong nhà, phụ
nữ Việt thường mặc áo bà ba, đội nón lá. Ở đây
có đủ mọi dịch vụ cho cuộc sống như có tiệm uốn tóc,
thẩm mỹ viện, tiệm cà phê, quán nhậu ... Đa số cư dân
trên làng nổi sống bằng nghề đánh cá. Tôi
thấy một chiếc ghe kia đang kéo lưới. Cá họ bắt được chỉ nhỏ
chừng vài ngón tay. Quang nói cá nầy bắt để cung
cấp cho các bè nuôi cá lớn.
Tàu chạy ngang qua một nhà thờ công
giáo. Đó là nhà thờ của người Việt. Ở đây
cũng có một ngôi chùa của người Việt nữa.
Có một chiếc tàu cao tốc đang chạy ngược
chiều sóng từ tàu nầy rất lớn làm cho chiếc tàu
của chúng tôi dập dềnh hơi mạnh mặc dầu tài công
đã lái vô sát bờ cho xa tàu cao tốc.
Chị Ba, một việt kiều Úc sợ quá mới hỏi
:”Quang à, anh lái tàu nầy có bằng lái
hay không ?.
Lái tàu là một anh chàng Campuchia
chừng 25 tuổi.
Quang cười và trả lời: “Ảnh có bằng lái
chớ. Và do ... tôi cấp”.
Chị Ba sợ quá đòi lái vô.
Tôi mới chọc chị:“Chị nhác quá, sao
hồi xưa bắt mấy đứa nhỏ vượt biên ?”
Chị Ba mới nói: “Tại hồi đó khổ quá,
bây giờ nghĩ lại còn kinh hoàng”.
Chỉ cho chị Ba một chiếc ghe nhỏ xíu, trên
ghe có ba em bé (hình như là người Việt) đang
chèo chống bập bềnh trên sông nước, tôi nói:
“Tụi mình còn thua ba em nhỏ kia”. Chúng gan dạ quá.
Dân Biển Hồ mà. Chèo ghe đi trên sông nước
là “nghề của chàng”. Ba em nầy cũng thân thiện. Chúng
vừa chèo ghe lại vừa vẫy tay chào những du khách không
quen là chúng tôi. Điều nầy khiến cho chúng tôi
một có một cảm giác gần gũi.
Tàu chạy ngang qua mấy nhà hàng của
người Campuchia, sau đó thì ra tới hồ. Ra tới đây tôi
thấy có nhiều tàu đánh cá loại nhỏ và
nhiều ghe nhỏ bán trái cây, đồ kỷ niệm ... Sau đó
thì thấy mênh mông nước nổi nhìn không thấy
chân trời. Đúng là Biển Hồ rất rộng. Bốn phương chỉ thấy
toàn là nước. Nước ngoài Biển Hồ tuy cũng có
phù sa và có màu vàng nhạt nhưng cũng
trong và sạch hơn nước ở gần bờ. Trong đó nước đục và
dơ hơn nhiều. Đi thêm một đoạn ngắn nữa thì thấy sóng
nước bao la và không có gì thú vị nên
mấy người trong đoàn đề nghị không đi nữa mà quay lại.
Trên đường trở vô, chúng tôi
thấy rất nhiều du khách trên các tàu khác
đi ra. Họ là người Việt, người Tây Phương, mà cũng có
người Campuchia nữa. Tàu cặp vào một nhà hàng
nổi trên hồ để chúng tôi lên nghỉ ngơi một chút.
Ở đây có bán đồ kỷ niệm và có nuôi
cá trong lồng. Có một lồng nuôi rất nhiều cá sấu.
Mấy con cá sấu nầy còn nhỏ, bề dài mới chừng 1 mét
mà thôi. Nghề nuôi cá sấu ở Biển Hồ hiện đang phát
triển và chủ nhân cũng kiếm được nhiều lợi tức. Ở Việt Nam người
ta cũng nuôi nhiều cá sấu. Mới đây do lũ lụt mà
cá sấu bị xổng chuồng ra ngoài hết mấy trăm con. Không
biết người ta có bắt lại hết hay không. Cá sấu mà
sống ngoài thiên nhiên thì có thể gây
hoạ như chơi.
Mấy em nhỏ bơi xuồng cặp vào đây để bán
chuối và xin tiền. Thấy tội nghiệp, bà xã tôi
cho tiền mấy đứa. Một lát sau, cả một “tiểu đoàn” tàu
nhỏ từ mấy xóm chung quanh kéo ra bu quanh. Có đứa không
có ghe mà chỉ ngồi trên một chiếc thau nhỏ. Vậy mà
cũng bơi được tới đây. Có đứa bị cụt tay chỉ chèo có
một tay. Bà xã tôi đã chuẩn bị tiền lẻ nên
phát đều hết. Mỗi em một đô. Mấy việt kiều khác ở Úc,
Pháp cũng cho tiền các em. Vì tình thương, họ
đã quên hết lời dặn dò của hướng dẫn viên Nguyễn
Hoàng. Số tiền không lớn nhưng hy vọng các em sẽ có
một niềm vui nhỏ trong ngày hôm nay.
Tò mò tôi hỏi một em bé kia
trông khá lanh lợi: “Có tiền thì em sẽ làm
gì ?”.
Em nói: “Đem về đưa cho ba mua gạo”.
Tôi hỏi tiếp:” Còn ba em đang làm
gì ?”
“Ba mắc đi làm biển”. Em trả lời như vậy.
Mùa nầy nước lớn, dân Biển Hồ bận rộn suốt
ngày. Họ là những “bạn biển” tức là những làm
mướn trên các tàu đánh bắt hải sản, sau đó
làm cá, bỏ ruột, phơi khô ... Cả nhà, ai trên
10 tuổi đều phải làm việc. Công việc không khó
nhưng phải làm suốt ngày đêm để kiếm sống. Bởi vậy nên
mới có câu than rằng:
Biển Hồ cực
lắm ai ơi
Ban đêm xẻ cá,
ban ngày phơi khô.
Tàu rời tiệm giải khát và bán
đồ kỷ niệm. Mấy em bé vẫy tay chào chúng tôi,
chúng nói: “Chúc các cô chú mạnh
khoẻ. Cám ơn các cô chú. Chúc mừng năm
mới”.
Câu cuối cùng là câu chúc
trật lất nhưng cũng làm cho chúng tôi hơi vui trên
đường về vì mấy đứa nhỏ tuy ít học nhưng cũng biết cám
ơn. Tuy vui nhưng trong lòng chúng tôi có
đôi chút xót xa cho thân phận người Việt ở đây.
Có lẽ đây là xóm người Việt nghèo nhứt
trong các cộng đồng người Việt trên thế giới.
Người Việt ở Campuchia:
Đi thăm Biển Hồ xem sinh hoạt người địa phương đã
khiến tôi tò mò. Sau nầy khi về Mỹ tôi đã
tìm đọc thêm về người Việt ở Campuchia và đặc biệt là
ở Biển Hồ:
Những người Việt đầu tiên tới Campuchia chính
là đoàn tuỳ tùng của Công Chúa Ngọc Vạn,
con của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, khi cô
được gã cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II năm 1620.
Người Việt lúc đó có ảnh hưởng mạnh đến triều đình
Chân Lạp. Từ đó về sau, di dân Việt liên tục đến
Campuchia. Có khi họ ra đi do sự bạc đãi của chánh quyền
trong nước như vụ cấm đạo thời Tự Đức hay các biến cố chánh
trị thời Đệ Nhứt Cộng Hoà. Nhưng di dân Việt đến Campuchia nhiều
nhứt là để làm ăn buôn bán do biên giới
hai bên lỏng lẻo và do tình trạng tham nhũng của chánh
quyền Campuchia. Sau khi Khmer Đỏ bị lật đổ , từ năm 1979 đến 1989, di dân
Việt qua Campuchia rất mạnh. Tuy nhiên, không có con số
chánh thức nào thống kê. Có người nói dân
Việt ở Campuchia ước chừng 1,5 triệu. Con số nầy có thể hơi cao so
với dân số hiện nay của Campuchia là khoảng 13 triệu. Có
lẽ do đi đâu cũng thấy dân Việt và việc giao dịch bằng
tiếng Việt khá phổ biến nên họ nói như vậy.
Từ những di dân ban đầu đã sinh ra thế hệ
thứ hai, thứ ba... sinh đẻ tại đây. Những người nầy có thể biết
nói tiếng Việt nhưng không còn gốc gác Việt Nam
nữa.
Người Việt ở Campuchia làm đủ mọi nghề. Ở Nam Vang,
họ buôn bán, làm thợ sửa xe, thợ mộc, thợ hồ ... Ở Biển
Hồ họ làm “bạn biển” tức là làm nghề cá. Họ đi
ghe, cào cá, lưới cá, nuôi cá bằng bè,
làm khô làm mắm... Ở Biển Hồ, người Việt chịu khó
và giỏi hơn người Khmer nhiều. Một nghề khá phổ biến do người
Việt làm ở Campuchia là nghề ép chai tức là mua
ve chai, đồ cũ. Tuy nhiên, cũng phải nói thật là ở Campuchia
có rất nhiều cô gái Việt làm nghề không
đứng đắn tức là thứ nghề không cần vốn. Thậm chí, có
khi trẻ em còn bị lạm dụng tình dục nữa. Thực trạng nầy là
một điều đau lòng mà không biết ai sẽ là người
giải quyết. Bởi vậy từ xưa đã có câu:
Biển Hồ đi dễ khó
về
Trai đi “bạn biển”,
gái về tào kê.
Bạn biển thì biết rồi còn “tào kê”
phải chăng là để ám chỉ cái nghề không vốn ?
Di dân Việt ở Campuchia qua các thời kỳ còn
phải chịu nhiều kỳ thị và phân biệt đối xử. Chúng ta
còn nhớ thời Lonnol đã xảy ra vụ “cáp duồn” đầy kinh
hoàng. Bạn nào muốn tìm hiểu thêm có thể
đọc thiên hồi ký đầy nước mắt của Nguyễn Huỳnh Mai trên
internet theo địa chỉ: www.nguyenhuynhmai.com. Đại khái thời đó
dân Việt bị cấm làm ăn nhiều nghề, ra đường thì bị kỳ
thị, chèn ép, thậm chí không dám nói
tiếng Việt. Thời Pol Pot cũng không khá hơn bao nhiêu.
Trong nhà tù Toul Sleng tức S.21 ở Nam Vang còn không
ít hình ảnh người Việt bị giết chết ở đây. Ngay cả ở
thời đại ngày nay, vấn đề kỳ thị cũng còn lai rai. Nhứt là
vào các mùa bầu cử, những đảng phái đối lập như
Sam Rainsy, Funcinpec ... lại khơi lại chiêu bài chống Việt
Nam mà Việt kiều chính là nạn nhân của họ.
Người Khmer ít chịu cực, thiếu chịu khó
suy nghĩ tìm tòi học hỏi. Họ không có kỷ luật,
kém ý thức về giao thông ... Trong khi đó người
Việt cần cù, chịu khó, sáng trí, siêng
năng nên họ sống ở Campuchia tương đối dễ dàng. Do đó
tuy có bị phân biệt đối xử đôi chút họ cũng chịu
ở lại để làm ăn. Thật ra, nếu họ về nước thì biết làm
gì khi không có người thân giúp đỡ. Có
nhiều người Việt nhờ giỏi làm ăn mà đã trở nên
giàu có lớn như đại gia Sok Kung đã nói ở phần
trên. Một ông nữa tên là Sieng Nam đã làm
tới nghị sĩ của Campuchia. Còn đa số dân Việt ở Campuchia có
cuộc sống nghèo nàn và cực khổ. Cộng đồng Việt ở nước
ngoài có giúp xây một trường học ở Biển Hồ để
giúp các em nhỏ có dịp đến trường để biết làm
toán , biết đọc, biết viết tiếng Việt. Chúng học tới lớp 5
thì nghỉ để phụ giúp gia đình. Tương lai của người Việt
ở Biển Hồ rõ ràng không xán lạn chút nào.
*****
Chuyến du ngoạn Biển Hồ thật ra chỉ là một chuyến
đi khám phá vì tò mò, chớ thật ra, ở đó
chẳng có cảnh trí đẹp đẽ gì. Tôi nghe loáng
thoáng nhiều người trong đoàn tỏ ý không thích
lắm.
Về tới khách sạn thì đã 2 giờ trưa.
Chúng tôi lại có 1 giờ để nghỉ ngơi. Đúng 3 giờ
sẽ có mặt trước khách sạn để đi thăm Angkor Wat. Chương trình
đi chơi hôm nay cho du khách nghỉ hơi nhiều. Do đó mà
chiều nay không đủ thời gian để xem Angkor. Chuyện nầy sẽ nói
tiếp trong bài sau ...
(Trích Á Châu Quyễn rũ - tập 2)